Đoan Trang - Kinh tế học dành cho luật sư (bài 1)

<blockquote><strong>Đoan Trang -</strong> Có lẽ không nhiều người
biết rằng giữa luật pháp và kinh tế có một mối quan hệ
gắn kết chặt chẽ: Sinh viên luật và những người nghiên
cứu luật pháp nói chung, nếu muốn hiểu đầy đủ, tường
tận về luật pháp và hệ thống luật pháp phù hợp cho xã
hội, thì phải có kiến thức cơ bản về kinh tế. Và ngược
lại, để một nền kinh tế vận hành tốt – như ý muốn của
sinh viên kinh tế và những người nghiên cứu kinh tế học nói
chung – thì xã hội bắt buộc phải có một hệ thống luật
pháp tốt. Do đó, giới luật cần hiểu về kinh tế học và
giới kinh tế học cũng phải hiểu về luật.

Nhằm "bắc cầu nối" giữa hai lĩnh vực này cho sinh viên
của cả hai giới, LKTC sẽ đăng tải một số bài về kinh tế
luật, trích từ cuốn giáo trình "Principles of Law and Economics"
[Các nguyên tắc luật về kinh tế] (2005) của Giáo sư Luật
Daniel H. Cole và Giáo sư Kinh tế Peter Grossman. Nội dung của sách
là những bài giảng rất dễ hiểu nhằm trang bị kiến thức
kinh tế căn bản cho người học luật, và ngược lại. Tựa
đề của loạt bài, "Kinh tế học dành cho luật sư", do LKTC
đặt.</blockquote>

<center> * * *</center>

<strong>Đoan Trang (dịch) – </strong>Cũng như với kinh tế học,
luật pháp và các định chế pháp lý chủ yếu xoay quanh vấn
đề "sự khan hiếm". Nếu tất cả các hàng hóa đều thừa
thãi, thì luật pháp và các định chế pháp lý thiết lập nên
các nguyên tắc về sở hữu và chuyển nhượng đều trở nên
không còn cần thiết nữa cho hoạt động trao đổi mua bán trên
thị trường. Giả sử rằng vàng không khan hiếm. Vậy có lý do
gì để phải ra luật bảo vệ các quyền sở hữu liên quan
đến vàng? Bất kỳ ai muốn có vàng (hoặc có nhiều vàng hơn)
đều chỉ việc cúi xuống mà nhặt vàng lên. Vì lẽ đó, sẽ
không còn ai bận tâm vào việc lấy vàng của người khác. Và
nếu có ai lấy vàng của người khác thật đi nữa, "nạn
nhân" cũng chẳng phàn nàn, bởi vì một lượng vàng vô hạn
vẫn còn đó để họ có thể xúc đi với chi phí gần như
bằng 0.

Tuy nhiên, khác với trong kinh tế học, ở đây, sự khan hiếm
không phải là nền tảng của <em>toàn bộ </em>luật pháp. Luật
pháp bàn về nhiều thứ hơn là chỉ xoay quanh việc phân bổ
quyền sở hữu các nguồn lực khan hiếm cho các mục đích sử
dụng và người sử dụng hữu hạn. Cũng như với kinh tế
học, luật pháp liên quan đến khái niệm "tính hiệu quả",
nhưng không phải chỉ có thế. Phạm vi của luật pháp còn bao
gồm cả đạo đức: khuyến khích hành vi "đúng" và kiềm
chế hành vi "sai". Chẳng hạn, nếu luật cấm việc giết
người thì đó đúng là "hiệu quả", nhưng sẽ là sai nếu
chúng ta cho rằng luật pháp cấm giết người vì cần "hiệu
quả" hoặc chỉ vì lý do đó mà thôi. Luật pháp cấm giết
người bởi vì giết người là "sai", trừ trường hợp để
tự vệ, trong hoàn cảnh chiến tranh, hoặc vì một số lý do có
thể được miễn trách khác. Luật hình sự, theo truyền thống,
luôn phân định giữa hành vi phạm tội có tính chất <em>malum
per se </em>(vào bất cứ khi nào, ở bất cứ đâu đều là xấu)
và hành vi phạm tội có tính <em>malum prohibitum </em>(xấu vì
luật pháp định rằng như thế là xấu). Sự phân định này
phản ánh một sự phân biệt sâu sắc hơn giữa các tội ác đi
ngược lại đạo đức và tội ác chỉ đi ngược lại lợi
ích của xã hội.

<div class="boxcenter500"><img
src="http://luatkhoa.org/wp-content/uploads/2014/10/baocapchuan.jpg"
width="640"><div class="textholder">"Kinh tế học là bộ môn nghiên
cứu về cách xã hội phân bổ các nguồn lực khan hiếm"
(định nghĩa của Greg Mankiw).</div></div>


<strong>Mục đích của luật pháp</strong>

Các quy tắc pháp lý đều có mục đích tổ chức hành vi cá
nhân và cấu trúc các tương tác trong xã hội. Trên lý thuyết,
luật pháp trừng phạt hành vi "xấu" và khuyến khích hành vi
"tốt". Thực tế tất nhiên phức tạp hơn. Một mặt,
"xấu" hay "tốt có thể là tùy quan điểm của người
đánh giá. Hơn thế nữa, các quy tắc luật pháp thường là
kết quả của những ván bài hay mâu thuẫn phức tạp giữa các
nhóm lợi ích khác nhau – tức là những nhóm người có lợi
ích liên quan đến kết quả đó. Đối với các nhóm ấy,
"mục đích" của luật pháp có thể chỉ là làm sao đạt
được quyền lực chính trị và kinh tế. Từ quan điểm kinh
tế học, mục đích căn bản, thuần túy của luật pháp là
tạo thuận lợi cho sự trao đổi, mua bán, bởi vì lợi ích từ
thương mại làm gia tăng phúc lợi xã hội.

<strong>Các định chế luật pháp, hay là luật chơi</strong>

<strong>Các quy tắc pháp lý</strong>

Trong suốt lịch sử, <em>luật pháp</em> từng được định
nghĩa theo rất nhiều cách. Theo một định nghĩa chung, luật
pháp chỉ đơn giản là những mệnh lệnh được hậu thuẫn
bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Oliver Wendell Holmes
có một định nghĩa nổi tiếng về luật, rằng đó chẳng là
cái gì khác ngoài một sự tiên đoán xem tòa án sẽ ra phán
quyết như thế nào trong một vụ việc xảy ra sau đó. Một quan
điểm khác, có liên quan đến nhà kinh tế Douglass North, định
nghĩa luật pháp là <em>các định chế </em>bao gồm các quy tắc
<em>chính thức </em>của cuộc chơi, nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội (kể cả kinh tế). Không định nghĩa nào trong
số này tự nó là đầy đủ, nhưng chúng không loại trừ lẫn
nhau. Có thể kết hợp chúng lại để định nghĩa luật pháp
là một sự tiên đoán về những gì tòa án sẽ quyết định,
với ý thức rằng quyết định của tòa án sẽ được hậu
thuẫn bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước (trong đó có
các thẩm phán của nhà nước), trở thành một định chế –
tức một "luật chơi" chính thức – điều chỉnh các hành
vi ứng xử trong tương lai.

Đằng sau các quy tắc của cuộc chơi này là các <em>siêu quy
tắc </em>của cuộc chơi, tức là các quy tắc về quy tắc.
Những quy tắc cấp hai đó điều chỉnh quy trình tạo ra các quy
tắc pháp lý. Hiến pháp Mỹ chẳng hạn, cung cấp các siêu quy
tắc điều chỉnh tiến trình lập pháp: để các đạo luật
trở thành luật, cả hai viện của quốc hội đều phải phê
chuẩn chúng với đa số phiếu, và tổng thống phải ký. Nếu
tổng thống không ký một đạo luật nào đó thì nó vẫn có
thể trở thành luật nếu quốc hội thắng được quyền phủ
quyết của tổng thống với hai phần ba số phiếu. Tiến trình
tư pháp cũng được điều chỉnh tương tự bởi các siêu quy
tắc luật pháp với nhiều chức năng, trong đó có chức năng
phân tán trách nhiệm chứng minh ("burden of proof", tức là
trách nhiệm tìm bằng chứng hoặc nghĩa vụ phải chứng minh
điều gì đó – ND) và xây dựng các chuẩn mực về xác định
thế nào là bằng chứng.

Định nghĩa mang tính nguyên tắc này về luật pháp rõ ràng
khiến chúng ta phải băn khoăn về một sự hiểu lầm phổ
biến về mối quan hệ giữa thị trường và hệ thống luật
pháp, và băn khoăn đó của chúng ta là cần thiết. Nhìn chung,
quan điểm về một thị trường được điều tiết bởi luật
pháp chứa đựng ý nghĩa tiêu cực về một sự hạn chế
quyền tự do giao dịch. Tuy nhiên, nếu chỉ coi luật là "quy
tắc của cuộc chơi", thì rõ ràng là một số luật định
về thị trường là vừa tất yếu vừa có lợi, ít nhất là
trong một xã hội không đồng nhất. Thiếu vắng những "quy
tắc của cuộc chơi", mang tính pháp lý, thì các giao dịch
thị trường, trong tình huống tốt nhất sẽ là rối loạn, còn
trong tình huống tệ nhất là bất khả thi, và trong bất kỳ
tình huống nào thì cũng tốn kém cả. Một mức độ điều
tiết chính thức bằng luật pháp nào đó có thể làm gia tăng
một cách tích cực tự do và các quyền tự do.

Hãy xem quy tắc pháp lý quy định rằng xe hơi phải đi lề
đường bên phải. Xét chỉ trên một khía cạnh, nó là một quy
định hạn chế quyền tự do; nó ngăn trở những người muốn
đi lề đường bên trái. Nhưng xét tổng thể, quy tắc này gia
tăng tự do, bằng cách tạo ra một "quy tắc đi đường" rõ
ràng, làm giảm chi phí phối hợp giữa tất cả những người
lái xe. Nó làm giảm đáng kể chi phí giao dịch bằng cách xóa
bỏ cái nhu cầu của hàng triệu cá nhân lái xe là phải thỏa
thuận với nhau về việc đi đường bên nào để tránh tai
nạn. Chừng nào những "quy tắc của cuộc chơi" được thể
chế hóa chính thức đó còn là thiết yếu đối với các giao
dịch trên thị trường, chừng đó sự phân biệt truyền thống
giữa thị trường và chính quyền, <em>thị trường đối lập
với chính quyền</em>, còn sai. Câu hỏi thực sự cần đặt ra
là: Cấu trúc pháp lý phù hợp để tổ chức các hành vi cá
nhân và quan hệ xã hội là gì? Hãy lưu ý xem câu hỏi này
thật ra phản ánh cái vấn đề mà lý thuyết về chi phí cơ
hội đặt ra cho kinh tế học như thế nào. Cũng cần chú ý
rằng câu trả lời cho câu hỏi đó chắc chắn sẽ thay đổi
theo thời gian, khi mà hoàn cảnh thay đổi. Do đó, luật pháp
không phải là một định chế tĩnh. Nó tiến triển, thích nghi
với các điều kiện và áp lực luôn thay đổi trong xã hội
cũng như với các tiến bộ về công nghệ.

<em><strong>(còn tiếp)</strong>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141106/doan-trang-kinh-te-hoc-danh-cho-luat-su-bai-1),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét