GS Nguyễn Văn Tuấn - Nền giáo dục miền Nam 1954-1975

Tôi là một "sản phẩm" của nền giáo dục miền Nam thời
trước 1975 (VNCH). Nhưng dữ liệu về nền giáo dục đó rất
khó tìm. Hôm nay đọc được một bài về giáo dục miền Nam
của tác giả Trần Văn Chánh. Bài viết có vài số liệu, nên
tôi muốn cóp về trang blog để tham khảo. Bài rất dài, nên
tôi xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn quan tâm. Tôi trích
dưới đây vài dữ liệu trong bài viết của tác giả TVC.

Bây giờ nhìn lại và nói cho công bằng, những bậc tiền nhân
VNCH đã tạo được "nền nóng" tốt cho nền giáo dục thời
VNCH. Trường học phát triển khắp nơi. Thời đó đã có những
trường cao đẳng cộng đồng (kiểu Mĩ) ở nhiều tỉnh vùng.
Mỗi tỉnh có một trường kĩ thuật (như Nông Lâm Súc – đại
học Nông Lâm ngày nay). Sinh viên được tuyển chọn thích hợp
và khắt khe, nên đến năm 1975 cũng chỉ có 150 ngàn người.
Sinh viên sư phạm được tuyển chọn rất nghiêm ngặt, và khi
tốt nghiệp họ được xã hội kính trọng, đúng với tinh
thần "tôn sư trọng đạo". Các giáo sư (rất ít) được tiến
phong đàng hoàng. Đặc biệt là giáo dục đại học đã được
tự chủ (khái niệm mà bây giờ VN đang bàn cãi!) Đặc biệt
quan trọng là nền giáo dục đó có tự do học thuật khá tốt,
chứ không bị chính trị hoá như hiện nay. Đọc đoạn cuối
(tôi trích trong note) chúng ta thấy ngay cả ông tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu cũng phải chào thua quyết định của hiệu
trưởng Đại học Đà Lạt. Thời đó dĩ nhiên không có chuyện
"cử tuyển" hay "nâng cấp". Chúng ta còn nhớ Gs Phạm Biểu Tâm
không nhận con gái của ông Ngô Đình Nhu vào học trường y vì
cô ấy thiếu điểm.

Nhìn lại mà thấy luyến tiếc. Nếu nền giáo dục đó còn
tồn tại, biết đâu ngày nay VN đã thành "rồng" hay "cọp" theo
cách nói của báo chí phương Tây.

<strong>Nguyễn Văn Tuấn</strong>

<blockquote>P/S: Tôi nhớ hoài thời tôi vào học đại học thời
đó. Ngày đầu tiên vào lớp học tôi thấy một tay ăn mặc
rất ngon lành, áo vô quần, hắn ngồi chễm chệ trên bàn chỗ
thầy ngồi, và phía sau lưng là tấm bảng đen. Tôi là một sinh
viên nói theo cách nói thời nay là gốc Hai Lúa, mới lên thành
chẳng bao lâu, tôi thấy hắn sang quá và tưởng hắn là thầy
nên cung kính chào. Hắn nhìn tôi cười cười và chẳng nói gì.
Đến khi thầy thật vào tôi mới biết hắn là học trò như
mình. Tôi vừa tức anh ách, vừa giận mình sao mình quê mùa
đến thế. Thế mà sau này tôi và hắn trở thành bạn thân. .
</blockquote>
====

http://tuanvannguyen.blogspot.com.au/…/nen-giao-duc-mien-na…

"Về bậc Tiểu học, trong niên khóa 1960-1961, sĩ số học sinh
ghi danh học bậc Tiểu học là 1.277.802 em, đến niên khóa
1969-1970, con số này lên tới 2.422.701 em, đã tăng thêm được
1.144.899 học sinh tiểu học. Số giáo viên tiểu học cũng đã
tăng từ 24.335 vị lên 46.554 vị. Trường ốc tiểu học từ
6.111 tăng lên 7.452 trường.

Về bậc Trung học, sĩ số học sinh cũng đã tăng từ 203.760 em
lên đến 6.36.921 em đồng thời với số giáo viên tăng từ
16.607 lên 17.249 vị. Số trường trung học đã từ 418 trường
vào năm 1961 tăng lên 804 trường vào cuối năm 1970.

Về Trung học Kỹ thuật và Chuyên nghiệp, niên khóa 1960-1961 là
3.634 em, đến niên khóa 1969-1970 đã tăng lên 10.315 em. Giáo sư
từ 231 vị trong niên khóa 1960-1961 tăng lên 1.200 vị vào cuối
năm 1970. Số trường ốc tăng từ 11 lên đến 44 trường trong
thập niên vừa qua.

Về ngành Đại học phổ thông, sĩ số ghi tên theo học đã
tăng từ 13.035 sinh viên trong niên khóa 1960-1961 lên đến 46.054
sinh viên trong niên khóa 1969-1970. Giáo sư đại học tăng từ 465
vị lên đến 1.247 vị. Số viện đại học trong nước từ 3
viện tăng lên đến 5 viện trong niên khóa 1969-1970.

Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở
miền Nam là khoảng 150.000 người, không tính các sinh viên theo
học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại
học cộng đồng (Nguyễn Văn Canh, Vietnam Under Communism 1975-1982,
tr. 156, dẫn lại theo "Giáo dục Việt Nam Cộng hòa", Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia)."

Nhận xét của tác giả:

" Mức lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250,
giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư Trung học Đệ nhất
cấp hạng 4 là 400, giáo sư Trung học Đệ nhị cấp hạng 5 là
430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản này, cộng thêm
phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất
Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể thuê được
người giúp việc trong nhà. Tình hình tốt đẹp này có thể
nói chỉ bắt đầu sa sút với đời sống chật vật tăng dần
từ khi chiến tranh leo thang ác liệt đi cùng với những cuộc
xào xáo chính trị nội bộ diễn ra liên tục từ sau cuộc
đảo lộn chính trị năm 1963. Tuy vậy, một cách chung, giới
nhà giáo miền Nam căn bản vẫn giữ được lòng tự trọng và
cung cách mô phạm, từ cách ăn mặc cho đến nói năng, giao
thiệp với mọi người trong xã hội."

"Nền giáo dục miền Nam vận hành trên cơ sở chế độ dân
chủ tự do. Do Hiến pháp công nhận, các viện đại học cả
công lẫn tư được quyền hoạt động độc lập và tự chủ,
gọi là tự trị đại học (tương đương với khái niệm
"tự chủ đại học" bây giờ), đặc biệt về học vụ
không có sự can thiệp từ ngoài, không có bộ nào chủ quản,
kể cả Bộ Quốc gia Giáo dục. Hội đồng Khoa (đứng đầu là
Khoa trưởng) của mỗi trường đại học gồm những giáo sư,
học giả uyên bác có nhiệm vụ soạn thảo chiến lược và
chương trình đào tạo của trường mình.

Nhà trường hoạt động theo cơ chế tập thể lãnh đạo (Hội
đồng Khoa) và cá nhân phụ trách (Khoa trưởng). Viện trưởng
chịu trách nhiệm lãnh đạo chung toàn viện về học vụ, hành
chánh, tài chánh, ngoại giao và kỷ luật, cũng như về đường
hướng/ kế hoạch phát triển tổng quát.

Trong khuôn khổ tự trị đại học, sinh viên được sống trong
môi trường học tập và sinh hoạt khác hẳn so với thời trung
học. Ở hầu hết các trường/ phân khoa đại học, sinh viên
không bị ràng buộc vào khuôn khổ, không bị điểm danh (nghĩa
là không bắt buộc phải dự lớp nghe giảng), mà chỉ cần sự
tự giác với kết quả học tập được đánh giá qua các kỳ
thi quy định. Sinh viên được xem là trí thức trẻ, nên với
truyền thống dân chủ học đường, nhà trường tạo mọi
điều kiện cho họ được tự do hoạt động trong khuôn khổ
nội quy của trường và không can thiệp vào việc nội bộ của
họ. Bên trong nhà trường đại học, người sinh viên được
quyền tự do nói lên tiếng nói của mình về mọi vấn đề
của đất nước và của xã hội đương thời, miễn không trái
quy định của luật pháp là được.

Với tinh thần tự trị đại học, ít nhất về phương diện
học vụ, các trường đại học đều được tự do thiết lập
chương trình giảng dạy và học tập/ nghiên cứu riêng, không
bị lệ thuộc bởi bất kỳ một kiểu "ban tuyên giáo" nào.
Điều này có nghĩa cả ở các môn khoa học xã hội (Văn
chương, Sử học, Triết học …), giáo sư được quyền tự
biên soạn giáo trình tùy theo lĩnh vực tâm đắc của mình,
muốn dạy gì dạy nhưng phải được sự chấp thuận của Khoa
trưởng, và đương nhiên, do sự đối đầu giữa hai hệ thống
ý thức hệ Nam-Bắc lúc bấy giờ, miễn không lợi dụng giảng
đường để tuyên truyền trực tiếp cho "cộng sản" là
được! Nhờ vậy, ngành Đại học phát triển khá tự do, tạo
điều kiện cho mọi giáo sư, sinh viên được quyền nghiên
cứu, sáng tạo, phát biểu tư tưởng và thậm chí… lập
thuyết! Sinh viên nào làm bài thi trái ý thầy trong các bộ giáo
trình, có khi còn được điểm cao hơn.

Đương nhiên, tính độc lập của một viện trưởng viện
đại học đối với nhà cầm quyền còn phải cao hơn. Trong
một tập hồi ký (chưa xuất bản) của mình, Dương Văn Ba,
cựu dân biểu Hạ viện phái đối lập thời Việt Nam Cộng
Hòa, kể chuyện khoảng tháng 9.1968, Viện Đại học Đà Lạt
tổ chức lễ tốt nghiệp khóa đầu tiên (1964-1968) của
trường Đại học Chính trị Kinh doanh (thuộc Viện Đại học
Đà Lạt). Trong buổi lễ, Viện mời tác giả với tư cách cựu
sinh viên về họp mặt và phát biểu cảm tưởng, đồng thời
cũng có mời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến tham dự. Khi
biết có kẻ "đối lập" sắp phát biểu trước mặt mình,
ông Thiệu lễ phép tỏ ý không hài lòng với linh mục Viện
trưởng Nguyễn Văn Lập, nhưng linh mục vẫn lịch sự thưa
lại rằng chương trình đã lỡ sắp đặt: "Với tư cách
Viện trưởng Đại học, tôi không thể hủy bỏ việc đó
[tức việc phát biểu cảm tưởng của Dương Văn Ba] vì phải
tôn trọng danh dự cựu sinh viên, cũng là bảo vệ danh dự của
Viện trưởng Đại học Đà Lạt. Xin Tổng thống tha lỗi".
Rồi tác giả tập hồi ký kết luận cho câu chuyện mình vừa
kể: "Thái độ của cha Lập đối với người đứng đầu
chính quyền Sài Gòn lúc đó rất thẳng thắn, nói lên quan
điểm về tự trị đại học, truyền thống của nhiều quốc
gia trên thế giới. Đại học đào tạo nên những con người
cho tương lai, chứ không phải đào tạo nên con người thời
vụ…" (Dương Văn Ba, Những ngã rẽ, tr. 123-125). "

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20150104/gs-nguyen-van-tuan-nen-giao-duc-mien-nam-1954-1975),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét