Nguyễn Văn Trần – Nhìn lại CCRĐ Miền Bắc và cải cách điền địa Miền Nam

Bao giờ tội chống nhân loại của Hồ Chí Minh và tập đoàn
cầm quyền cộng sản Hà Nội được đem ra xét xử? (*)

<img src="http://vietcongonline.files.wordpress.com/2014/09/1274.jpg?w=700"
></a>
<em><center>Bảng điều tra ruộng đất.
Cải cách ruộng đất. Ảnh tư liệu từ Google.</center></em>

Chiến tranh chống thực dân pháp giành độc lập kết thúc
bằng Hiệp định đình chiến ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954
tại Genève chia Việt nam làm hai Miền riêng biệt. Miền Bắc
theo chế độ cộng sản dưới quốc hiệu Việt nam Dân chủ
Cộng hòa. Miền Nam đứng về phía thế giới tự do.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, một cuộc trưng cầu dân ý đã
được tổ chức tại Miền Nam và kết quả đã đưa tới
truất phế Vua Bảo Đại. Triều đại Nhà Nguyễn thật sự
chấm dứt. Hiến pháp 26 tháng 10 năm 1956 tấn phong ông Ngô
Đình Diệm lên làm Tổng thống Miền Nam và thành lập nước
Việt Nam Cộng hòa thay vì tổ chức bầu cử như Hiến pháp qui
định.

Chín năm chiến tranh giải thực kết thúc, hòa bình trên 2
miền Nam Bắc được tái lập. Chánh quyền 2 Miền đều dồn
nổ lực tái thiết đất nước theo đường lối riêng của
mỗi chế độ chánh trị. Phát triển kinh tế là ưu tiên mà
Chánh sách về Ruộng đất là quan trọng vì Việt Nam vốn là
xứ nông nghiệp. Ruộng đất nuôi sống gần 80% dân Việt Nam.
Có một Chánh sách Ruộng đất tốt, hài hòa, hợp lý là thiết
yếu để xóa bỏ những bất công xã hội do chế độ thực
dân tạo ra từ khi Việt nam bị đô hộ.

Ở Miền Bắc, Hồ chí Minh thực hiện chánh sách về ruộng
đất gọi là "Cải cách Ruộng đất" còn ở trong Miền nam
gọi là "Cải cách Điền địa".

Chúng ta thử nhìn lại và so sánh hai chánh sách về đất đai
của hai Miền, nêu lên những đặc tính và mục tiêu của chánh
sách ấy.

I – Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc

1 – Tình hình mới, nhiệm vụ mới

Năm 1950, Hồ Chí Minh qua Nga, yết kiến Staline với sự hiện
diện của Mao-trạch-đông. Staline chỉ ông 2 cái ghế và nói
"đây là ghế địa chủ, đây là ghế nông dân. Ông chọn
ngồi vào ghế nào?"

Trở về nước, Hồ Chí Minh không thuật lại với cán bô
nồng cốt của ông là ông đã chọn chiếc ghế nào mà chuẩn
bị ngay việc thực hiện cải cách ruộng đất bắt đầu bằng
chuẩn bị tư tưởng cán bộ đảng viên để trong công tác,
cán bộ sẽ không bị giao động. Ông đưa ra nhận xét tình
hình thế giới thuận lợi. Mao-trạch-đông thắng lợi ở Tàu
và thiết lập xong chế độ cộng sản trên cả nước. Cách
mạng việt nam đang trên đà thắng lợi. Duy còn khó khăn nhỏ
là Mỹ giúp thực dân pháp đánh phá đoàn kết dân tộc. Muốn
thắng lợi hoàn toàn, ta phải cùng với nhân dân thực hiện
một chế độ dân chủ nhân dân, tăng cường đoàn kết toàn
dân, liên kết chặt chẽ với phe xã hội chủ nghĩa.

Cuối năm 1952, Hồ Chí Minh cho tiến hành cải cách ruộng đất
ở những vùng tạm chiếm như Thái nguyên, Thanh hóa,… Nhiều
cuộc hành huyết địa chủ bắt đầu trước ở Thanh hóa đã
làm kinh hoàng dân chúng, lan rộng đến những vùng "giải
phóng" khác. Kịp gần đến ngày ký Hiệp định Genève, Hồ
Chí Minh muốn tránh bị dân chúng bỏ chạy vào Nam vì sợ hải
nên cho lệnh tạm ngưng.

Thật ra, kế hoặch chuẩn bị tư tưởng, Hồ chí Minh đã cho
tiến hành từ lâu. Trước nhất là chính huấn hay đấu chính
trị. Từ 1946 -1949 là chiến dịch phản đế, với khẩu hiệu
"Tổ quốc trên hết", kêu gọi đoàn kết toàn dân gồm trí
thức, tư sản, địa chủ, tôn trọng tư hữu, chỉ nhằm xóa
bỏ ảnh hưởng văn hóa pháp biểu hiện qua tư tưởng lản
mạn, cá nhân chủ nghĩa. Mục đích duy nhứt là chống thực
dân pháp giành độc lập. Hồ Chí Minh giải tán đảng cộng
sản đông dương, thành lập Mặt trận Việt Minh. Giai đoạn
kế tiếp 1950-1956 dành cho chiến dịch phản phong đả phá tư
tưởng phong kiến nặng về tư hữu, nhứt là sở hữu ruộng
đất, trật tự xã hội, giá trị đạo lý cổ truyền để
đề cao và thuyết phục chánh sách Cải cách Ruộng đất sẽ
phát động là đúng, là tốt, ích lợi cho nông dân để mọi
người phải chấp nhận. Phản phong được thực hiện với
khẩu hiệu " đưa phản phong lên ngang hàng với phản đế ",
đồng thời Hồ Chí Minh cho tổ chức đảng Lao động thay thế
đảng cộng sản.

Phản phong khi được phát động, dân chúng đều hiểu đó là
bài trừ những phần tử phong kiến trong đảng hoặc giới quan
lại trong Chánh quyền cũ. Thật ra, phản phong là tiêu diệt
địa chủ, điều này chỉ có cán bộ học tập ở bên Tàu về
để thi hành Cải cách Ruộng đất mới hiểu, nhưng phải
tuyệt đối giử kín. Khóa chính huấn đầu tiên khai giảng năm
1953 ở Miền bắc mới nói rỏ nội dung khẩu hiệu "phản
phong" là đánh địa chủ, tịch thu toàn bộ tài sản của
địa chủ chia cho bần cố nông, tức "Cải cách Ruộng
đất".

Sau phản phong đến chiến dịch bài trừ tư tưởng tư sản,
tự do kinh doanh, tư tưởng dân chủ tư bản tây phương. Tiếp
theo, từ năm 1959, sau khi sửa sai vì xem như Cải cách Ruộng
đất đã thật sự hoàn tất, Hồ chí Minh cho áp dụng chánh
sách triệt để hơn, dẹp bỏ hẳn tư tưởng tiểu tư sản,
mọi hình thức sản xuất cá thể, xử lý những thành phần
chưa chịu vào hợp tác xã, giử đầu óc muốn làm giàu riêng.
Bần cố nông vừa nhận ruộng đất do Cải cách Ruộng đất
cấp phát, nay lại phải đem nộp cho Hợp tác xã và hằng ngày
làm việc theo tiếng kẻng của cán bộ, lảnh lương theo số
công do cán bộ chấm. Đây là lúc " lao động tùy sức,
hưởng thụ tùy khả năng "

2 – Phóng tay phát động quân chúng

Bộ máy tuyên truyền của cộng sản giải thích " Cải cách
Ruộng đất long trời lở đất không do đảng và Nhà nước,
mà do nông dân làm ". Để bắt đầu, Hồ Chí Minh cho tiến
hành trước 2 chiến dịch: thu thuế nông nghiệp và đấu tranh
chánh trị.

Áp dụng thuế nông nghiệp là lặp lại rặp khuôn theo Tàu đã
làm từ 2 năm trước nhằm bần cùng hóa xã hội Việt Nam,
biến nông dân trở thành bần cố nông. Thuế nông nghiệp là 1
trong 5 loại thuế: thuế nông nghiệp, công thương nghiệp, sát
sanh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng – Thuế xuất nhập cảng
là để khôi hài.

- Thuế nông nghiệp – Riêng về thuế nông nghiệp, chúng ta
thử nhìn lại sơ lược để có ý niệm cụ thể nông dân bị
phá sản. Thuế sẽ đánh 5% trên 100 kg lúa, 45% cho 1000 kg lúa
trở lên, tối đa là 64%. Thêm vào đó, nông dân trả phụ thu
cho đảng 15%. Cả 2 thứ thuế phải nộp một lần, cho đảng
và Nhà nước Việt nam dân chủ Cộng hòa và một phần gởi cho
Kominforme làm nghĩa vụ quốc tế.

Thử làm bài toán để biết nông dân nộp bao nhiêu mồ hôi
nước mắt cho thuế nông nghiệp.Chúng ta lấy 1000 kg lúa. Thuế
lấy 45% là 450 kg. Trên số này, nông dân bị trừ 15% thuế phụ
thu là 67,5 kg. Nông dân phải nộp thuế nông nghiệp cho 1000 kg
lúa thu hoặch được là 517, 30kg. Nếu chủ ruộng không trực
tiếp canh tác phải nộp thêm 25% phụ thu nữa.

Diện tích ruộng canh tác và số lúa thu hoặch phải do nông
dân bình. Về diện tích ruộng, không căn cứ theo địa bạ lưu
giữ. Nông dân bình thường được kích lên, tức bình dọc,
bình ngang về diện tích canh tác để qui ra số lúa phải gặt
được để trả thuế.

Còn thuế công thương nghiệp chỉ có 28% trên lợi tức, nhưng
cũng phải do nhân dân bình theo cùng qui cách dọc và ngang.

Tố Hữu, nhà thơ của đảng, được thưởng huy chương Sao
Vàng Hồ Chí Minh, cổ vũ chiến dịch thu thuế trong Cải cách
Ruộng đất:

"Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu,cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt".

Tố Hữu

- Đấu chánh trị – Đấu tranh chánh trị là nhằm thủ tiêu
tất cả phần tử bị xem là phản động. Lúc bấy giờ, dân
chúng ai chống Việt minh thì hoặc bị giết hoặc phải bỏ đi
ra Thành phố sanh sống. Chỉ còn lại những người lưng chừng.
Mà lưng chừng là phản động.

Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu thực chất của « đấu tranh
chánh trị » diển ra liền sau thuế nông nghiệp.

Lợi dụng trong lúc dân chúng còn đang điêu đứng vì thiếu
thuế, cán bộ cho tập họp để giải quyết trường hợp còn
thiếu thuế. Sự thật là nhằm tiêu diệt những thành phần
bị ghi vào danh sách cần phải thanh toán.

Phòng họp trang bị đầy đủ dụng cụ tra tấn. Cán bộ chủ
tịch xã kêu gọi một người thiếu thuế hỏi: " Có phải
thằng X xuôi mày không nộp thuế không? " Tra tấn cho đến khi
nào người này gật đầu để tên X bị bắt.

Đến phiên tên X bị tra tấn: " Mày ở trong tổ chức phản
động nào? Phải trong đó có tên Y không? " Người bị tra
tấn vì đau đớn khai bừa " Tôi ở trong đảng Bảo Đại,
cả đảng Cộng sản nữa ". Nhưng nạn nhơn vẫn bị tra tấn
tiếp cho đến khi nào chịu nói ra tên người đã được cán
bộ mớm trước.

Lúc đầu còn nhớ tên người được dặn trước phải khai,
sau mất tinh thần, nhớ đâu khai đó. Có người khai cả tên
cán bộ chủ tọa phiên đấu chánh trị. Đến đây, đảng
cộng sản nhận thấy nếu kéo dài sẽ gây ảnh hưởng xấu cho
đảng, làm mất lòng tin của nhân dân đối với đảng, Chánh
phủ. Đảng cộng sản bèn cho tổ chức Tòa án nhân dân xét
xử phản động bắt được trong chiến dịch đấu chánh trị
để xác nhận là thật sự có địch trong nông thôn và mặt
khác, đề cao quần chúng là những người luôn luôn sáng suốt,
như Mao-trạch-đông dạy. Trong quá trình đấu chánh trị, nếu
có vài trường hợp phạm sai lầm nhưng phải thấy chủ trương
là đúng:

"…Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quì gục xuống, đọa đày chết thôi"

Xuân Diệu

- Quần chúng phóng tay – Còn Cải cách Ruộng đất thật sự
được tiến hành làm 2 đợt: giảm tô và cải cách. Cải cách
Ruộng đất diển tiến long trời lở đất này đã được nói
nhiều với đầy đủ chi tiết nên thiết tưởng không cần
lập lại thêm nữa. Duy có con số tử vong chính xác của nạn
nhân chưa được xác nhân. Ngày nay, theo báo cáo chánh thức
của Viện thống kê Hà nội***, số tử vong là 172 008 người
trong đó có 70 % bị chết oan ức bao gồm những tiểu địa
chủ bị kích lên cho đủ 5 % theo tiêu chuẩn của Trung quốc qui
định, cả những cán bộ đảng viên đi theo kháng chiến chống
thực dân vì lòng yêu nước tinh ròng không cộng sản. Nhưng con
số tử vong thật sự phải cao hơn. Nhiều người từng sống
trong giai đoạn Cải cách Ruông đất, như nhà báo Bùi Tín, cựu
Phó Tổng biên tập nhật báo Nhân Dân, cho biết, theo ước
tính, con số nạn nhân ít nhất phải lên đến nửa triệu bao
gồm nạn nhân bị hành huyết độc đoán tại hiện trường qua
quyết định của Tòa án nhân dân và những người không bị
hành huyết hoặc gia đình, thân nhân của nạn nhân. Những
người này bị đuổi ra khỏi nhà, tài sản bị tịch thâu,
không có quyền làm việc, bị mọi người xa lánh vì sợ bị
liên lụy với giai cấp địa chủ, lần lược chết vì đói
rét, bịnh tật do chế độ quản lý hộ khẩu. Trong số nạn
nhân này có ít nhất 40 000 đảng viên. Cải cách ruộng đất,
theo Mao-trạch-đông dạy, phải bộc lộ sự tàn ác càng rùng
rợn thì thành công càng lớn.

Mỗi chiến dịch đều được chuẩn bị bằng khóa chính huấn
dạy cán bộ học tập lòng yêu nước, tinh thần cách mạng,
để cán bộ thi hành nắm vững đường lối, chánh sách đúng
theo sách lược mao-trạch-đông. Toàn bộ các chiến dịch đều
đã được thực hiện ở bên Tàu từ mấy năm trước, mệnh
danh là "Chiến thuật mao-trạch-đông" vì Mao-trạch-đông tin
rằng chiến thuật này có thể áp dụng ở các nước kém mở
mang, cơ bản là kinh tế nông nghiệp, để thực hiện cuộc
cách mạng vô sản. Vẫn theo Mao-trạch-đông, chỉ có giai cấp
bần nông và cố nông là lực lượng mạnh nhất,sáng suốt
nhất, có đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản đi
đến thành công. Mà địa chủ là kẻ thù của nông dân. Chỉ
có nông dân mới biết rỏ địa chủ nào là gian ác, và gian ác
đến mức độ nào nên phải phóng tay phát động quần chúng
tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn. Đảng cộng sản
chỉ giử nhiệm vụ hướng dẩn, không trực tiếp lãnh đạo.

Sửa sai vì Cải cách Ruộng đất đã thành công nên cần bình
thường hóa tình hình nông thôn, chuẩn bị đưa sản xuất vào
chế độ tập thể hóa, tiến hành xây dựng chế độ chuyên
chính vô sản.

Từ năm 1951, theo nhà báo Bùi Tín, Hồ Chí Minh đã ngã hẳn
theo Tàu, rặp khuôn theo đường lối mao-trạch-đông.

Trong một buổi tường trình chuyến thăm viếng Staline hồi năm
1950 với cán bộ lãnh đạo đảng khi ông về nước, Hồ Chí
minh không nói rõ ông đã chọn "ghế nông dân hay ghế địa
chủ" để trả lời Staline mà chỉ nhấn mạnh: " chúng ta
làm Cải cách Ruộng đất phải học tập kinh nghiệm Trung quốc
". Ông dạy cán bộ đảng viên " Đế quốc là con hổ, địa
chủ là bụi rậm hổ ẩn núp. Muốn đánh hổ phải tiêu diệt
bụi rậm ".

Không riêng gì về Cải cách Ruộng đất, Hồ Chí Minh mới
học kinh nghiệm Trung quốc, mà cả các nghành khác, Hồ Chí Minh
cũng chủ trương học tập rặp khuôn theo mô hình trung quốc
như về giáo dục, sản xuất, kinh tế nghiên về kỷ nghệ
nặng,… để "nhảy vọt" theo. Ông viết quyển " Những
kinh nghiệm quí báu Trung quốc nên học " dưới bút danh Trần
Lực, do nhà Sự Thật, Hà nội, xuất bản năm 1950, để làm
tài liệu cho cán bộ học tập.

II – Cải cách Điền địa ở Miền Nam

Ở trong miền Nam, không nói Cải cách Ruộng đất mà nói "
Cải cách Điền địa ". Trong 20 năm, từ 1955-1975, Miền nam
tiến hành 2 cuộc Cải cách Điền địa. Không kể một cuộc
Cải cách Điền địa do Cựu Hoàng Bảo Đại ban hành năm 1949,
nhưng không thành công. Ruộng đất vừa được phân phối xong
thì liền bị Việt Minh tịch thâu, hoặc Việt Minh ngăn cấm
nông dân nhận ruộng hoặc làm ruộng. Mật khác, chiến tranh
không cho phép nông dân sanh sống trên phần đất của mình,
phải tảng cư.

Cải cách Điền địa ở Miền Nam thực hiện từ khi Tổng
thống Ngô Đình Diệm nắm quyền bằng Dụ số 57 ngày 22 tháng
10 năm 1956. Chánh sách điền địa thêm một lần nữa được
Tổng thống Nguyễn văn Thiệu tiếp nối rốt ráo hơn bằng
Đạo luật số 003/70 ngày 23 tháng 03 năm 1970, dưới tên gọi
mới là " Luật Người Cày Có Ruộng".

1 Cải cách điền địa – Ông Ngô Đình Diệm, ngày 7 tháng 7
năm 1955, được bổ nhiệm làm Thủ tướng Chánh phủ. Ở chức
vụ Thủ tướng Chánh phủ, ông ban hành 2 Dụ, số 2 và số 7
năm 1955, liên quan đến vấn đề thuê ruộng vì từ trước, ở
Việt Nam, việc thuê ruộng không có giấy tờ hợp đồng giửa
người thuê mướn và chủ ruộng nên thường chủ ruộng lấn
ép làm thiệt hại quyền lợi của người thuê. Giá thuê ruộng
từ 40% đến 60%, tùy theo ruộng tốt xấu, trên số lúa thu
hoạch. Luật về thuê ruộng qui định lại rỏ qui chế tá
điền. Từ nay:

- giá thuê ruộng từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoặch cho
ruộng làm 1 mùa / năm;

- giá thuê từ 15 đến 25% cho mùa gặt chánh của ruộng 2 mùa /
năm.

Thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền
trả ruộng và phải báo trước chủ ruộng 6 tháng. Chủ ruộng
muốn lấy ruộng lại phải báo trước tá điền 3 năm.

Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sanh sống nên
số ruộng bỏ hoang tính ra lên đến 500 000 mẩu tây. Trong thời
gian Chánh phủ cho kiểm kê, nếu chủ ruộng vẫn vắng mặt,
số ruộng này bị trưng thu để cấp phát cho tá điền.

Sau khi lên làm Tổng thống, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57
ngày 22 tháng 10 năm 1956 qui định Chánh sách Cải cách Điền
địa theo đó, điền chủ có quyền giữ cho mỗi người 100
mẩu đất, phải canh tác 30%, số còn lại cho mướn theo điều
kiện luật hợp đồng đã ban hành.

Ruộng truất hữu, chủ ruộng được bồi thường theo giá
ruộng, 10% bằng tiền mặt, 90% trả bằng trái phiếu với lãi
xuất 3% / năm. Người giữ trái phiếu có quyền sử dụng trong
các dịch vụ như trao đổi, kinh doanh, mua bán,…

Ruộng truất hữu bán lại cho tá điền trả góp trong 12 năm
vốn và lãi xuất 3% như đối với điền chủ củ.

Có lối 1035 điền chủ bị truất hữu vì mỗi người có trên
100 mẩu. Diện tích ruộng truất hữu là 430 319 mẫu, tính thêm
220 813 mẫu của pháp kiều. Năm 1958, tổng số ruộng truất
hữu là 651 132 mẫu.

Số tá điền trở thành điền chủ từ năm 1957-1963 là 123 193
người. Ngoài ra còn 2857 người mua trực tiếp từ chủ ruộng,
nâng con số điền chủ – mỗi người có tối thiểu 5 mẫu –
lên 126 050 người. Và số ruộng mua riêng này là 252 213 mẫu.

Chánh sách Cải cách Điền địa ở trong Nam làm cho chủ ruộng
và tá điền đều hài lòng. Số ruộng đất bị Việt Minh
trước đây tịch thu phát cho tá điền vì chủ ruộng vắng
mặt, nay Chánh quyền đem trả lại cho chủ và bồi hoàn tiền
nếu bị truất hữu.

2 – Dinh Điền và Khu Trù mật

Tiếp theo Chánh sách Cải cách Điền địa, Chánh quyền Đệ I
Cộng Hòa ban hành Chánh sách Dinh Diền và Khu Trù mật. Huê kỳ,
Pháp và Tổ chức Y Tế Quốc tế giúp thực hiện Chương trình
này. Chỉ trong vòng từ 1957-1961, Chánh phủ thành lập được
169 Trung tâm định cư đồng bào di cư trong đó có 25 Khu Trù
mật, tập trung ở vùng đồng bằng sông Cữu long. Dinh Điền
phục hồi hoặc khai thác những vùng đất bị bỏ hoang hoặc
đất mới khai phá, đem lại cho đồng bào 109 379 mẫu, nuôi
sống 50 000 gia đình gồm 250 400 người.

Khu Trù mật là nơi tập trung dân sống hẻo lánh, thiếu
phương tiện cần thiết cho đời sống như chợ búa, trường
học, trạm xá y tế, điện, nước,… Mỗi Khu Trù mật gồm
từ 3000 đến 3500 người.

Một ngân hàng nông thôn, Quốc Gia nông tín cuộc, đưọc thành
lập để yểm trợ Chương trình Dinh Điền và Khu Trù mật
bằng cách cho vay với lãi xuất nhẹ.

Cải cách Điền Địa, Dinh Diền và Khu Trù mật đã biến 176
130 gia đình nông dân nghèo trở thành chủ ruộng đất từ ít
nhất 1 mẫu trở lên.

Sản xuất ở các Khu Trù mật dần dần vượt qua khuôn khổ
địa phương nhỏ hẹp để trao đổi trên qui mô vùng.

Trưóc đời sống an lành của người dân, cộng sản bám trụ
ở lại sau Hiệp định Genève xuất hiện và phản ứng thô
bạo. Họ ngăn cấm dân mua ruộng truất hữu, cấm ký hợp
đồng thuê ruộng, hủy bỏ địa tô, ám sát nhân viên Chánh
quyền ở nông thôn như nhân viên Ngân hàng, Y tế, Giáo dục,…

Còn lại hơn 400 ngàn mẫu đất đã truất hữu để tư hữu
hóa cho nông dân, nhưng bị áp lực khủng bố của cộng sản
phải bỏ hoang. Từ đây, năm 1958, cộng sản Hà nội bắt đầu
dựng lên cuôc chiến trong Miền Nam.

III – Cải cách Điền địa và Luật Người Cày Có Ruộng

Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thực hiện Cải cách Điền
địa bằng 2 giai đoạn: áp dụng luật cũ 57 và ban hành thêm
Luật Người Cày Có Ruộng.

1 – Từ năm 1967-1970, ông Thiệu cho tiếp tục áp dụng Luật
Cải cách Điền địa cũ của thời Đệ nhất Cộng hòa. Sau
vụ Việt cộng tổng công kích Mậu thân thất bại, nông thôn
trở lại có an ninh. Số ruộng trước đây bị bỏ hoang nay đem
cấp phát cho nông dân. Từ 1967 đến 1969, cò thêm 261 874 gia
đình dược cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số tá điền
trở thành chủ điền lên 438 004 người, vị chi 48% nông dân
nghèo.

2 – Phát triển kinh tế nông nghiệp. Chánh quyền cho tổ chức
lại ngân hàng nông thôn Nhà nước, đồng thời ngân hàng nông
thôn tư cũng ra đời để kịp đáp ứng nhu cầu phát triển.
Bộ Canh nông nghiên cứu tạo giống lúa mới, khuyến khích
khuếch trương nghành chăn nuôi gia súc.

Chánh quyền tuyển dụng thanh niên đào tạo cán bộ xây dựng
nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đở kỷ
thuật cho nông dân trong sanh hoạt hằng ngày,…

3 – Luật Người Cày Có Ruộng. Ngày 26 thánh 03 năm 1970, Luật
Người Cày Có Ruộng ban hành, áp dụng cho mọi thành phần
điền chủ. Luật Người Cày có Ruộng khác với Luật 57 thời
Đệ nhất Cộng hòa. Điền chủ tự làm ruộng của mình, nhưng
số ruộng quá 15 mẫu, bị truất hữu. Trong vòng 3 năm,
1970-1973, có 51 695 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng
là 770 145 mẫu, được chia ra như sau:

- 22 560 điền chủ nhỏ với 61 634 mẫu truất hữu;

- 16 449 trung điền chủ, với 158 110 mẫu truất hữu;

- 12 695 đại điền chủ, với 550 401 mẫu truất hữu.

Luật Người Cày Có Ruộng chi phối số điền chủ có 15 mẫu
trở lên. Thành phần điền chủ này chiếm 56% tổng số điền
chủ, với 91, 9 % của tổng số diện tích ruộng bị truất
hữu.

Ruộng bị truất hữu được bồi thường 20% tiền mặt, còn
lại 80% trả bằng trái phiếu, lời 10% / năm trong 8 năm.

Tiêu chuẩn cấp phát ruông truất hữu: 3 mẫu cho Miền Nam, 1
mẫu cho Miền Cao nguyên và Miền Trung.

Ruộng hương hỏa và của tôn giáo không bị chi phối bỡi
Luật Người Cày Có Ruộng.

Trước khi Hà nội hợp tác hóa đất đai sau Cải cách Ruộng
đất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Miền Nam chỉ gồm
tiểu điền chủ có từ 0, 10 – 5 mẫu và trung điền chủ có
trên 5 mẫu ruộng trở lên. Giới đại điền chủ hầu như
không còn nữa.

Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh tác, nhập cảng
phân bón, cải tiến giống lúa, tăng gia sản xuất gia súc,…

IV – Ruộng đất dưới thời quân chủ

Dưới thời quân chủ việt nam, ruộng đất là sở hữu tối
thượng của nhà vua. Nhưng trên thực tế, nhà vua đem ruộng
đât phân phối cho dân nghèo để cày cấy sanh sống và nộp
thuế. Khi cần, nhà vua có thể thu hồi và bồi hoàn cho người
đang canh tác.

Việt nam có chế độ quân chủ và kéo dài cho đến ngày 25
tháng 08 năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị, nhưng Việt Nam tuyệt
nhiên không có chế độ phong kiến. Trái lại ở Tàu và Âu
châu, có chế độ phong kiến, với quân đội riêng, luật pháp
riêng, tài chánh riêng.

Sở hữu ruộng đất ở việt nam không quá bất bình đẳng
như ở nhiều nơi khác. Trước Thế chiến II, theo kết quả
điều tra của nhà kinh tế học Yves Henri công bố năm 1932,
ruông đất ở Việt nam được phân phối như sau (hình).

Tàu trước khi bị cộng sản Mao-trạch-đông cai trị là một
nước độc lập nên địa chủ được Chánh quyền bảo vệ.
Trái lại, Việt Nam là nước bị thực dân pháp đô hộ nên
địa chủ cũng là nạn nhân của Chánh quyền thực dân. Do đó,
họ phần đông đứng lên tham gia chống Tây giành độc lập.
Chình lớp người này, có học khá, mới thật sự là những
ngưới ái quốc. Họ chẳng cần biết cộng sản là cái gì nên
sau đó họ mới kẹt trong gọng kèm của cộng sản.

Từ thời nhà Hồ, quyền sở hữu ruộng đất đã được
giới hạn cho hợp lý. Qua nhà Lê Thái Tổ, chế độ ruộng
đất tiếp tục vẫn giử theo đây.

Nhà vua cấp phát cho các pháp nhân như làng xã, Hội hè, Tổ
chức,… một khoảnh đất để làm của chung khai thác lấy
lợi tức trang trải chi phí sanh hoạt. Các đồn điền khi hoàn
tất, được nhà vua đem phân phối cho xã thôn nhưng không
được phép bán. Trừ trường hợp bất khả khán.

Ruộng cấp cho dân chúng thì cứ 3 năm / lần, tái cứu xét gia
hạn. Ngoài ra còn có những loại công điền khác dành cấp
phát cho những trường hợp đặc biệt như: trợ sưu điền
giúp dân nghèo đóng thuế, học điền, giúp học trò nghèo đi
học, cô nhi quả phụ điền, giúp cô nhi quả phụ và hậu
điền là ruộng của người chết không có con cháu thừa
hưởng đem hiến cho chùa, đình,…

Nhờ chế độ quân phân đất đai mà xã hội việt nam ngày
xưa được an bình hơn nhiều nơi khác lúc bấy giờ.

V – Việt Nam có thật sự cần Cải cách Ruộng đất không?

Ở Bắc và Trung, ruộng đất không tập trung quá nhiều vào tay
một số người nhờ chế độ quân phân tài sản nên không có
nhiều đại điền chủ. Trong lúc đó, ở trong Nam, vùng đất
mới, kịp lúc Tây đến chiếm, nên có những người biết cách
làm giàu với vài ngàn mẫu ruộng trở lên. Nhưng số đại
điền chủ này không phải nhiều. Nhìn chung, chế độ ruộng
đất ở việt nam từ thời quân chủ không quá bất bình
đẳng.

Về mặt quan chức, dưới thời quân chủ, người dân bình
thường đều có quyền đi học và đi học không tốn kém. Khi
thi đậu được nhà vua tuyện dụng làm quan. Tuy chịu ảnh
hưởng văn hóa tàu, quan chức việt nam xuất thân từ thứ dân
và khoa cử nên thường giữ nếp sống thanh liêm làm mẫu mực.
Không có thứ quan phiệt vì ảnh hưởng lâu đời phong kiền
như ở Tàu, nên cũng không có lớp cường hào ác bá ở địa
phương xa, xách nhiễu thường xuyên dân chúng.

Khi Pháp đến cai trị, một lớp tân học Việt Nam hấp thụ
tinh thần khoa học và khai phóng khá đông làm mới xã hội
Việt Nam. Hiện tượng mới này không phổ biến ở Tàu.

Trước thực tế xã hội Việt Nam như vậy, thử nghĩ có cần
thiết phải làm cuộc Cải cách Ruộng đất long trời lở đất
hay không?

Hồ Chí Minh làm cuộc cải cách ruộng đất ở Miến Bắc từ
năm 1953 không nhằm quân phân ruộng đât phục vụ nông dân, mà
thực chất là nhằm tiêu diệt một thành phần quan trọng cũa
xã hội, trong đó có cả đảng viên cộng sản gia nhập thời
kháng chiến vì yêu nước, để thanh lọc xã hội, chuẩn bị
cuộc cách mạng vô sản theo khuôn mẫu trung quốc. Do đó, Hồ
Chí Minh đã "phóng tay phát động quần chúng nông dân đứng
lên tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn. "

(Xem " Địa chủ ác ghê ", tác giả CB, tức CỦA BÁC, trên
nhựt báo Nhân Dân, đang phổ biến trên Internet). Đến khi nhận
thấy cải cách ruộng đất đã đạt mục tiêu, Hồ Chí Minh ban
hành lệnh Sửa sai, đưa Hồ Viết Thắng và Trường Chinh qua
chức vụ khác, đẩy Võ Nguyên Giáp ra công khai nhận lỗi
trước nhân dân. Hồ Chí Minh xuất hiện và khóc cho nạn nhân
của ông, chủ yếu để bảo vệ uy tín của đảng cộng sản
của ông. Có dư luận cho rằng Trường Chinh vì lãnh đạo cuộc
Cải cách Ruộng đất chấp nhận để cha mẹ bị đấu tố như
những địa chủ khác. Xin nói rõ: không đúng. Trước khi phát
động chiến dịch, theo nhà báo Bùi Tín, " Trường Chinh đã
cho rước cha mẹ về Hà nội dấu một nơi an toàn ". Lúc xử
bắn Bà Năm, nhà tư sản, nhiệt tình giúp kháng chiến, có 3
người con trai là sĩ quan Qưân đội kháng chiến, Trường Chinh
tham dự, mang mắt kiến đen, Hồ Chí Minh cải trang, dấu bộ
râu cá chốt.

Nhưng đừng quên Cải cách Ruộng đất và Sửa sai là một
chủ trương xuyên suốt theo chủ thuyết mao-trạch-đông đã áp
dụng ở Tàu nhằm mục đích thật sự đẩy nông dân tay đẩm
máu để phải theo đảng cộng sản luôn, không thể cấu kết
với địa chủ chống đảng cộng sản và, mặt khác, lột bỏ
tinh thần tư hữu vốn nặng và ăn sâu lâu đời trong nảo
trạng nông dân.

Thực tế, không gì khác hơn là đảng cộng sản cướp sạch
đất đai của nông dân bằng khủng bố.

Ngày nay, đảng cộng sản hà nội vì không còn khả năng và ý
chí làm cách mạng bằng bạo lực như trước nên bị nông dân
trên cả nước đứng lên đòi đất đai đã bị đảng cướp
từ trước giờ.

Thời cơ đang tới, hơn lúc nào hết, trước khi Việt nam có
một chế độ dân chủ chính thống để truy tố đảng cộng
sản ra trước công lý dân chủ, người nông dân từ Nam ra Bắc
cần phải nắm chặt tay nhau, đứng lên đòi lại tài sản đã
bị Đảng cộng sản cưỡng đoạt để tự mình làm lại cuộc
Cải cách Ruộng đất cho chính mình.

© Nguyễn văn Trần

Ghi chú

* Ghi lại buổi nói chuyện về Cải Cách Ruộng đất với anh
chị em "Đông Âu " do Mạng Lười Dân chủ tổ chức tại
Berlin, 2005.

** Tài liệu tham khảo:

Hoang văn Chí, Từ Thực dân đến Cộng sản, Pall Mall Press,
1964, London

Pierre Brocheux, Hồ Chí Minh, từ nhà cách mạng đến thần
tượng, Payot, 2003, Paris

Loạt bài về Cải cách Ruộng đất trên Đài Á châu tự do

Lâm Thanh Liêm, Chánh sách Ruộng Đất ỏ việt nam 1954-1995,
Đường Mới, 1996, paris

Etudes Vietnamiennes (tập san Nghiên cứu việt nam), ngoại ngữ,
1965, Hà nội, số 7

*** Phụ bản

KẾT QUẢ TAI HẠI

Khi nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Trung Quốc, đảng
CSVN phải thi hành chính sách "cải tạo xã hội chủ nghĩa"
rập khuôn theo kiểu mẫu của Trung Quốc, điển hình nhất là
chính sách cải cách ruộng đất.

Bộ "Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000", tập 2, (giai
đoạn 1955-1975) do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà
Nội năm 2004, cho biết cuộc Cải Cách Ruộng Đất đợt 5
(1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xã, với khoảng 10 triệu
dân. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68%. Các
đội và các đoàn Cải Cách Ruộng Đất đều ra sức truy bức
để cố đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như đã quy định. Như
vậy tổng số người bị quy là "địa chủ" phải là trên
500.000 người. Cũng theo tài liệu này, có 172.008 người đã bị
đấu tố, tức bị giết. Tuy nhiên, sau khi sửa sai và kiểm tra
lại, Đảng và Nhà Nước nhận thấy trong số 172.008 nạn nhân
của cuộc Cải Cách Ruộng Đất, có đến 123.266 người được
coi là oan (chiếm đến 71,6%).

Sau đây là những con số cụ thể về các nạn nhân:

Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó số
được coi bị oan là 20.493 người (77,4%);

Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó số được coi bị
oan là 51.480 người (62,19%);

Địa chủ kháng chiến: 586 người, trong đó số được coi bị
oan là 290 người (49,4%);

Phú nông: 62.192 người, trong đó số được coi bị oan là
51.003 người (82%).

Khi đảng CSVN không đi theo đường lối "cải tạo xã hội"
của Mao Trạch Đông mà theo đường lối của Liên Sô, Trung
Quốc đã "dạy cho Việt Nam một bài học"!

Lời bình của người không cộng sản và cộng sản phản
tĩnh:

Qua các sự kiện lịch sử được công bố, các sử gia và các
nhà phân tích đều đi đến kết luận rằng nếu năm 1945
đảng CSVN không đưa đất nước Việt Nam đi theo chủ nghĩa
cộng sản, dùng dân tộc Việt Nam làm vật thí nghiệm cho một
chủ nghĩa phiêu lưu, Việt Nam đã thoát khỏi một cuộc chiến
kéo dài 30 năm với những hậu quả rất thảm khốc. Nếu không
có đảng CSVN, nước Việt Nam đã có độc lập và tự do từ
lâu rồi.




***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140918/nguyen-van-tran-nhin-lai-ccrd-mien-bac-va-cai-cach-dien-dia-mien-nam),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét