Mỹ và Việt Nam thảo luận về việc kiềm chế những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông

<em><strong>Cần hợp tác đa quốc gia để ngăn chặn chiến
thuật hung hăng của Bắc Kinh</strong></em>

<div class="boxright200"><img
src="http://anhbasam.files.wordpress.com/2014/09/h13.gif?w=160" /></div>
Vào đầu tháng 10 khi Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình
Minh và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry gặp nhau, hành vi hung
hăng của Trung Quốc trong vùng biển Đông Nam Á sẽ đứng đầu
chương trình nghị sự. Trong những tháng dẫn đến cuộc họp
này giới nghiên cứu chính sách đối ngoại chủ chốt của
Washington đã tranh luận liệu việc can dự vào tranh chấp này
có nằm trong lợi ích của Mỹ hay không. Hàm ý chiến lược
của việc để cho Trung Quốc giành lấy ảnh hưởng là ngày
càng nghiêm trọng. Mỹ không nên can thiệp vào cuộc tranh chấp
nầy với phương thức quân sự, hoặc quay đi chỗ khác. Kerry
và Minh sẽ phải tìm ra một tiến trình trung gian bảo vệ
được sự tự chủ của Mỹ về chính sách trong khi vẫn duy
trì sự cân bằng trong khu vực.

Là một cường quốc đang trỗi dậy, hợp tác của Trung Quốc
là trọng yếu trong nỗ lực chống khủng bố, làm chậm đi
biến đổi khí hậu, hạn chế phổ biến vũ khí hạt nhân
v.v… Tuy nhiên, Mỹ không thể phớt lờ thôi thúc của Trung
Quốc muốn thiết lập quyền bá chủ đối với các vùng biển
tiếp giáp đất nước họ. Thận trọng trong biển Hoa Đông,
nơi mà Nhật Bản, liên minh với Hoa Kỳ, là một đối thủ
đáng gờm, và tự tin ở biển Đông, Trung Quốc đã quyết
thách thức trật tự quốc tế thể hiện trong Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), và quan điểm cho rằng tranh
chấp lãnh thổ cần được giải quyết không phải bằng vũ
lực mà bằng thương lượng hay phân xử của trọng tài.

Sáu năm trước, Trung Quốc đã đưa ra một bản đồ sơ sài
minh họa cho yêu sách của họ về "chủ quyền không thể tranh
cãi" đối với khu vực giới hạn bởi đường chín đoạn bao
quanh gần như toàn bộ 3,5 triệu km vuông trên biển Đông.

Kể từ đó cứ mỗi năm trôi qua, Trung Quốc đều nâng mức
đặt cược lên. Triển khai hàng trăm tàu thuyền đánh cá biển
sâu và nhiều chục tàu cảnh sát biển, Bắc Kinh đã thách
thức chủ quyền của các nước láng giềng trong vùng đặc
quyền kinh tế vẽ theo các quy định của UNCLOS. Họ đã tống
ngư dân Việt Nam ra khỏi ngư trường truyền thống, giành các
nguồn tài nguyên thủy sản của bãi cạn Scarborough khỏi sự
kiểm soát của Manila, quấy rối thăm dò dầu khí ngoài khơi
bờ biển miền Trung Việt Nam, và thả các bia chủ quyền xuống
bãi ngầm James (TQ gọi là Tăng Mẫu), chỉ cách bờ biển
Malaysia khoảng 50 hải lí và cách đảo Hải Nam khoảng 860 hải
lí về phía nam. Năm nay, Trung Quốc một lần nữa chứng tỏ ra
rất thành thạo về các sáng kiến chiến thuật, triển khai
một giàn khoan dầu nước sâu và một đội tàu hộ tống vào
vùng biển gần bờ biển miền Trung Việt Nam đồng thời phái
một đội tàu máy bơm, tàu nạo vét và máy trộn xi măng xa về
phía nam với nhiệm vụ chuyển đổi một vài rạn san hô thành
các đảo nhân tạo.

Bắc Kinh tỏ ra chai lì và giận dữ vì phát biểu cứng rắn
của các nhà ngoại giao Mỹ, từ bà Hillary Clinton và ông John
Kerry tới cấp dưới. Chính phủ của Tập Cận Bình có thể
biết rõ rằng các hồ sơ làm chỗ dựa cho "yêu sách lịch
sử" của họ đối với biển Đông là không thể chấp nhận
được về mặt pháp lý, nhưng dư luận Trung Quốc lại thấy
những hồ sơ đó có sức thuyết phục. Những người dân
thường Trung Quốc rất tức giận vì các nước kề cạnh "Nam
Hải" đang "đánh cắp tài nguyên của Trung Quốc" khi họ
đánh cá trong vùng biển quốc tế hoặc khoan dầu khí ngoài
khơi.

Hình như Trung Quốc không có ý định nộp yêu sách lãnh thổ
rộng lớn nhờ toà án quốc tế phán quyết. Họ cho thấy ít
quan tâm tới việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử với Hiệp
hội các nước Đông Nam Á. Quá lắm thì những người phát
ngôn của Trung Quốc chỉ cho thấy có xu hướng hào phóng chỉ
khi nào Việt Nam hay Philippines thừa nhận sự vượt trội của
các yêu sách của Trung Quốc.

Do đó, khó có thể coi biển Đông như một sàn diễn phụ nhỏ
đối với những hi vọng về hiểu biết lẫn nhau giữa Hoa Kỳ
và siêu cường mới nổi Trung Quốc. Cuộc xung đột này không
phải là không quan trọng; các tuyến đường biển ở đó
chuyển tải gần một nửa khối lượng giao thương thế giới.
Bây giờ lại thêm nỗi lo sâu sắc về chiến thuật của Bắc
Kinh ở biển Đông ngày càng hung hăng hơn và việc họ bác bỏ
các quy tắc của trật tự quốc tế mỗi khi thấy bất tiện,
cho thấy bản chất thực sự của Trung Quốc – hành động và
thái độ mà cộng đồng quốc tế phải đấu tranh ở những
nơi khác trong thời gian tới. Do đó, cuộc đối đầu tại
biển Đông thành mối quan tâm chính của ngoại giao và hoạch
định chiến lược của Mỹ.

Ở biển Đông, sự tham gia của Mỹ là cốt yếu để ngặn
chặn tham vọng của Trung Quốc. Chỉ phát biểu cứng rắn thôi
sẽ không làm cho ASEAN mạnh hơn hay gây ấn tượng với Bắc
Kinh.

Từ góc độ chiến thuật, Mỹ đã cư xử như không có lựa
chọn khả thi nào trong không gian rộng lớn từ việc lên án
hành động khiêu khích của Trung Quốc tới việc triển khai
Hạm đội 7. Trái lại, Trung Quốc đã liên tục khai thác các
cơ hội trong khoảng trung gian. Họ đã dựa vào lực lượng bán
quân sự, các tàu cảnh sát biển và các "tàu đánh cá" phụ
trợ để đẩy xa thêm tham vọng chủ quyền của mình trong khi
Hải quân Trung Quốc kín đáo chờ thời ở đằng xa.

Bắt chước chiến thuật của Trung Quốc, Mỹ, bạn bè và các
nước đồng minh châu Á có thể đẩy mạnh hợp tác giữa các
lực lượng cảnh sát biển với nhau, nổi bật trong đó có
một lịch trình mạnh mẽ các cuộc tập dợt đa phương trên
biển. Trợ giúp quân sự làm tăng thêm khả năng canh phòng biên
giới biển của các nước Đông Nam Á sẽ làm giảm khả năng
Trung Quốc tung ra những điều bất ngờ khó chịu. GS Carlyle
Thayer lập luận, nếu được sắp xếp khéo léo, các hoạt
động như vậy sẽ "đặt lên Trung Quốc trách nhiệm phải
cân nhắc mức nguy hiểm trong việc đối đầu với đội hình
hỗn hợp tàu thuyền và máy bay".

Washington cũng nên tăng cường quan hệ gần gũi hơn với Việt
Nam, nước Đông Nam Á duy nhất có cả khả năng răn đe quân
sự lẫn ý chí, khi có bảo đảm sự hậu thuẫn của Mỹ,
đứng lên đương đầu với Trung Quốc. Việc Trung Quốc triển
khai giàn khoan hồi tháng 5 đã làm các nhà lãnh đạo cộng sản
Hà Nội kinh ngạc và có thể đã làm đảo lộn thế cân bằng
trong Bộ Chính trị, chống lại việc tiếp tục những nỗ lực
kiên trì xoa dịu Bắc Kinh.

Hà Nội và Washington đã tìm cách xích lại gần nhau từ mùa hè
năm 2012 và gia tăng thêm vào mùa hè này. Chủ yếu vì lý do
thể diện – không thích bị gộp chung với Bắc Triều Tiên,
Iran, Syria và Trung Quốc – Việt Nam muốn Mỹ bỏ lệnh cấm
bán vũ khí sát thương. Trong khi đó, Washington lại ra điều
kiện không bán vũ khí đến khi có "chuyển biến" trong các
vấn đề quyền con người – một vấn đề có nhiều khả
năng xuất hiện trong cuộc nói chuyện giữa Kerry-Minh.

Tăng cường quan hệ hiểu biết chiến lược không phải là
điều dễ dàng cho Hà Nội hoặc Washington. Mỗi bên phải bỏ
đi một ít về các quyền tham gia chính trị. Tuy nhiên, với con
sói trước cửa Hà Nội, các điều chỉnh thực tế có thể
đặt nền tảng cho việc chống lại hiệu quả những thôi thúc
của Bắc Kinh, muốn giành quyền bá chủ đối với Biển Đông
và thống trị các quốc gia lân cận.

Mỹ đã can thiệp có hiệu quả trong việc hậu thuẫn
Philippines. Các bước để nâng cấp và tăng cường khả năng
giám sát biển và tự vệ của Philippines đã có một ảnh
hưởng bổ ích, làm giảm mối lo ngại một cách tuyệt vọng,
rằng Manila có thể can dự vào hành vi nguy hiểm.

Một cách can dự cao tay hơn của Mỹ trong việc đối mặt với
Trung Quốc ở biển Đông là phải củng cố thế ngoại giao.
Về mặt này, Mỹ có thể thúc giục Brunei, Malaysia, Việt Nam và
Philippines tìm cách giải quyết các yêu sách của họ với nhau.
Mỹ có thể nuôi dưỡng các sáng kiến lôi kéo chính quyền
Trung Quốc vào cuộc thảo luận về quản lý đa phương nguồn
thuỷ sản đại dương đang cạn kiệt nhanh chóng cũng như các
công ty Trung Quốc về việc cùng nhau thăm dò đáy biển tìm
dầu khí.

Không có cách nào khác để Hoa Kỳ can dự tích cực hơn vào
các vấn đề biển Đông mà không chọc giận Trung Quốc. Điều
đó có thể sẽ có những hậu quả tiêu cực trong ngắn hạn
cho việc hợp tác Mỹ-Trung trong các lĩnh vực khác, mặc dù
Bắc Kinh khó có thể ngừng việc hợp tác vì lợi ích riêng
của họ để trừng phạt Washington. Hậu quả lâu dài của
việc hạn chế tham vọng quá vênh váo của Trung Quốc sẽ có
tác dụng tốt – Bắc Kinh sẽ hiểu rằng họ không thể tuỳ
ý viết lại các quy tắc trong quan hệ quốc tế.

<em>David Brown là một nhà ngoại giao Mỹ đã về hưu, viết về
Việt Nam đương đại.</em>

Nguồn: <a
href="http://yaleglobal.yale.edu/content/us-and-vietnam-need-cooperate-curb-china%E2%80%99s-sea-claims">YALE
GLOBAL</a>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140928/my-va-viet-nam-thao-luan-ve-viec-kiem-che-nhung-yeu-sach-chu-quyen-cua-trung-quoc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét