Hoàng Tuấn Công - 'Tự ái rởm' hay là chuyện 'Giận Tàu, chém chữ Nho'

<div class="boxleft300"><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi4pkpIAQTrDRcl34zh3RLWLD2BnF6qnU_gMH_rDwDo_lnMDx0L_-8GL33qUxNM-6CbW1KnK_81G_w3T_SJLUsYdXd6DdIbF4WkE87rh_X3h8Cs7iSRaiqJNgSdwDlkhsrUiK-iOt4kFGu9/s1600/chu-van-an.JPG"
/><div class="textholder"></div></div>Bài viết <a
href="https://www.google.com.vn/url?sa=t&amp;rct=j&amp;q=&amp;esrc=s&amp;source=web&amp;cd=1&amp;cad=rja&amp;uact=8&amp;ved=0CB0QFjAA&amp;url=http%3A%2F%2Fgiaoduc.net.vn%2FGoc-nhin%2FThua-ong-Bo-truong-Van-hoa-dau-la-phan-chim-cua-van-hoa-ngoai-lai-post149359.gd&amp;ei=5wIYVLreOsL48QXr6oKYAQ&amp;usg=AFQjCNF4zahFcR_pY9RM6-2mKk8yn7suKQ&amp;sig2=072idnyazVAr8F1U15p0hw">Thưa
ông Bộ trưởng Văn hóa, đâu là phần chìm của văn hóa ngoại
lai?</a> của tác giả Xuân Dương đăng trên báo "Giáo dục
Việt Nam", chúng ta có thể xem như một trong những trường
hợp tiêu biểu cho hiện tượng "Giận Tàu, chém chữ Nho",
bài ngoại cực đoan, gây nhiễu loạn thông tin và ngộ nhận
về văn hóa truyền thống dân tộc hiện nay. Sau khi đồng tình
chủ trương "truy bắt" sư tử Tàu, bình hoa Tàu tùy tiện đưa
vào các di tích và lên án việc sử dụng chữ Hán trên hoành
phi, câu đối ở các ngôi đền chùa, đặc biệt là loại mới
trùng tu, xây dựng, tác giả XD đặt ra câu hỏi:

"Mốt lai căng đang tràn ngập mọi hang cùng, ngõ hẻm, đang
len lỏi vào các cơ quan công quyền, vào tận chốn thờ tự linh
thiêng vì sao vẫn chưa làm thức tỉnh những người có trách
nhiệm ở ngành Văn hóa. Vì sao ngành này và các địa phương
mới chỉ để ý đến mấy con sử tử đá mà không chú ý
đến những điều sâu sắc hơn, nhạy cảm hơn như hoành phi,
câu đối, bia đá… trong di tích?"

Như vậy, chỉ xem cách đặt tên bài viết <i>"Thưa ông Bộ
trưởng, đâu là phần chìm của văn hóa ngoại lai ?"</i> và
trích đoạn trên cũng đủ hiểu, tác giả Xuân Dương xem chữ
Hán là phần chìm của tảng băng <i>"văn hóa ngoại lai"</i>
và <i>"mốt lai căng"</i> mà Việt Nam cần bài trừ triệt
để (!)

Chúng tôi xin được trao đổi đôi điều, những điều mà
lẽ ra không cần phải nhắc lại nữa.

<b>1.Chữ Hán có phải là <i>"lai căng",</i> là <i>"văn hóa
ngoại lai"</i> cần phải bài trừ không?</b>

Chưa có bằng chứng nào cho thấy người Việt cổ từng có
chữ viết (hiểu theo đúng nghĩa) Không văn tự này thì văn tự
khác, chúng ta đều phải sử dụng chữ viết của dân tộc
khác. Bởi thế không có cơ sở để nói rằng chữ Hán xâm
lăng, triệt tiêu chữ của người Việt.

Điều đặc biệt là trong không ít cuộc chiến tranh giữ
nước, người Việt đã biến chữ Hán-chữ vốn do kẻ đô
hộ, xâm lược ấy truyền sang với mục đích đồng hóa, thành
một thứ vũ khí lợi hại để đánh và chiến thắng chính kẻ
thù truyền kiếp phương Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống
Tống, Lý Thường Kiệt đã thực hiện kế "Tiên phát chế
nhân" soạn bài hịch <b><i>"Phạt Tống lộ bố văn"</i></b>
bằng chữ Hán, kể tội nhà Tống, thu phục được nhân tâm
vùng quân sĩ sẽ đi qua, rồi đem quân đánh sang tận đất
Tống, phá thành Ung Châu, triệt hạ kho lương chuẩn bị để
xâm lược Đại Việt. Khi giặc Tống xâm lăng, bài thơ thần
<b><i>"Nam Quốc sơn hà"</i></b> lại vang lên làm giặc phương
Bắc rụng rời... Những giai thoại đối đáp chữ nghĩa giữa
sứ ta và sứ Tàu khẳng định chữ Hán đã được ông cha ta
tiếp thu nhuần nhuyễn, uyên thâm không thua kém gì bên "Thiên
triều". Trong khởi nghĩa Lam Sơn, khi vây hãm thành Đông Quan lâm
vào thế bế tắc, Lê Lợi đã mưu <i>"phạt tâm công"</i> dùng
những bức thư chữ Hán lời lẽ vừa cương quyết vừa mềm
mỏng, khôn khéo để dụ Vương Thông đầu hàng, tránh đầu
rơi máu chảy và bảo vệ vẹn nguyên kinh thành. Khi thiên hạ
đại định, <b><i>"Bình Ngô đại cáo"</i></b> bằng chữ Hán
lại vang lên sang sảng tự hào: <i>"Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác..." "Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có..."</i> (Bản dịch)

Cho tới tận bây giờ, những thư tịch cổ bằng chữ Hán
của các triều đại phong kiến Việt Nam vẫn tiếp tục đứng
về phía dân tộc Việt Nam khẳng định chủ quyền Hoàng Sa,
Trường Sa, tố cáo với thế giới sự ngang ngược của Trung
Quốc. Và nhiều, rất nhiều ví dụ khác không thể kể hết.

Chữ Hán có nguồn gốc ngoại lai, nhưng yếu tố ngoại lai
đã được ông cha tiếp thu có sáng tạo, và đã trải qua hàng
ngàn năm bồi đắp, chắt lọc, trở thành bản sắc truyền
thống dân tộc Việt Nam. Nó khác hẳn kiểu bắt chước, sao
chép, vay mượn một cách sống sượng, kệch cỡm của văn hóa
lai căng.

Vậy lý do gì ông Xuân Dương xếp chữ Hán vào diện "lai
căng", "ngoại lai" cần bài trừ ?

<b><i>2.Vì sao hoành phi câu đối lại viết bằng chữ Hán
?</i></b>

Trong bài viết, ông Xuân Dương luôn thắc mắc, tại sao hoành
phi, câu đối trong các đình chùa, miếu mạo, đặc biệt loại
mới xây dựng lại không viết bằng chữ Quốc ngữ: <i>"Không
nói đến các di tích được trùng tu, rất nhiều công trình
<u>tưởng niệm các danh nhân, đình, chùa mới xây dựng</u>
những năm gần đây (ví dụ <u>chùa ở đảo Bạch Long Vĩ</u>,
khu <b><u>lưu niệm</u></b> <u>danh nhân Cao Bá Quát</u> – Phú
Thụy, Gia Lâm, Hà Nội) hoành phi câu đối đều bằng tiếng
Hán. Bao nhiêu trong số chín mươi triệu người Việt ngày nay
có thể đọc và hiểu những chữ đó? Chẳng lẽ phải viết
bằng chữ Hán thì công trình mới có giá trị lịch
sử?"</i>(HTC nhấn mạnh)


Xin thưa: hoành phi, câu đối viết bằng chữ Hán vì nó vốn
sinh ra để viết bằng chữ Hán, sinh ra bởi đặc điểm, cách
"chơi" của chữ Hán; và hàng ngàn năm qua cha ông ta vẫn viết
bằng chữ Hán chứ không phải bất cứ một loại văn tự nào
khác. Cao Bá Quát được người đời suy tôn là ông "Thánh"
chữ Nho <i>("Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán..."; "Thần
Siêu, thánh Quát").</i> Bởi vậy, việc sử dụng hoành phi, câu
đối chữ Nho để <i>tưởng niệm</i> (không phải "lưu
niệm" như ông Xuân Dương viết) ông "Thánh chữ" là việc
làm hoàn toàn hợp lý. Chỉ có người muốn đưa chữ Quốc
ngữ-thứ chữ Tây đã "bóp chết" chữ Nho (Hán cổ) để
<i>"tưởng niệm"</i> Cao Bá Quát mới là điều đáng nói.

Với chuyện hoành phi câu đối trong chùa ở đảo Bạch Long
Vĩ dùng chữ Hán cũng hết sức bình thường và hợp lý. Bởi
đó là nét đẹp truyền thống trong văn hóa và kiến trúc cổ
truyền dân tộc, hình ảnh đã in sâu vào tiềm thức của mỗi
người. Ngoài đảo xa muôn trùng sóng gió mà lại hiện diện
một ngôi chùa Việt có nét đẹp cổ kính, gần gũi như vốn
đã tồn tại ở đó hàng trăm năm thì còn gì bằng? Nếu sử
dụng chữ Quốc ngữ, thì hàng trăm năm sau, ngôi chùa vẫn chỉ
mới như ngày hôm qua. Đình chùa, miếu mạo có nét cổ kính,
một chút thâm trầm, bí ẩn cũng tạo được hiệu ứng tâm
linh so với những nét quá mới và phô bày lồ lộ trước mắt.

Trở lại vấn đề đang bàn. Do nghĩa lý sâu xa, ý tại ngôn
ngoại của chữ Hán, bức hoành phi chỉ cần 3 đến 4 chữ,
đôi câu đối mỗi vế 5 hay 7 chữ đã nói lên được rất
nhiều điều mà chữ Nôm, chữ Quốc ngữ khó nói được, hoặc
phải diễn giải ra tới cả trang giấy. Mỗi chữ Hán dù ít
nét hay nhiều nét đều được viết trong một ô vuông. Thư
pháp chữ Hán đã có hàng ngàn năm tuổi, kết hợp nghệ thuật
điêu khắc, sơn son thếp vàng, mỗi bức hoành phi, câu đối
chữ Hán với đầy đủ chương pháp, lạc khoản, trở thành
bức thư họa khắc gỗ lộng lẫy. Bởi vậy, hoành phi, câu
đối chữ Hán không chỉ biểu đạt nội dung, mà hình thức
của nó còn tham gia vào không gian kiến trúc nội thất đình
chùa, miếu mạo, tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật chạm
khắc gỗ hài hòa với những long ly, quy phượng, hoa văn, hương
án, tượng thờ...

Nói về chữ Quốc ngữ, xưa ông bà ta gọi là "chữ Tây"
vốn sinh ra để viết theo hàng ngang, nay đưa vào câu đối
viết theo hàng dọc là bắt chước cách viết chữ Hán. Mặt
khác một chữ Quốc ngữ có khi ít ký tự, nhiều ký tự, thòi
ra, thụt vào trên hoành phi, câu đối rất thô, cứng và vô
hồn. Trong khi đó thư pháp chữ Quốc ngữ lại chưa đủ
"pháp" để vừa đảm bảo giá trị văn bản, vừa có yếu
tố mỹ thuật. Càng kệch cỡm hơn khi chữ Quốc ngữ cũng
được sơn son, thếp vàng, xung quanh chạm khắc vân mây, rồng
hóa, đặt phía trên cửa võng làm theo lối cổ. Nó phá vỡ
tính thống nhất trong phong cách kiến trúc, bài trí nội thất
của đền chùa, di tích. Có lẽ chính bởi vậy mà đã có một
thời khi sử dụng chữ Quốc ngữ viết câu đối, người ta
phải "gò" các con chữ cái La tinh vào khuôn khổ ô vuông hoặc
hình tròn rồi tìm cách viết cho nó na ná giống như chữ Hán
để dễ coi hơn. Vậy là "Mèo lại hoàn mèo". Thậm chí mèo
chẳng ra mèo, chuột chẳng ra chuột. Dân gian có câu: "Trò nào
trống nấy". Nếu chỉ xét riêng về yếu tố mỹ thuật và
nguyên tắc phục cổ trong kiến trúc đền chùa thì cách làm
"tân cổ giao duyên" mà ông Xuân Dương ca ngợi mới đáng gọi
là lai căng khó chấp nhận.

Ông Xuân Dương cho rằng hoành phi, câu đối phải viết bằng
chữ Quốc ngữ bởi "<i>Bao nhiêu trong số chín mươi triệu
người Việt ngày nay có thể đọc và hiểu những chữ đó?"
</i>(tức chữ Hán-HTC). Tuy nhiên, lại phải hiểu rằng, chữ
trên hoành phi câu đối trong đền chùa không thuộc loại bắt
buộc phải phổ cập. Nội dung của nó trước tiên là để
thờ thần, phật, tiên, thánh, tiền nhân... Nếu cần, chỉ một
phiến đá kích thước chừng 50x70 đã có thể làm sơ đồ,
phiên âm, dịch, giải nghĩa rõ ràng nội dung các bức hoành phi
câu đối Hán Nôm trong một ngôi chùa hay đền miếu.

Với chữ Hán, nhìn vào mặt chữ có thể biết được nghĩa.
Tuy nhiên, nhiều chữ đồng âm, dị nghĩa phiên âm Hán Việt,
viết bằng chữ Quốc ngữ rất khó phân biệt. Ca ngợi vua tôi
bằng chữ Hán mà viết bằng chữ Quốc ngữ: <i>"Quân tắc
cổ, thần tắc cổ...; Thượng ung tai, hạ ung tai..." </i>thì
khác gì những lời chửi rủa ? Bức đại tự <i>"Đại hùng
bảo điện"</i> viết bằng Quốc ngữ ông Xuân Dương ca ngợi
mọi người đều đọc được, thực chất chỉ là phiên âm
Hán Việt. Bởi vậy đọc được rồi, liệu có bao nhiêu
người hiểu <i>"Đại hùng bảo điện"</i> nó là cái chi? Để
hiểu được, liệu có thể diễn giải nội dung chừng nửa
trang giấy rồi khắc chữ lên đó làm "hoành phi" không?
"Bảo điện" <i>thờ Phật</i> thì trước hết phải viết
bằng chữ Hán-thứ chữ và nghĩa nhà Phật dùng để suy tôn
đức hiệu của Phật (<i>Đại Hùng</i>) chứ? Rồi <i>"Thần
công mạc trắc", </i>hay <i>"Vân lai tập hội"</i> nghĩa là gì?
Ngay như 4 chữ <i>"Cao sơn cảnh hành"</i> trên đền Hùng nếu
phiên âm Hán Việt và viết bằng chữ Quốc ngữ, già trẻ,
lớn bé đều có thể đọc được. Nhưng trong khi các nhà Hán
học còn ngồi "bàn nát" xem đọc là <i>"cảnh hành"</i>
hay <i>"cảnh hạnh"</i> và nó có nghĩa là gì thì liệu mấy
người đọc Quốc ngữ hiểu được? Hay cuối cùng vẫn là
những người biết đọc chữ Hán mới hiểu ? Hơn nữa, không
đọc được chữ Hán là do <i>không được dạy, không được
học, không thèm học</i> chứ đâu phải tại thứ chữ đã gắn
bó với dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm ?

Làm đình, làm chùa tức là kế thừa và phát huy văn hóa
truyền thống. Việc vứt bỏ chữ Hán đã có hàng ngàn năm
lịch sử để thay vào một thứ chữ tuy được gọi là Quốc
ngữ nhưng cũng là ngoại lai, với mẫu tự La tinh và cách ghép
vần đa số theo tiếng Tây gốc Gaulois; cũng theo chân một kẻ
xâm lược đô hộ khác, nhưng mới chỉ thành chữ Quốc ngữ
trước 1945. Chữ này vốn không ai dùng để viết hoành phi, câu
đối. Vậy cái nào lai căng, kệch cỡm hơn cái nào? Nếu ông
Xuân Dương hoặc ai đó thấy cái hay, cái đẹp của chữ Quốc
ngữ trên hoành phi câu đối trong đền chùa xin cứ dùng, không
ai cấm. Không nên chỉ trích, thúc giục Bộ văn hóa, chính
quyền TP Hải Phòng dùng cái mới để triệt tiêu cái cũ, coi
sự hiện diện của chữ Hán trên "<b><i><u>hoành phi, câu
đối, bia đá… trong di tích</u>" </i></b>là <i>"lai căng",</i>
là <i>"trái với đạo lý dân tộc" </i>(!)


<b><i>3.Hoành phi, câu đối viết bằng chữ Quốc ngữ có thoát
được chữ Hán "lai căng" không ?</i></b>

Phương án thay thế <i>"văn hóa ngoại lai"</i> và <i>"mốt
lai căng"</i> chữ Hán của ông Xuân Dương là dùng chữ Quốc
ngữ. Thế nhưng, tên nước <i>"Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam"</i> rồi mấy chữ <i>"Độc lập- Tự do-Hạnh
phúc"</i> hay bản thân tên tác giả Xuân Dương, <i>"Đại
hùng bảo điện"</i> hay <i>"Vạn đức từ tôn"</i> viết
bằng chữ Quốc ngữ mà Xuân Dương ca ngợi có tính dân tộc
kia đều là từ Hán Việt. Từ Hán Việt ấy ở đâu ra ? Là do
ta dùng chữ Hán, đọc theo cách phát âm của ta. Từ Hán Việt
mang nghĩa chữ Hán, nó chỉ khoác cái áo phát âm Việt mà thôi.
Nói một cách nôm na, cái "thằng" chữ Hán <i>"lai
căng"</i> mà ông Xuân Dương cho rằng <i>"trái với đạo lý
dân tộc"</i> và cần bài trừ kia chính là bố đẻ ra "thằng
con" từ Hán Việt. Vậy, nếu đã kính "ông con", sử dụng
"ông con", ta có khinh thường, hay "triệt hạ" được
"ông bố" không ? Được! Bằng cách nào? Chỉ cho phép
"thằng con" Hán Việt ở lại định cư, còn đuổi "ông
bố" chữ Hán về nước. Hay! Vậy bức hoành phi có mấy chữ
<i>"Đại hùng bảo điện",</i> hay<i> "Vạn đức từ
tôn",</i> tên ông Xuân Dương rồi mấy địa danh Hoàng Sa,
Trường Sa, Song Tử Tây, Bạch Long Vĩ...kia nghĩa là gì nhỉ?
Không biết ! Vậy muốn biết phải hỏi ai bây giờ? Hỏi
"mẹ" từ Việt. Nhưng "mẹ Việt" chỉ ghi âm từ Hán chứ
không ghi nghĩa. Làm sao bây giờ? Chỉ còn mỗi một cách là
hỏi "bố đẻ" ra nó, hỏi chính cái "thằng" chữ Hán <i>"lai
căng"</i> kia ! Nghĩa là ta phải tra <i>"Hán Việt từ
điển".</i> Nếu tra Từ điển, tự điển của Đào Duy Anh,
của Thiều Chửu (vốn cũng phải tham khảo từ điển Tàu)...mà
vẫn chưa thông, ta còn phải tìm sang tận bên Tàu trực tiếp
hỏi "lão" <b><i>"Khang Hy từ điển", </i></b>hỏi<b><i>
"Từ nguyên" </i></b>hay <b><i>"Hán ngữ đại từ
điển"</i></b>...của "Tàu khựa" nữa kia. Nếu ai đó nói
rằng, mấy chữ <i>"Đại hùng bảo điện"</i> hay <i>"Hoàng sa,
Trường sa"...</i>ấy có gì mà không hiểu nghĩa. Vâng, nhưng
nhờ đâu mà hiểu? Cũng là do những người được học chữ
Hán dạy cho ta, hoặc tra cứu từ điển chữ Hán mới hiểu
được mà thôi. Còn nếu nói "cùng" rằng, tôi không thèm
biết nghĩa Hán của nó là cái gì, chỉ biết nó là địa danh,
nhân danh mà thôi. Cũng được. Đó là quyền của mỗi người.
Tuy nhiên, không nên hô hào, tuyên truyền cho người khác hoặc
con cháu cũng phải có cái đức giống mình.

Cha ông ta từng sáng tạo ra chữ Nôm. Thế nhưng chữ Nôm lại
cũng được hình thành trên cơ sở các bộ chữ Hán và phép
cấu tạo chữ Hán. Mặt khác, rất nhiều chữ mang tiếng là
chữ Nôm nhưng thực chất là Hán 100%. Ví dụ: <i>thần, phật,
đạo đức, học, hành, bút, mực (mặc) phúc, đức, nhân,
tâm,v.v...</i>Vua Quang Trung là người chủ trương triệt để sử
dụng chữ Nôm, kể cả trong các văn bản hành chính Nhà
nước.Thế nhưng, cái tên Nguyễn Huệ và niên hiệu Quang Trung,
rồi thành Phượng Hoàng Trung đô xây dựng ở Nghệ An vẫn
phải viết bằng chữ Hán 100% đó thôi.

Cuối cùng, như trên đã nói, hoành phi, câu đối vốn không
phải của người Việt mà là cách "chơi" xuất phát từ
Tàu. Vậy, ai đó có dám bỏ, và có thể bỏ hết, không dùng
hoành phi câu đối nữa không? Có cho rằng những <i>"Ẩm thủy
tư nguyên", "Mộc bản thủy nguyên" "Đức lưu quang"</i>
phía trên bàn thờ tổ tiên nhà mình là <i>"lai căng", là
"trái với đạo lý dân tộc"</i> không? Có dám đổi cái tên
ý nghĩa, đẹp đẽ của mình hoặc đặt tên cho con cháu mình
là <i>cột, kèo, thúng, mủng, dần, sàng</i> được không ? Hay
là nói như các cụ, "Kiêng cái nhưng ăn nước?"

<b><i>4.Yếu tố ngoại lai có làm mất bản sắc và suy yếu
dân tộc hay không?</i></b>

Văn tự hay ngôn ngữ suy cho cùng chỉ là hình thức, phương
tiện biểu đạt. Nội dung của nó mới là bản sắc. Rượu
gạo Việt Nam đựng trong vỏ chai Mao Đài Trung Quốc vẫn mang
hương vị Việt Nam, đâu có biến thành rượu Mao Đài? Các cụ
nhà ta xưa học chữ Hán, thi bằng chữ Hán, làm quan "bằng chữ
Hán", sáng tác thơ văn, chép sử bằng chữ Hán...thậm chí nghi
lễ, thiết chế trong triều cũng theo phép Hán...Thế nhưng các
cụ đâu có biến thành người Hán ? Những tác phẩm văn
chương bằng chữ Hán đó vẫn chứa đựng giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam. <b><i>"Bắc hành tạp
lục"</i></b> của Nguyễn Du có 131 bài thơ chữ Hán thì 122 bài
viết ngay trên đất Trung Quốc, lấy những điều mắt thấy tai
nghe bên Trung Quốc làm đề tài, cảm hứng. Thế nhưng, nội
dung những bài thơ chữ Hán đó vẫn mang tình cảm, tư tưởng
của một người Việt Nam, đâu có thành của Trung Quốc? Rồi
<b><i>Truyện Kiều,</i></b> từ câu chuyện có nguồn gốc Tàu
100%, Nguyễn Du bám sát từng chi tiết nguyên tác, "chuyển thể"
thành thơ Nôm (cấu tạo bởi chữ Hán) sao vẫn mang tâm hồn
Việt ?

Vua Quang Trung nổi tiếng với câu nói: <i>"đánh cho nó
<b>phiến giáp bất hoàn,</b> đánh cho nó <b>chích luân bất
phản,</b> đánh cho <b>sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu
chủ"</b></i> phần đa đều là dùng từ Hán, ông vẫn đánh tan
20 vạn quân Thanh đến từ quê hương xứ sở của chính cái
chữ Hán kia như thường! Lê Lợi ngày cày ruộng, đêm đọc
sách Hán, mười năm nếm mật nằm gai, có cả <b><i>"Quân trung
từ mệnh tập"</i> </b>do ông sai mưu sĩ viết bằng chữ
Hán...Vậy mà vẫn khiến kẻ xâm lược tự xưng là "Thiên
triều" kia phải dùng chính chữ Hán của "Thiên triều" mà
<i>"quỳ gối dâng tờ tạ tội"</i>! ("<i>Đô đốc Thôi Tụ
quỳ gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay
để tự xin hàng..."-<b>Bình Ngô đại cáo</b>)...</i> Bản thân
Lê Lợi về cuối đời còn thân chinh đi đánh giặc, làm thơ
chữ Hán với lời tuyên bố đanh thép: <i>Ta già gan sắt vẫn
còn đây (Lão ngã do tồn thiết thạch can)...</i>

Văn hóa hay ngôn ngữ của một dân tộc văn minh không phải
là cái ao tù. Nó trở thành dòng sông lớn nhờ tiếp thu được
lưu lượng nước từ các nhánh sông nhỏ để cuộn chảy đời
đời không dứt...Dòng sông lớn ấy vẫn mang tên và bản sắc
của chính mình chứ không bị thay bởi cái tên hay sắc màu,
hương vị của những khe ngòi đã chảy vào và góp thêm sự
lớn mạnh cho nó.

Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên vốn là các nước
đồng văn (cùng sử dụng chữ tượng hình) như Trung Quốc.
Hiện nay, ở Hàn Quốc và Nhật Bản chữ Hán vẫn được sử
dụng trong Quốc ngữ. Theo thống kê của Wikipedia, ở Nhật
Bản: <i>"Đến năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1981" >1981</a>
thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm
khoảng 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác
dùng để viết tên người. Đến năm <a
href="http://vi.wikipedia.org/wiki/2000" >2000</a>, các chữ Hán dùng
để viết tên người được <b><u>điều chỉnh thêm, số
lượng tăng lên trên 400 chữ</u></b>".</i> Còn ở Hàn Quốc:
<i>"Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1972" >1972</a>, Bộ Giáo
dục <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0n_Qu%E1%BB%91c" >Hàn
Quốc</a> đã quy định phải dạy 1800 chữ Hán cơ bản cho học
sinh".</i>

Vậy người Hàn Quốc và Nhật Bản sử dụng chữ Hán do họ
<i>thấy</i> <i>cần thiết</i>, hay do họ không yêu nước và
không có tinh thần tự hào dân tộc? Hay do người Nhật Bản,
Hàn Quốc không có mâu thuẫn gì với Trung Quốc? Trong 4 nước
đồng văn với Trung Quốc trước đây, hiện chỉ có Việt Nam,
Triều Tiên, chữ Hán không còn sử dụng trong Quốc ngữ. Vậy,
Việt Nam và Triều Tiên có giàu mạnh hơn so với Nhật Bản và
Hàn Quốc không? Tên nước Nhật Bản 日本 (phát âm theo tiếng
Nhật là <i>Nihon)</i> được viết hoàn toàn bằng chữ Hán
(<i>Kanji</i>) và hiểu theo nghĩa Hán là <i>gốc của mặt
trời.</i> Tên núi Phú Sĩ -biểu tượng và niềm tự hào của
người Nhật cũng được viết bằng chữ Hán là 富士, (đọc
theo tiếng Nhật là <i>Fuji).</i> Vậy, người Nhật bản có sợ
mình bị nô dịch về văn hóa không? Nhật Bản, Hàn Quốc thoát
khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc bằng cách bài chữ Hán,
vứt bỏ hoàn toàn chữ Hán trong bộ chữ Quốc ngữ, hay họ
tìm cách khuất phục Trung Quốc bằng những thương hiệu như
Toyota, Kubota, Sony, Nokia, Huyndai, Samsung... rồi tàu ngầm, máy bay,
xây dựng đồng minh chiến lược, củng cố sức mạnh quốc
phòng...?

<b><i>4.Những ý tưởng nguy hiểm và sự nhiệt tình đáng lo
ngại:</i></b>

Theo ý của ông Xuân Dương, cần phải loại bỏ hoàn toàn
chữ Hán khỏi các di tích. Tuy nhiên, ông tỏ ra là một người
am hiểu luật pháp: <i>"Sẽ là trái Luật Di sản khi đòi hỏi
phải thay toàn bộ chữ Hán trong các di tích đã có hàng trăm
năm tuổi, </i>(nếu không <i>"trái Luật Di sản"</i>, hàng
ngàn bia đá, rồi lớp lớp hoành phi câu đối trong các di
tích-những thông điệp của quá khứ sẽ chịu thảm họa như
thế nào trước ý tưởng của ông Xuân Dương?-HTC)<i> nhưng sẽ
là <u>vô trách nhiệm đối với vận mệnh quốc gia và trái
đạo lý dân tộc nếu những công trình văn hóa tâm linh được
xây từ ngày thống nhất đất nước đến nay và từ nay về
sau lại chỉ có chữ Trung Quốc.</u> Nhà nước cần đưa vào
Luật Di sản, hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
bắt buộc sử dụng chữ tiếng Việt trong trong tất cả các
công trình văn hóa tâm linh xây mới trên lãnh thổ Việt Nam, có
thể chọn thời điểm thi hành từ 1975 đến nay. Đây không
chỉ là ý kiến của cá nhân người viết mà là của mọi
người."</i>

Không hiểu tại sao cũng là chữ Hán, nhưng trước năm 1975
lại không bị ông Xuân Dương xem là "lai căng", còn sau năm
1975 lại cần phải bài trừ và bị coi là "<i><u>trái với đạo
lý dân tộc</u>"?</i> Ông căn cứ vào đâu để lập ra cái mốc
đó? Các di tích, đền chùa miếu mạo vốn bị tàn phá rất
nhiều (do bàn tay con người, do chiến tranh, thời gian...). Bởi
vậy số lượng trùng tu (thực chất là xây dựng mới trên
nền cũ) sau năm 1975 chiếm số lượng rất lớn (Ví dụ: Nhà
Thái học Văn miếu Quốc tử giám được xây dựng hoàn toàn
mới, bắt đầu năm 1999 với rất nhiều hoành phi, câu đối
chữ Hán). Vậy, khi đề nghị "<i>bắt buộc sử dụng chữ
tiếng Việt trong trong tất cả các công trình văn hóa tâm linh
xây mới trên lãnh thổ Việt Nam, có thể chọn thời điểm thi
hành từ 1975 đến nay" </i>ông Xuân Dương có tính đến hậu
quả của việc đoạn tuyệt với truyền thống dân tộc và gây
tốn kém cho đất nước như thế nào không? Đề xuất về văn
hóa truyền thống của ông Xuân Dương sao đơn giản và giống
như chính sách đối với người nhập cư vậy?

Sự lầm lẫn, đánh đồng Trung Quốc xâm lược, Trung văn
ngoại ngữ với chữ Hán cổ (chữ Nho), đánh đồng việc tiếp
thu yếu tố ngoại lai có chắt lọc, sáng tạo với văn hóa lai
căng sống sượng của ông Xuân Dương khiến ta phải lạnh gáy!
Vì sao? Vì trong quá khứ, người ta đã từng phạm những sai
lầm <i>không thể tưởng tượng được</i>, và hậu quả tai
hại của nó không thể sửa chữa:

-Đánh đồng giai cấp bóc lột, tầng lớp địa chủ, cường
hào, ác bá với những người giàu có được học hành, thông
minh chăm chỉ, khôn khéo làm ăn tích tụ được ruộng đất;
đồng nghĩa những kẻ ngu dốt, siêng ăn nhác làm với những
thân phận bị áp bức, bóc lột; đánh đồng quan hệ chủ-thợ
với chủ-tớ...Thế là bắt bớ, đánh giết...kinh hoàng !

-Phản phong, bài trừ mê tín dị đoan thì quy cho tất cả
những gì thuộc về phong kiến đều xấu xa, lạc hậu; đồng
nghĩa đình chùa, miếu mạo, tôn giáo tín ngưỡng với mê tín
dị đoan...Thế là phá hết, đốt hết...Biết bao nhiêu đình
chùa, miếu mạo, tín ngưỡng của làng Việt cổ truyền, thờ
cúng các bậc anh hùng, hào kiệt có công với nước bị đốt
phá hoặc dỡ ra làm trường học...

-Sách vở, thơ văn chữ Nho của cha ông bị đồng nghĩa với
sách bói toán, tướng số, mê tín, dị đoan; bị coi là sản
phẩm của "phong kiến lạc hậu" cần phải bài trừ. Thế
là bia đá làm cầu, nung vôi; hoành phi, câu đối, sắc phong,
thần phả, gia phả,...chữ Hán bị đốt hết...

Vậy mà đến tận bây giờ vẫn còn những người cầm bút
vạch đường, chỉ lối, thúc giục <i>Bộ văn hóa thông tin
truyền thông</i> phải chống văn hóa <i>"lai căng"</i> và
<b>"ngoại lai"</b> bằng cách bài trừ chữ Hán. Đồng thời, quy
kết việc sử dụng chữ Hán trong các công trình văn hóa tâm
linh là <i>"<u> vô trách nhiệm đối với vận mệnh quốc gia và
trái với đạo lý dân tộc</u>".</i> Quá khứ đã từng diễn ra
những câu chuyện tàn sát, bức tử văn hóa Việt <i>không thể
tin nổi</i>. Vậy ai dám chắc một ngày, tinh thần yêu nước,
độc lập tự chủ chống Trung Quốc đi đôi với bài trừ<b>
</b><i>"<u>hoành phi, câu đối, bia đá… trong di tích</u>"</i>
theo quan điểm của ông Xuân Dương lại không trở thành hiện
thực ?

Lợi ích "thoát Trung" chưa thấy đâu, nhưng hậu quả của
việc bài chữ Hán, không thèm dùng chữ Hán của ông Xuân
Dương đã hiện ra nhãn tiền. Ví như trong bài viết, ông Xuân
Dương đã nhầm lẫn, không phân biệt được hai từ Hán Việt
"tưởng niệm" và <i>"lưu niệm"</i> khác nhau thế nào. Ở
Phú Thị-Gia Lâm chỉ có Nhà "tưởng niệm" Cao Bá Quát, chứ
không có nhà <i>"lưu niệm"</i> Cao Bá Quát. Người ta chỉ
gọi là <i>"lưu niệm"</i> một khi Cao Bá Quát từng sống
trong ngôi nhà đó, hoặc hiện ở đó vẫn lưu giữ, trưng bày
những đồ đạc ông dùng lúc sinh thời, ít nhất là còn có
bút lông, nghiên mực, bút tích các tác phẩm chữ Hán...Mặt
khác, ông Xuân Dương bàn về chữ Hán nhưng lại không phân
biệt được chữ Hán cổ viết trên hoành phi, câu đối (ông
bà ta còn gọi là chữ Nho) trong văn ngôn (mà ngày nay dù ở ta
hay ở Tàu đều đã trở thành <i>tử ngữ</i>), với chữ Hán
trong văn bạch thoại (<i>sinh ngữ</i>, còn gọi Trung văn hay Hán
ngữ hiện đại). Văn ngôn và văn bạch thoại khác nhau rất
nhiều (về chữ nghĩa, ngữ pháp). Người Trung Quốc hiện nay
có thể đọc được chữ trên hoành phi, câu đối Hán nhưng
về nghĩa thì chưa chắc đã hiểu (vì họ chỉ hiểu một số
từ ngữ Hán cổ thông dụng). Muốn hiểu <i>"Luận ngữ"</i>
hay <i>"Kinh thi"</i> họ cũng cần phải có người chuyên
nghiên cứu Hán cổ, dịch và chú giải bằng Hán ngữ hiện
đại. Chữ Hán viết trên hoành phi, câu đối của người Việt
Nam không dùng theo nghĩa và ngữ pháp của Hán ngữ hiện đại
<i>("chữ Trung Quốc"</i> hay <i>"ngoại ngữ"</i> theo cách
gọi của ông Xuân Dương). Nói cách khác chúng ta dùng chữ Hán
theo cách của cha ông ta từng dùng, từ thời <i>"Triệu, Đinh,
Lý, Trần, bao đời xây dựng độc lập; Cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương"</i> (<b><i>Bình Ngô
đại cáo</i></b>).

Ông Xuân Dương sợ rằng Trung Quốc vin vào cớ tìm thấy chữ
Hán trên các đảo để đòi chủ quyền. Tuy nhiên, nếu sợ như
vậy thì phải phá chữ Hán trên hoành phi câu đối trong các
Hội quán Phúc Kiến, Triều Châu... ở Phố cổ Hội An trước.
Mấy trò "khảo cổ học" kiểu như tìm thấy di cốt của
người Trung Quốc ở các đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì Việt Nam
đã từng đáp lại rất thuyết phục rằng: ngay tại Gò Đống
Đa của kinh đô nước Việt, số di cốt của người Trung Quốc
còn lớn hơn nhiều. Mặt khác nếu muốn khẳng định chủ
quyền, người ta hoàn toàn có thể viết hoành phi câu đối
chữ Nôm bằng thư pháp chữ Hán thời hậu Lê, chứ không dứt
khoát phải viết bằng Quốc ngữ. Bởi chữ Nôm nhìn qua giống
chữ Hán, nhưng người Trung Quốc hoàn toàn mù tịt. Còn thư
pháp chữ Hán thời Lê của ta rất độc đáo, không giống bất
cứ một trường phái thư pháp nào bên Trung Quốc. Mặt khác
trên các đảo của Tổ quốc, chùa không phải là công trình
kiến trúc duy nhất. Một phiến đá lớn khắc tên chủ quyền
Việt Nam còn trường tồn hơn nhiều ngôi chùa gỗ.

Do không hiểu chữ Hán trên hoành phi câu đối là chữ thế
nào, ông Xuân Dương đã tỏ ra gay gắt, bức xúc, so sánh với
chữ Trung Quốc trên các biển quảng cáo nhà hàng, khách sạn.
Từ đó, ông đưa ra những câu hỏi khó: <i>tại sao cả thành
phố Hải Phòng, cả Bộ Văn hóa lại tùy tiện để cho các
công trình tâm linh trên đảo này sử dụng chữ Trung Quốc?".
</i>Rồi <i>"Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ còn bắt buộc phải
viết chữ nước ngoài bé hơn và phải đặt dưới chữ Việt,
tại sao ở chốn tâm linh lại không bắt buộc như vậy?"</i>.

Ông Xuân Dương coi chữ Nho trên hoành phi câu đối <i>"chốn
tâm linh"</i> là <i>"trái đạo lý dân tộc" </i>và phải
tuân thủ theo quy định như dùng <i>"chữ Trung Quốc"</i>
(với tư cách là một ngoại ngữ) trong<i> "quảng cáo hàng hóa
dịch vụ"</i>. Phải chăng tất cả kho tàng tư liệu Hán Nôm
rồi những <i>Bia văn miếu Quốc tử giám, Bia Vĩnh Lăng-Lam Kinh,
Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh
Nghiêm...</i>thứ là Bảo vật Quốc gia, thứ thành Di sản thế
giới, đều bị xếp vào diện đồ Tàu "lai căng" cần phải
bài trừ? Liệu cụ Chu Văn An còn "an" được trong Văn miếu
Quốc tử giám, hay cũng phải bật dậy ôm hai bức hoành phi
<i>"Vạn thế sư biểu"</i> và "Truyền kinh chính học"
bằng chữ Hán mà chạy bởi quan điểm cực đoan của ông Xuân
Dương?

Việt Nam có cụ An Chi là người có công trong việc nghiên
cứu từ nguyên tiếng Việt, giúp chúng ta hiểu đúng và dùng
đúng tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên, có người (thức giả hẳn hoi)
do không hiểu đã mỉa mai, gọi cụ là "anh Tàu" (vì cho rằng
cụ thân Trung Quốc nên nhiều từ "thuần Việt" cụ vẫn cứ
tìm cách "gán" hết cho nguồn gốc Tàu). Trong bài <i><a
href="https://www.google.com.vn/url?sa=t&amp;rct=j&amp;q=&amp;esrc=s&amp;source=web&amp;cd=6&amp;cad=rja&amp;uact=8&amp;ved=0CEEQFjAF&amp;url=http%3A%2F%2Fpetrotimes.vn%2Fnews%2Fvn%2Fhoc-gia-an-chi-giai-dap%2Ftu-nguyen-cua-nhung-tu-chi-quan-he-than-toc.html&amp;ei=ugAYVOrsLIH68QWnyoGoDw&amp;usg=AFQjCNEXCMteg-FGEFlyyEd4i6U5lwrLaA&amp;sig2=hi5f-SjB86WDQqUpOPwfmQ">Từ
nguyên của những từ chỉ quan hệ thân tộc</a> </i>cụ An Chi
kết luận: <i>"Cứ như trên thì toàn bộ các từ chỉ quan hệ
thân tộc của tiếng Việt đều thuộc gốc Hán. Nhưng ta cũng
chẳng cần phải <b>tự ái rởm</b> vì tiếng Pháp gốc vốn là
tiếng Gaulois đã bị tiếng Latinh bình dân thay thế 100% mà dần
dần trở thành tiếng Pháp hiện đại nhưng vẫn là một ngôn
ngữ đã sinh ra một nền văn học rực rỡ và phong phú". </i>

Chúng tôi xin mượn ý kiến của cụ An Chi khả kính để kết
thúc câu chuyện <i>"Tự ái rởm hay chuyện "Giận Tàu chém
chữ Nho"</i> ở đây. Chúng tôi cũng xin lỗi và lấy làm tiếc
vì đã khiến bạn đọc mất thời gian vào một câu chuyện đã
quá cũ. Một vấn đề đã có hướng giải quyết đúng đắn
từ thời cụ Đào Duy Anh biên soạn <b><i>"Hán Việt từ
điển"</i></b> để phục vụ cho việc học Quốc văn ![1]

<em><strong>HTC</strong> /18/9/2014</em>



[1]- Khi đang hoàn thành bài viết này, HTC được đọc bài <a
href="https://www.google.com.vn/url?sa=t&amp;rct=j&amp;q=&amp;esrc=s&amp;source=web&amp;cd=1&amp;cad=rja&amp;uact=8&amp;ved=0CBsQFjAA&amp;url=http%3A%2F%2Fgiaoduc.net.vn%2FGoc-nhin%2FBan-ve-viec-su-dung-chu-Han-va-nguy-co-no-dich-van-hoa-post149798.gd&amp;ei=hlEaVNHzKcXp8AXygIE4&amp;usg=AFQjCNHlJBsP92Y3Z-UQom8sQtEnoaZxDg&amp;sig2=_8R7HE1UqW4ewtGB67SHrQ">Bàn
về việc sử dụng <b><i>chữ Hán và</i></b> nguy cơ <b><i>nô
dịch văn hóa</i></b> <b>...</b></a> của ông Xuân Dương trả lời
bài <b><a
href="http://giaoduc.net.vn/GDVN/Can-nhin-nhan-ve-he-thong-tu-lieu-chu-Han-o-nuoc-ta-nhu-the-nao-post149625.gd">Cần
nhìn nhận về hệ thống tư liệu chữ Hán ở nước ta như
thế nào?</a> </b>của ông Nguyễn Thanh Phong trao đổi về bài <a
href="https://www.google.com.vn/url?sa=t&amp;rct=j&amp;q=&amp;esrc=s&amp;source=web&amp;cd=1&amp;cad=rja&amp;uact=8&amp;ved=0CB0QFjAA&amp;url=http%3A%2F%2Fgiaoduc.net.vn%2FGoc-nhin%2FThua-ong-Bo-truong-Van-hoa-dau-la-phan-chim-cua-van-hoa-ngoai-lai-post149359.gd&amp;ei=5wIYVLreOsL48QXr6oKYAQ&amp;usg=AFQjCNF4zahFcR_pY9RM6-2mKk8yn7suKQ&amp;sig2=072idnyazVAr8F1U15p0hw">Thưa
ông Bộ trưởng Văn hóa, đâu là phần chìm của văn hóa ngoại
lai?</a> (đều đăng trên báo GDVN). Ý kiến nhật xét khách quan
của chúng tôi là: hầu hết ý kiến của ông Nguyễn Xuân Phong
là đúng; ông Xuân Dương càng viết càng để lộ những lỗ
hổng kiến thức và sự lầm lẫn các khái niệm về văn hóa,
lịch sử.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140918/hoang-tuan-cong-tu-ai-rom-hay-la-chuyen-gian-tau-chem-chu-nho),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét