Nguyễn Quang Dy - Nhìn lại Xung Đột Việt-Trung

<center> <i>Tháng 5/2014, Hà Nội nóng bỏng bất thường ngay đầu
hè. Rõ ràng Trung Quốc góp phần làm cho trái đất nóng lên.
Đặc biệt Biển Đông càng nóng bỏng hơn. Trung Quốc đăt dàn
khoan khổng lồ HD 981 taị vùng biển của Việt Nam từ đầu
tháng 5 để tranh cướp chủ quyền, thổi bùng lên làn sóng
chống Trung Quốc ở Việt Nam và khắp khu vực. </i></center>

<center> <i>Nghịch lý yêu-ghét trong lịch sử quan hệ Việt-Trung
đầy bi kịch thường dẫn đến xung đột lợi ích quốc gia,
kể cả chiến tranh. Năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam
trong cuộc chiến biên giới đẫm máu, sau ba thập kỷ gắn bó
như "môi với răng" vì cùng chung ý thức hệ. Liệu lịch
sử có lặp lại lần nữa tại Biển Đông? Nước cờ tiếp
theo của Trung Quốc là gì? Liệu Trung Quốc có xô đẩy Việt
Nam vào vòng tay người Mỹ, giống như vào vòng tay người Nga
năm 1979? Việt Nam phải làm gì để có thể sống yên ổn bên
cạnh người láng giềng khổng lồ? </i></center>

<center><img
src="http://www.danluan.org/files/u5219/10552379_1486033444976816_5065683980381751319_n.jpg"
width="600" height="400"
alt="10552379_1486033444976816_5065683980381751319_n.jpg" /></center>
<center><em>Ảnh minh họa. Nguồn: Dân Luận. </em></center>

<b>Bối cảnh lịch sử </b>

<b><i>Không có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lơi ích vĩnh viễn
</i></b>

<b> </b>

Napoleon Bonaparte đã từng nói, "Trung Quốc là gã khổng lồ
đang ngủ. Hãy để cho nó ngủ yên, vì khi thức dậy nó sẽ
làm đảo lộn thế giới". Người Mỹ đã không nghe lời
khuyên đó. Họ đã giúp gã khổng lồ trỗi dậy bằng chính
sách "can dự xây dựng". Nhưng họ đã đi quá đà nên bây
giờ bắt đầu ân hận, phải tìm cách ngăn chặn sự trỗi
dậy hung hăng của nó. Kế hoạch "xoay trục" và TPP
(Tran-Pacific Partnership) để "tái cân bằng" sự trỗi dậy
của Trung Quốc làm ta nhớ lại thập niên 1950 và 1960 khi Mỹ
dùng SEATO (South East Asia Treaty Organization) để ngăn chặn nguy cơ
Trung Cộng. Hình như lịch sử đang lặp lại, nhưng với trò
chơi mới và luật chơi mới.

Ông Kissinger được ghi nhận là kiến trúc sư của Chính sách
Trung Quốc, đã có công giúp Trung Quốc trỗi dậy, theo tầm
nhìn của ông ta về một trật tự thế giới trong đó Trung
Quốc liên minh với Mỹ để chống Liên Xô. Ông ta đã bí mật
dàn xếp với người Trung Quốc để đưa Tổng thống Nixon sang
Trung Quốc bắt tay Mao Chủ tịch và ký Thông cáo chung Thượng
Hải (năm 1972). Theo thỏa thuận, Mỹ sẽ bỏ rơi Nam Việt Nam,
thỏa hiệp về chủ quyền Đài Loan, hợp tác giúp Trung Quốc
thực hiện "bốn hiện đại hóa", đánh đổi lấy việc Mỹ
sẽ rút quân dần khỏi Nam Viêt Nam "trong danh dự", và lập
một liên minh "trên thực tế" chống Liên Xô.

Sau đó ông Brzezinski (Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống
Carter) đã tiếp tục Chính sách Trung Quốc bằng thỏa thuận
ngầm với ông Đặng Tiểu Bình để Trung Quốc xâm lược Việt
Nam (1979) và ngầm ủng hộ Khmer Đỏ trong chính phủ liên hiệp
ở Campuchea. Việt Nam đã trở thành con tốt trong ván bài nước
lớn bất lương này, bị xô đẩy vào vòng tay người Nga
(1978-1979). Như vậy người Trung Quốc phải mang ơn ông Kissinger
về cơ hội trỗi dậy, với sự ủng hộ của ông ta và "China
Lobby". Có điều ông Kissinger không biết (hoặc không quan tâm)
liệu Trung Quốc có giữ lời hứa sẽ trỗi dậy "trong hòa
bình" và không "động tới quyền lợi của Mỹ" và đồng
minh của Mỹ ở Đông Á hay không.

Có lẽ người Mỹ đã hơi ngây thơ hoặc ảo tưởng và ngộ
nhận về sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc mà không tính
kỹ những nguy cơ tiềm ẩn. Việc Trung Quốc sẽ trở mặt bắt
nạt các nước láng giềng và thách thức Mỹ chỉ là vấn đề
thời gian. Ngay cả khi người Mỹ đã "xoay trục" sang Đông
Á để ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc, dường như họ vẫn chưa
thoát ra khỏi cái bóng của ông Kisinger. Những gì đang diễn ra
là quá ít và quá muộn để răn đe Trung Quốc và bảo vệ
quyền lợi của Mỹ cũng như đồng minh ở khu vực. Người
Nhật bây giờ mới tỉnh ngộ và đang vội vã sửa lại hiến
pháp để đối phó với Trung Quốc, trong khi các nước khác ở
khu vực (như ASEAN) thì hoang mang, bối rối, và bị Trung Quốc
phân hóa.

Năm 1979, Trung Quốc xâm lược Việt Nam để "dạy một bài
học", sau khi Việt Nam xâm lược Campuchea để đánh Khmer Đỏ
là đồng minh của Trung Quốc. Thực chất, Trung Quốc đánh
Việt Nam chủ yếu là để gây ấn tượng với người Mỹ
rằng Trung Quốc là một đối tác tin cậy trong liên minh chống
Liên-Xô và Việt Nam. Đối với ông Đặng Tiểu Bình, sự hỗ
trợ của Mỹ để thực hiện "bốn hiện đại hóa" mới là
mục tiêu chính để giúp Trung Quốc trỗi dậy. Mọi chuyện
khác đều là thứ yếu, chỉ là phương tiện. Đối với lãnh
đạo Việt Nam, Trung Quốc trở thành "kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm", nên phải liên minh với Liên Xô để chống Trung
Quốc.

Phải mất hơn một thập kỷ Việt Nam mới bình thường hóa
được quan hệ với Trung Quốc, sau cuộc gặp cấp cao bí mật
tại Thành Đô (9/1990) với phương châm "16 chữ vàng" (láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai). Điều này đã diễn ra đúng như lời
tiên đoán trước đây của ông Đặng Tiểu Bình là Việt Nam
sẽ phải quay đầu lại với Trung Quốc. Lý do chính Việt Nam
phải quay lại là bức tường Berlin và chủ nghĩa cộng sản
đã xụp đổ, cùng với sự tan rã của Liên Xô. Lãnh đạo
Việt Nam đã hoảng hốt lo mất chính quyền, nên vội vã làm
lành với lãnh đạo Trung Quốc bằng mọi giá, dù phải hy sinh
lợi ích quốc gia sống còn, để cứu vãn một ý thức hệ và
thể chế chính trị đã lỗi thời.

Thỏa thuận Thành Đô là một sai lầm chiến lược to lớn và
một bước ngoặt bất hạnh cho Việt Nam, làm cố ngoại
trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải cay đắng nhận xét, "một
thời kỳ bắc thuộc mới đầy nguy hiểm đã bắt đầu".
Lãnh đạo Viêt Nam đã dại dột chui vào bẫy ý thức hệ của
Trung Quốc, trở thành con tin để họ thao túng, đến tận bây
giờ. Suốt hai thập kỷ tiếp theo, các thế hệ lãnh đạo
Việt Nam đã buộc phải theo cam kết Thành Đô, như con tin mắc
bẫy, với cái giá phải trả ngày càng cao. Qua nhiều năm, Trung
Quốc đã lặng lẽ cài cắm một mạng lưới sâu rộng gồm tay
sai và người ủng hộ họ trong nội bộ Việt Nam, từ trung
ương đến các địa phương, để tác động vào các quyết
sách quan trọng, không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế
và chính trị, mà còn cả quân sự và an ninh. Bản chất quan
hệ Viêt-Trung bất bình đẳng, dựa trên lòng trung thành mù
quáng về ý thức hệ, là nguyên nhân chính đã kìm hãm cải
cách kinh tế và ngăn cản đổi mới chính trị ở Viêt Nam trong
suốt hai thập kỷ qua.

Nay một bước ngoặt mới lại xuất hiện khi Trung Quốc đột
nhiên kéo dàn khoan khổng lồ HD 981 đặt tại vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông từ đầu tháng 5, làm lãnh
đạo Việt Nam bất ngờ, choáng váng, làm xụp đổ ảo tưởng
của họ khi Trung Quốc đã công khai trở mặt, vứt bỏ "16
chữ vàng". Dàn khoan HD 981 không phải chỉ để khoan dầu, mà
còn để khẳng định chủ quyền tại vùng biển tranh chấp mà
Trung Quốc đơn phương tuyên bố là "lợi ích cốt lõi" của
mình. Thực tế dàn khoan HD 981 là một loại "vũ khí dân
sự" để cưỡng đoạt chủ quyền, còn hiệu quả hơn cả
hàng không mẫu hạm "Liêu Ninh". Trung Quôc không bỏ lỡ cơ
hội Mỹ và các nước NATO đang bận đối phó với Nga về vấn
đề Ukraine, để tăng cường hợp tác với Nga vì nhu cầu năng
lượng lẫn địa chính trị. Họ học ngay bài học Nga chiếm
Crimea như một chuyện đã rồi, để lấn chiếm Biển Đông
bằng dàn khoan khổng lồ HD 981, nhằm thử phản ứng của Viêt
Nam, ASEAN, Mỹ và các nước khác, chuẩn bị cho nước cờ tiếp
theo.

<b>Tình hình quốc nội </b>

<b><i>Con hổ mới đã biến thành con mèo ốm yếu </i></b>

Trong khi Trung Quốc trỗi dậy, trở thành cường quốc kinh tế
thứ hai thế giới, thì Việt Nam lại tụt hậu, không cất cánh
lên được. Các tổng công ty lớn của nhà nước theo "định
hướng XHCN" là trụ cột nền kinh tế, nhưng đã thua lỗ
nặng và trở thành những con nợ khổng lồ. Thành quả cải
cách kinh tế gần hai thập kỷ đầy ấn tượng nay đã tan
thành mây khói, vì nạn tham nhũng, quản lý tồi, và bị các
nhóm lợi ích thao túng trong một cơ chế thân hữu. Các nhóm
lợi ích tham lam chiếm đất của nông dân làm dự án, câu kết
với quan tham và xã hội đen đàn áp dân nghèo, gây nên một
làn sóng bất bình khắp nơi, có nguy cơ làm bất ổn định xã
hội. Nhiều công nhân tại các doanh nghiệp FDI ở các khu công
nghiệp biểu tình đòi tăng lương và cải thiện điều kiện
sống, nhưng không được giới chủ đáp ứng tích cực nên
đầy bức xúc, dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động gây
rối, như các vụ bạo động chống Trung Quốc gần đây đã
chứng minh.

Thất bại kinh tế và bất ổn xã hội đã thúc đẩy nhanh
khủng hoảng chính trị và lãnh đạo. Các phe phái cầm quyền
tranh giành quyền lực ngày càng quyết liệt, làm phân hóa nội
bộ lãnh đạo và tê liệt năng lực quản trị đất nước,
tới mức khủng hoảng. Đấu tranh quyền lực quyết liệt giữa
phe chính phủ do Thủ tướng đứng đầu với phe đảng do Tổng
Bí thư đứng đầu, đã diễn ra tại hầu hết các hội nghị
trung ương trong năm 2013, cho tới khi tạm thời lắng xuống vào
cuối năm do không phân thắng bại phải hòa hoãn. Nay sự kiện
dàn khoan HD 981 và khủng hoảng trong quan hệ Việt-Trung đã làm
gia tăng tranh giành quyền lực, có lợi thế cho Thủ tướng
(lên tiếng chống Trung Quốc, nên được dân ủng hộ) và bất
lợi cho Tổng Bí thư (im hơi lặng tiếng, nên mất lòng dân).
Tuy Việt Nam có cơ hội để thay đổi cơ bản, nhưng lãnh đạo
lại chia rẽ vì xung đột lợi ích trước sự đe dọa của
Trung Quốc.

Gần bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, trong khi người
Việt và người Mỹ về cơ bản đã hòa giải xong, thì cộng
đồng người Việt trong nước và ngoài nước vẫn chưa hòa
giải được. Nội chiến thường để lại những vết thương
tâm lý và tinh thần sâu nặng hơn. Chừng nào trong lòng còn
hận thù và thành kiến, thì không những khó hòa giải, mà còn
dễ làm phân hóa cuộc đấu tranh chung cho tự do dân chủ và
chủ quyền quốc gia. Những người cộng sản cực đoan là
những người độc tài, nhưng những người chống cộng cực
đoan cũng chẳng khác gì. Vì vậy, chủ nghĩa cực đoan là kẻ
thù tiềm ẩn của hòa giải dân tộc và chấn hưng quốc gia.

<b>Tình hình quốc tế</b>

<b><i>Con sói cô độc</i></b>

Việt Nam tuyên bố chính sách đa phương hóa quan hệ và có
"đối tác chiến lược" với hơn 10 nước (nhưng chưa có
Mỹ). Lúc này, chẳng đối tác chiến lược nào (ngoài Mỹ) có
thể giúp Viêt Nam răn đe Trung Quốc để tránh bị bắt nạt.
Trước hành động xâm chiếm của Trung Quốc tại Biển Đông,
chính phủ nhiều nước tuy bất bình, nhưng không dám công khai
ủng hộ Viêt Nam sợ làm mất lòng Trung Quốc. Năm 1979, khi bị
Trung Quốc tấn công, Việt Nam có hiệp ước liên minh quân sự
với Liên-Xô để răn đe Trung Quốc. Nhưng hiện nay Việt Nam
hoàn toàn cô độc, không có liên minh quân sự với một nước
nào (khác với quan hệ của Mỹ với Nhật, Hàn Quốc, và
Philippines). Viêt Nam đã cố giữ cân bằng quan hệ với Trung
Quốc và Mỹ bằng chính sách "Ba Không": không tham gia liên
minh quân sự với nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ
quân sự, và không dựa vào nước này để chống nước kia.
Nếu Việt Nam không thay đổi chính sách cân bằng thụ động
này, thì làm sao tự bảo vệ được mình? Viet Nam đang đối
mặt với một cuộc khủng hoảng kép: vừa thất bại về kinh
tế vừa bị Trung Quốc đe dọa chủ quyền.

Chính sách "xoay trục" của Mỹ sang Đông Á chưa có hiệu
lực răn đe Trung Quốc. Bằng việc đưa dàn khoan HD 981 đến
Biển Đông, Trung Quốc đã qua mặt Mỹ, ngay sau khi Tổng thống
Obama đến thăm Đông Á. Phản ứng của Mỹ đối với Trung
Quốc chưa đủ mạnh, vì Việt Nam khác với Philippines. Quan hệ
"đối tác toàn diện" với Mỹ phải nâng lên thành "đối
tác chiến lược", bao gồm bán vũ khí sát thương, tập trận
chung, và sử dụng căn cứ quân sự tại Cam Ranh (như Philippines
và Singapore đã làm với Mỹ). Nhưng thể chế chính trị độc
tài của Viêt Nam, với hồ sơ nhân quyền xấu vì đàn áp tự
do dân chủ, là trở ngại chính đối với việc nâng cấp quan
hệ với Mỹ. Viêt Nam cũng khó hòa nhập sâu hơn vào thị
trường thế giới (WTO và TPP) vì vẫn bám giữ "định hướng
XHCN" và chậm chuyển đổi hẳn sang kinh tế trị trường.

Phản ứng của ASEAN đối với sự kiện HD 981 cũng khá yếu.
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (10/5/2014 tại Myanmar) ra được
tuyên bố chung nhưng không dám nêu đích danh Trung Quốc. ASEAN là
một tổ chức lỏng lẻo gồm nhiều nước có thành phần đa
dạng, dễ bị Trung Quốc phân hóa và vô hiệu hóa. Bó đũa
ASEAN đang bị Trung Quốc tách ra để bẻ gãy từng chiếc, nếu
không đoàn kết trong một cộng đồng mạnh hơn. Trong nhiều
năm, ASEAN đã không ép được Trung Quốc ký COC (quy tắc ứng
xử) tại Biển Đông. ASEAN không có cơ chế an ninh tập thể
nên không thể can thiệp để bảo vệ các nước thành viên,
kể cả khi bị đe dọa.

Căng thẳng và xung đột trong khu vực đã thúc đẩy nhiều
nước chạy đua vũ trang. Việt Nam trở thành khách hàng lớn mua
vũ khí của Nga. Nhưng điều này dẫn đến hai nguy cơ lớn:
Một là, chi phí quốc phòng tăng lên trong khi kinh tế suy thoái
sẽ đặt Viêt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan; Hai là, Việt
Nam sẽ bị hở sườn nếu Trung Quốc và Nga nâng cấp đối tác
chiến lược để đối phó với Mỹ (như đang diễn ra hiện
nay). Nếu Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác
chiến lược (như dự kiến), thì các hệ thống vũ khí hiện
đại mua của Nga có thể không còn an toàn để chống Trung
Quốc nữa (đặc biệt là hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo class
636 và mua thêm 12 máy bay chiến đầu Su-30MK2 còn đang trong quá
trình chuyển giao). Vì vậy, việc Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát
thương là rất quan trọng đối với Việt Nam lúc này.

<b>Nước cờ tiếp theo </b>

<b><i>Tiếp tục "Tam chủng Chiến pháp"</i></b>

Sự kiện Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam và bạo loạn chống Trung Quốc tại Bình
Dương và Vũng Áng là lời cảnh báo về những tử huyệt của
Viêt Nam. Nhưng nếu lãnh đạo Hà Nội vẫn không tỉnh ngộ
để tìm cách thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và dũng cảm
đối phó với thực tế mới, thì Trung Quốc sẽ tiếp tục thao
túng những tử huyệt này để đạt được mục đích, mà
chẳng cần chiến tranh.

Trung Quốc đã lợi dụng tử huyệt của lãnh đạo Viêt Nam
để dùng dàn khoan HD 981 lấn chiếm chủ quyền tại Biển Đông
như chuyện đã rồi, để thử phản ứng các bên liên quan.
Người ta nghi ngờ tay sai của Trung Quốc tại Việt Nam đã
ngầm xúi giục công nhân gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng
Áng và những nơi khác để Trung Quốc lấy cớ rút người và
đầu tư, và để các nhà đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật
Bản sợ không dám đầu tư. Việc này nhằm gây sức ép để
chính phủ Việt Nam tiếp tục trấn áp biểu tình chống Trung
Quốc. Ngoài ra Trung Quốc có thể dùng những đòn bẩy khác
để gây bất ổn cho xã hội Viêt Nam, như dùng mạng lưới tay
sai cài cắm trong nội bộ chính quyền và cộng đồng để tác
động vào các sự kiện, dùng biện pháp tài chính thương mại
để thao túng thị trường, dùng chiến tranh mạng để gây
nhiễu, dùng truyền thông để tác động vào dư luận, và dùng
công cụ pháp lý để lật lại vấn đề. Đây là một phần
của học thuyết "Tam chủng Chiến pháp" (Chiến tranh tâm lý,
truyền thông và pháp lý) mà lãnh đạo của họ đã thông qua
từ năm 2003. Trong khi chính phủ Việt Nam chưa dám nộp đơn
kiện, thì ngày 9/6, Trung Quốc đã bất ngờ đệ trình Tổng
Thư ký Liên Hiệp Quốc một tài liệu chính thức về quan
điểm đối với tranh chấp tại Biển Đông để lưu chuyển cho
tất cả 193 thành viên LHQ.

Phản ứng của lãnh đạo Viêt Nam quá chậm và im hơi lặng
tiếng, trừ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những tuyên
bố kịp thời và mạnh mẽ về hành động hiếu chiến của
Trung Quốc, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar (10/5)
và tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á ở Manila
(22/5), ghi điểm cao và nổi bật trước các đối thủ chính
trị khác. Trước mắt, Thủ tướng đã giành lại được sự
ủng hộ của dân chúng và chính danh của người lãnh đạo
quốc gia cho sứ mạng bảo vệ chủ quyền. Điều này là thiết
yếu trong cuộc chạy đua vào vị trí số một tại Đại Hội
Đảng tới. Sự kiện này đã tạo ra một bước ngoặt làm
phân hóa nội bộ lãnh đạo Việt Nam, có thể đảo lộn những
toan tính trước đó về sắp xếp nhân sự. Đây là cơ hội
tốt để Thủ tướng khẳng định vị thế chính trị, và tạo
ra những thay đổi cơ bản về chính trị và đối ngoại. Nhưng
điều này còn phụ thuộc vào lòng dũng cảm và thành tâm chính
trị của người lãnh đạo..

Phản ứng của dân chúng quá nhanh và mạnh. Có lẽ hơi quá
bồng bột để "các thế lực thù địch" lợi dụng gây
bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và các nơi khác, làm mất
uy tín Việt Nam và phá hoại nền kinh tế đang khủng hoảng.
Nếu chính phủ biết cách khắc phục hậu quả, hy vọng tác
động tiêu cực đến đầu tư FDI, như rút người rút vốn,
chỉ là nhất thời. Sau lúng túng ban đầu, chính phủ đã có
những biện pháp mạnh hơn để đối phó. Nhưng đừng quá
mạnh tay với dân chúng và nhẹ tay với bọn đầu sỏ thủ
phạm, vì đó là dấu hiệu họ đứng về phía nào. Đây là cơ
hội tốt để các lực lượng yêu nước tập hợp, vì hòa
giải và đoàn kết dân tộc, để bảo vệ chủ quyền quốc
gia. Đây cũng là thời điểm tốt để phe cải cách lật
ngược bàn cờ chính trịvà giành lại thế thượng phong. Nhưng
sau chuyến thăm của Dương Khiết Trì (18/6/20014), hình như cả
hai phái lãnh đạo Việt Nam vẫn lúng túng và bất lực, chưa
dám hành động.

Tuy phe bảo thủ thân Trung Quốc bị choáng váng, hoang mang và
mất thể diện, nhưng họ vẫn nắm quyền quyết định. Việc
Ngoại trưởng Phạm Bình Minh phải hoãn chuyến đi Mỹ theo lời
mời của Ngoại trưởng John Kerry (22/5), và những phát biểu
yếu ớt của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Đối
thoại Shangri-La 2014 (30/5) là những tín hiệu xấu, chứng tỏ
lãnh đạo Việt Nam vẫn sợ Trung Quốc, tiếp tục duy trì
nguyên trạng về ý thức hệ, mặc dù nguy hại cho chủ quyền
quốc gia. Một khi Trung Quốc rút dàn khoan và tàu thuyền về,
phe bảo thủ sẽ lại hồi phục và thế cân bằng chính trị
lại tiếp diễn. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có thể thay đổi
cơ bản khi nào dân chúng thoát khỏi nỗi sợ để hòa giải và
đoàn kết dân tộc thành sức mạnh nhân dân, tạo sự đột
phá bằng quá trình thay đổi từ dưới lên, chứ không phải
chỉ từ trên xuống. Giai đoạn Đổi mới (1986-1990) là một
bài học về quá trình thay đổi từ trên xuống bị chết yểu
khi chính quyền đột nhiên quyết định đóng cửa.

Phản ứng quốc tế mạnh hơn trước, nhưng chưa đủ mạnh
để răn đe Trung Quốc. Không nên ảo tưởng là quốc tế luôn
ủng hộ Viêt Nam chống Trung Quốc, vì thế lực Trung Quốc quá
lớn và quá mạnh, bàn tay của họ quá dài vươn ra khắp nơi.
Viêt Nam phải thay đổi thái độ chính trị để có bộ mặt
tử tế hơn Trung Quốc, vì không ai muốn ủng hộ một chế
độ độc tài tham nhũng, với hồ sơ nhân quyền quá xấu. Đây
là cơ hội tốt để Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành
đối tác chiến lược để đối phó với Trung Quốc. Nhưng
đừng quá ảo tưởng vào "lá bài Mỹ" (cũng như "lá bài
Nga" trước đây). Chủ trương "xoay trục" và trò chơi TPP
của Mỹ còn đang diễn biến. Đối với Washington, Trung Quốc
quan trọng hơn nhiều so với Việt Nam. Hơn nữa, Mỹ còn đang sa
lầy tại Trung Đông và dính líu tại Ukraine, trong khi phải
đối phó với ngân sách quốc phòng bị cắt giảm và xu hướng
trong nước muốn co lại. Trong bài diễn văn về đối ngoại
dài 9 trang tổng thống Obama đọc tại West Point (28/5/2014) chỉ
có mấy dòng mờ nhạt đề cập đến tranh chấp trên biển
tại khu vực này, trong đó chỉ nhắc đến Biển Đông và Trung
Quốc hai lần, và không nói gì đến Việt nam cũng như dàn khoan
của Trung Quốc.

Trung Quốc khó có khả năng duy trì quá lâu dàn khoan khổng lồ
HD 981 và một đội tàu hộ tống quá lớn tại Biển Đông.
Đơn giản là quá tốn kém, dù cho bất kỳ lý do gì. Trung Quốc
có thể rút dàn khoan HD 981 vào giữa tháng 8 như dự kiến,
hoặc thậm chí sớm hơn nếu đã xong nhiệm vụ, hoặc nếu mùa
mưa bão ập đến sớm hơn. Nhưng dù sao, Trung Quốc sẽ không
bao giờ bỏ cuộc, và sẽ sử dụng tối đa "chiến thuật dàn
khoan". Họ có thể triển khai thêm nhiều dàn khoan tại những
vị trí khác, và ráo riết xây dựng hạ tầng chiến lược
tại các bãi đá họ chiếm để đòi "vùng đặc quyền kinh
tế", và "khu vực nhận dạng phòng không". Trung Quốc sẽ
"tùy cơ áp đặt" để từng bước độc chiếm Biển Đông,
nhưng tránh đối đầu quân sự với Mỹ. Nước cờ dàn khoan
của họ cho thấy nếu xung đột vũ trang xảy ra, nó sẽ xảy ra
chớp nhoáng trên biển, với những đòn tấn công chính xác
của hải quân và không quân, để phát huy ưu thế, nhằm đảm
bảo thắng nhanh để Mỹ không kịp can thiệp. Trận hải chiến
tại Gạc Ma năm 1988 là một ví dụ.

Nhưng khi hạm đội tàu ngầm Viêt Nam gồm 6 chiếc Kilo class 636
được bàn giao và sẵn sàng hoạt động, với 12 máy bay chiến
đấu Su-30MK2 mới bổ xung, Trung Quốc sẽ khó tự do tung hoành
ở Biển Đông. Đặc biệt, khi quan hệ với Mỹ được nâng
cấp thành "đối tác chiến lược", bao gồm bán vũ khí sát
thương và tập trận chung với Hạm đội 7, và nhất là sau khi
Nhật Bản chuyển giao đội tàu tuần duyên loại Bizan cho cảnh
sát biển Việt Nam, thì tư thế phòng thủ của Viêt Nam ở
Biển Đông sẽ được cải thiện đáng kể. Tuy Trung Quốc
không muốn xô đẩy Viêt Nam vào vòng tay người Mỹ, nhưng hành
động ngang ngược mới của họ có thể làm thay đổi cục
diện, dẫn đến những hệ quả không mong muốn.

Trung Quốc có những phương án khác trong chiến lược vươn ra
biển khơi của mình. Nếu lối ra Ấn Độ Dương của họ bị
ngăn chặn vì những thay đổi gần đây ở Miến Điện, với
sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ tại đây, Trung Quốc phải
tìm lối ra Vịnh Thailand và xa hơn nữa. Vì những lý do kinh tế
và địa chính trị, Trung Quôc phải kết nối các tỉnh phía Nam
với biển khơi bằng một hành lang trong đất liền như một
tuyến đường huyết mạch đi qua mấy nước láng giềng, để
đối phó với chiến lược "bao vây trên biển" của Mỹ
nhằm phong tỏa Trung Quốc tại các điểm yết hầu trên biển.
Gần đây, Trung Quốc đã giành được một số dự án lớn ở
Lao, Campuchea và Thailand, để xây dựng những cơ sở giao thông
và hậu cần có giá trị cao, bao gồm các hệ thống đường
sắt, đường cao tốc, đường sông, sân bay, trạm ra đa, hải
cảng và kho tàng.

Việc Trung Quốc triển khai dàn khoan khổng lồ HD 981 và đội
tàu hộ tống rất lớn tại đây là một phần của kế hoạch
nhằm độc chiếm Biển Đông, và kiểm soát các đường hàng
hải huyết mạch, bằng cách triển khai học thuyết A2/AD
(anti-access/area-denial) mà Mỹ và các đồng minh rất quan ngại.
Gã khổng lồ đói năng lượng tất nhiên thèm khát tài nguyên
ở Biển Đông, bao gồm 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ mét
khối (Anh) khí đốt (theo đánh giá của US Energy Information
Administration) hoặc 17 tỷ thùng dầu và 498 nghìn tỷ mét khối
khí đốt (theo đánh giá của China National Offshore Oil Corporation).
Nhưng, Trung Quốc còn muốn kiểm soát cả đường hàng hải, vì
hơn 5 nghìn tỷ USD hàng hóa hàng năm phải qua đây (gồm 3/4 số
dầu Trung Quốc nhập khẩu và hầu hết số dầu chuyển đến
Japan, South Korea, và Taiwan). Vì tất cả hàng hóa của họ vận
chuyển bằng đường biển phải qua đây, nên Trung Quốc rất lo
ngại chiến lược "Kiểm soát Ngoài khơi" (Offshore Control)
của Mỹ nhằm bảo vệ "Vành đai các đảo tiền tiêu" (First
Islands Chain) và dùng các điểm yết hầu như eo Malacca hay Lombok
để chặn đường xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Vì vậy,
trong khi Trung Quốc tìm kiếm các con đường bộ khác (qua Lao,
Campuchea, Thailand), họ phải kiểm soát bằng được Biển Đông.

Điều một dàn khoan trị giá gần một tỷ đô la đến Biển
Đông, với hơn một trăm tàu hộ tống các loại vây quanh trong
mấy tháng liền, chi phí mỗi ngày gần một triệu đô la, Trung
Quốc không chỉ nhằm một mục đích. Nếu không phải chủ
yếu để khoan dầu như dư luận nghi vấn, thì nó phải có một
nhiệm vụ gì khác quan trọng hơn. Dàn khoan này có thể được
dùng để đánh lạc hướng dư luận trong khi họ lặng lẽ xây
dựng đảo nhân tạo và căn cứ quân sự tại các bãi đá ở
Trường Sa, nhằm áp đặt "đường lưỡi bò" (như chuyện
đã rồi), tuyên bố "khu vực nhận dạng phòng không" (ADIZ)
và đòi "vùng đặc quyền kinh tế" (EEZ) như tại Hoàng Sa.
Nếu đúng Trung Quốc đang đóng thêm một dàn khoan khổng lồ
thứ hai (HD 982) như tin đồn, thì việc sử dụng dàn khoan
khổng lồ có công năng kép này chứng tỏ là một công cụ
chiến lược hiệu quả, vừa để khoan dầu vừa để khẳng
định chủ quyền.

Vì vậy, điều quan trọng là phải quan sát thật kỹ xem Trung
Quốc đang lặng lẽ làm gì tại các địa điểm chiến lược
khác ở Biển Đông, cũng như ở Viet Nam, Lào, Campuchea, và
Thailand (từ sau đảo chính). Các công trình đang được xây
dựng ở Trường Sa (như đường băng trên bãi đá Gac Ma, đảo
nhân tạo và căn cứ quân sự trên bãi đá Chữ Thập) sẽ
được kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm tại đảo Hải
Nam và đảo Tam Sa tại Hoàng Sa. Theo đường chim bay, căn cứ Du
Lâm chỉ cách đặc khu kinh tế Vũng Áng hơn 350km. Mấy nghìn
công nhân Trung Quốc đang làm việc tại Vũng Áng (Hà Tĩnh,
Miền Trung), tại dự án Bô xít Tân Rai và Nhân Cơ (Tây Nguyên)
là một rủi ro lớn về an ninh. Nếu có chiến sự, Trung Quốc
dễ dàng cắt đôi Việt Nam tại điểm xung yếu này. Về phía
Tây có tuyến đường sắt cao tốc Côn Minh-Vientiane (Lào), các
căn cứ tại Koh Kong và Bokor (Campuchea), kênh đào Kra Isthmus
(Thailand). Một khi các cơ sở chiến lược này hoàn thành và
được kết nối, thì Trung Quốc có thể vô hiệu hóa kế
hoạch "xoay trục" của Mỹ nhằm ngăn chặn Trung Quốc, và
dễ dàng khống chế Việt Nam. Họ chỉ cần hăm dọa, cưỡng
ép và bắt chẹt cũng đạt được mục đích, mà không cần
phải đánh, vì lúc đó mọi sự kháng cự của Việt Nam là quá
yếu ớt và quá muộn…

Năm 1973 "cú sốc dầu hỏa" làm Nhật Bản được một bài
học nhớ đời, phải vội vã điều chỉnh chiến lược năng
lượng, nên bị thiên hạ gọi là "quái vật kinh tế". Trung
Quốc học bài rất nhanh, đã kịp thời bắt tay với Nga gần
đây để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng và lá bài
địa chính trị trong trò chơi nước lớn mới. Trong khi đó,
Trung Quốc đã triển khai hung hăng hơn tại Biển Đông để
tranh thủ giành lợi thế do khoảng trống quyền lực tại đây
vì ASEAN yếu và phân hóa, còn Mỹ và các đồng minh đều
vướng các vấn đề khác nên không thể hành động quyết
đoán. Đây là nước cờ có tính toán nhưng rất nguy hiểm vì
Trung Quốc không chỉ là một "quái vật kinh tế" khổng lồ
đã vượt qua Nhật Bản, mà còn là một "quái vật được vũ
trang" đầy tham vọng, sẵn sàng thách thức các quyền lợi
toàn cầu của Mỹ. Họ không còn đủ kiên nhẫn để chơi theo
luật chơi cũ. "Cú sốc dàn khoan" này là một lời cảnh báo
và một bước ngoặt mới, không chỉ đối với Việt Nam mà cho
toàn khu vực. Dù có kiềm chế, khả năng xảy ra xung đột vũ
trang do sai sót kỹ thuật hay con người, hoặc do trục trặc về
truyền thông là rất lớn.

<b>Làm thế nào để "thoát Trung"</b>

<b><i>Phản tỉnh dể thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ </i></b>

Quan hệ Viêt-Trung phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi. Nhưng thực tế điều
này không thể có giữa một nước nhỏ yếu với một láng
giềng khổng lồ, lại có truyền thống bá quyền đại Hán.
Cách duy nhất là Việt Nam phải độc lập và đủ mạnh để
răn đe đối với Trung Quốc (như Israel đối với các láng
giềng lớn hơn).

Nhưng muốn độc lập và mạnh, trước hết phải "thoát
Trung" vì cái bẫy ý thức hệ đã trói buộc và kìm hãm Viêt
Nam trong hơn một nửa thế kỷ. Cơ hội "thoát Trung" tốt
nhất là khi Trung Quốc bi khủng hoảng và suy yếu (như thời
Cách mạng Văn hóa). Mô hình Trung Quốc trước đây đã thất
bại (như đại nhảy vọt) và sắp tới cũng không thể thành
công (như Giấc mộng Trung Hoa), trừ phi có thay đổi chính trị
cơ bản (điều này rất khó). Đó là nghịch lý phát triển
kiểu Trung Quốc. Gordon Chang dự đoán "Trung Quốc sắp xụp
đổ" trong khi Paul Krugman xác nhận "Trung Quốc đang gặp rắc
rối lớn", vì đã đến điểm giới hạn. Ngày phán quyết
của họ đang đến gần. Vậy tại sao Việt Nam cứ đi theo Trung
Quốc?

Muốn "thoát Trung", trước hết Việt Nam phải đổi mới tư
duy, từ "trong cái hộp" phải tư duy "ngoài cái hộp".
Người Việt phải học hỏi kinh nghiệm "thoát Á" của
người Nhật dưới thời Minh trị, theo tư tưởng đổi mới vĩ
đại của Fukuzawa Yukichi (1835-1901). Những nước Đông Á nào
quyết tâm đổi mới tư duy để hiện đại hóa đất nước,
đều trở thành cường thịnh và có sức sống (như Nhật Bản,
Hàn Quốc). Chỉ 2 hay 3 thập kỷ sau chiến tranh bị tàn phá
lớn, họ đã chấn hưng được đất nước, trở thành cường
quốc kinh tế hàng đầu thế giới.

Trong hơn một nửa thế kỷ qua, Viêt Nam đã xa lầy vào quỹ
đạo ý thức hệ Trung Quốc hai lần. Lần thứ nhất là từ khi
biên giới hai nước thông thương (1950) để hai bên "núi liền
núi, sông liền sông", gắn bó như "môi với răng", và để
chủ nghĩa Mao tràn vào Viêt Nam, gây bao đại họa (như cải
cách ruộng đất, tập thể hóa nông nghiệp, đàn áp phong trào
nhân văn Giai phẩm…). Lần thứ hai là tại gặp gỡ cấp cao
Thành Đô (9/1990) khi hai "anh em tử thù" lại đột nhiên ôm
chầm lấy nhau như các đồng chí "bốn tốt" với phương
châm "16 chữ vàng". Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc một cách "bất bình thường", dại dột tự
chui đầu vào cái bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, để bây
giờ mới vỡ mộng khi Trung Quốc công khai lộ bộ mặt thật.
Hệ lụy nặng nề của sai lầm to lớn tại Thành Đô đã
được cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch dự báo, nay đang
diễn ra tại Biển Đông và những nơi khác.

Giữa hai kinh nghiệm thảm họa đó khi Viêt Nam đi theo quỹ
đạo Trung Quốc, thì Viêt Nam đã cố "thoát Trung" một lần
sau năm 1975, khi Viêt Nam xâm lược Campuchea để đánh Khmer Đỏ
là đồng minh của Trung Quốc (12/1978), và đánh trả Trung Quốc
xâm lược Viêt Nam để "dạy bài học" (2/1979). Viêt Nam đã
coi Trung Quốc như "kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm", thậm
chí ghi cả điều đó vào Hiến pháp (1980) và Cương lĩnh Đảng
(1982). Viêt Nam đã mắc sai lầm chiến lược to lớn, sập bẫy
của Trung Quốc, bị cô lập với thế giới (trừ Liên Xô), và
xa lầy tại Campuchea. Viêt Nam đã cố "thoát Trung" một cách
lầm lẫn: chống Trung Quốc (nhưng vẫn giữ nguyên ý thức
hệ), chủ quan (tưởng Liên Xô là thành trì vững chắc) và
ngây thơ (đối đầu với Trung Quốc khi họ đã bắt tay được
với Mỹ).

Nay nếu Viêt Nam định "thoát Trung" bằng cách đi đêm với
Mỹ như đối tác chiến lược để chống Trung Quốc, trong khi
không chịu từ bỏ ý thức hệ đã lỗi thời, thì sẽ lặp
lại sai lầm. Viêt Nam chỉ có thể dựa vào Mỹ để "căn
bằng" với Trung Quốc, chứ không thể "đối đầu" với
họ. Chỉ có thể "thoát Trung" về ý thức hệ, chứ không
thể "thoát Trung" về địa chính trị. Về lâu dài, người
Việt phải sống khiêm tốn, tử tế, tương kính với người
Hoa như những láng giềng thân thiện, cùng nhau đổi mới kinh
tế và chính trị, xây dựng một xã hội khá giả và dân chủ.
Độc tài và tham nhũng là kẻ thù chung của hai dân tộc. Vì
vậy, muốn "thoát Trung" trước hết phải phản tỉnh để
thoát khỏi ý thức hệ đã lỗi thời, là nguyên nhân chính
dẫn đến mọi tai họa.

<b>Làm thế nào để sống bên cạnh Trung Quốc? </b>

<b><i>Phải thay đổi hoặc mất hết.</i></b>

Nhìn lại quá khứ với những bài học đau đớn, Viêt Nam
phải làm thế nào để sống được bên cạnh một nước láng
giềng khổng lồ có truyền thống bá quyền đại Hán (như Trung
Quốc)?

Thứ nhất, lãnh đạo của nước nhỏ hơn phải giỏi hơn về
thuật trị quốc, để nước láng giêng lớn hơn không dễ bắt
nạt. Để có lãnh đạo giỏi, phải biết trọng dụng nhân
tài, không phân biệt và kỳ thị nguồn gốc, như người Đức
trọng dụng bà Angela Markel gốc Đông Đức hay ông Philipp Koeller
gốc Việt. Lãnh đạo quốc gia phải vì lợi ích dân tộc, chứ
không vì lợi ích nhóm hay cá nhân. Nếu lãnh đạo chạy chức
chạy quyền không theo luật pháp, thì các quan tham sẽ vơ vét
tài sản quốc gia làm giàu cho mình, làm đất nước khánh
kiệt.

Thứ hai, dân trí của nước nhỏ hơn phải cao hơn trong một
xã hội dân sự, để nước láng giềng lớn hơn không dễ lừa
gạt. Phải khai tâm khai trí cho dân, và phải tôn trọng quyền
tự do dân chủ của người dân. Đất nước không thể có nhân
tài nếu người dân không được suy nghĩ sáng tạo và tự do
tư tưởng. Không thể phát huy được nội lực quốc gia để
dựng nước và giữ nước nếu không có hòa giải dân tộc và
xã hội dân sự.

Thứ ba, tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước nhỏ hơn
phải có chất lượng cao hơn, để nước láng giềng lớn hơn
không dễ áp đặt. Trong quá trình dựng nước, phải học bài
học "quốc gia khởi nghiệp" của Israel, và kinh nghiệm phục
hồi kinh tế sau chiến tranh của Đức, Nhật và Hàn Quốc. Mặc
dù Nhật và Đức thua trận phải đầu hàng, nhưng chỉ hai-ba
thập kỷ sau chiến tranh, họ đã phục hồi, trở thành cường
quốc kinh tế đứng thứ hai và thứ ba thế giới. Trong khi đó
Việt Nam tuy thắng trận, nhưng bốn thập kỷ sau chiến tranh,
đất nươc vẫn nghèo nàn lạc hậu và lệ thuộc. Muốn phát
triển kinh tế bền vững, phải đổi mới thể chế chính trị,
để hậu thuẫn cho cải cách kinh tế và đổi mới công nghệ.

Thứ tư, quan hệ đối tác chiến lược của nước nhỏ hơn
phải đủ mạnh để răn đe tham vọng bá quyền của nước
láng giềng lớn. Hiện nay, Viêt Nam có rất ít sự lựa chọn
và rất ít thời gian, không thể tiếp tục bắt cá hai tay để
cân bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ. Sự kiện dàn
khoan HD 981 là một bài học. Trong thế giới đa cực ngày nay,
quan hệ đối tác chiến lược không còn phụ thuộc vào ý
thức hệ mà chỉ dựa vào lợi ích quốc gia và địa chính
trị. Nếu Viêt Nam không chịu thay đổi tư duy thì sẽ trở
thành tù binh của quá khứ, và thất bại.

Nếu thiếu hụt những yếu tố trên, Viêt Nam dễ trở thành
mồi ngon của chủ nghĩa bá quyền đại Hán. Nguy cơ bắc thuộc
ngày càng lớn lên cùng sự trỗi dậy của Trung Quốc và tụt
hậu của Viêt Nam. Để giữ độc lập và chủ quyền quốc gia,
người Việt cần phản tỉnh để thoát khỏi cái bẫy ý thức
hệ và cải cách thể chế chính trị. Đã đến lúc phải thay
đổi hoặc mất hết.

<i>NQD, 6/2014</i>

<i>(Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993).


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140822/nguyen-quang-dy-nhin-lai-xung-dot-viet-trung),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét