David Shambaugh - Ảo tưởng về quyền lực Trung Quốc

<center><img
src="http://nationalinterest.org/files/styles/main_image_on_posts/public/main_images/10223096684_18077ebe4d_h.jpg?itok=xu5a9gx2"
width="570" /></center>

<strong>Niềm tin rằng Trung Quốc là một cường quốc thế giới
đang lan rộng, điều này có thể hiểu được, nhưng nó hoàn
toàn sai lầm.</strong>

Sự hiểu biết thông thường nói rằng chiếc xe tăng Trung Quốc
là không thể ngăn cản và rằng thế giới phải điều chỉnh
trước thực tế rằng anh chàng khổng lồ châu Á này sẽ trở
thành một - và có lẽ là duy nhất - cường quốc thế giới.
Một cộng đồng nhỏ của những người tiên đoán "sự trỗi
dậy của Trung Quốc" đã hình thành trong thập niên vừa qua,
tất cả đều vẽ nên một bước tranh về thế giới thế kỷ
21 với Trung Quốc là một nhân vật đóng vai trò chi phối.
Niềm tin này đang lan rộng, và có thể hiểu được - tuy nhiên
nó hoàn toàn sai.

Nhớ lại cách đây không lâu, vào thập niên 1980, những dự
đoán tương tự đã được đưa ra về một Nhật Bản trở
thành "số một" và gia nhập câu lạc bộ ưu tú của các siêu
cường - ngay trước khi nó rơi vào tình trạng trì trệ kéo dài
3 thập niên và được đánh giá là một cường quốc "chỉ
trên một phương diện" (kinh tế) mà không có một nền tảng
thuộc tính quốc gia rộng lớn hơn để dựa vào. Trước đó
là Liên Bang Xô Viết được cho là sẽ trở thành siêu cường
quốc tế (một giả định khiến người ta theo đuổi Chiến
Tranh Lạnh suốt nửa thế kỷ), để rồi nó sụp đổ gần như
trong một đêm vào năm 1991. Những gì người ta chứng kiến sau
cái chết của Liên Bang Xô Viết cho thấy, tương tự Nhật
Bản, quốc gia này chỉ mạnh "trên một phương diện" (quân
sự) mà ngay cả sức mạnh này cũng đã bị teo dần từ bên
trong sau vài thập niên. Với sự trỗi dậy của cuộc Chiến
Tranh Lạnh, một số chuyên gia giả thiết rằng một Liên Minh
Châu Âu mở rộng và được củng cố sẽ trở thành một
quyền lực quốc tế mới, và là một cực của hệ thống
quốc tế - để rồi EU chứng tỏ mình là kẻ bất lực và
không đủ khả năng đối phó với hàng loạt những thách thức
toàn cầu. Châu Âu cũng tỏ ra là một cường quốc "trên một
phương diện" (kinh tế). Do đó, khi tới phiên Trung Quốc ngày
hôm nay, một chút tỉnh táo và hoài nghi là cần thiết.

Chắc chắn Trung Quốc là một cường quốc đang nổi lên quan
trọng nhất của thế giới, vượt xa các quốc gia khác như Ấn
Độ, Brazil hay Nam Phi. Và trong một số phương diện, Trung Quốc
đã vượt qua một số cường quốc hạng trung như Nga, Nhật,
Anh, Pháp, Đức. Theo nhiều thước đo, Trung Quốc đã trở thành
cường quốc lớn thứ hai trên thế giới, sau Hoa Kỳ, và về
một số phương diện, họ đã vượt qua người Mỹ. Trung Quốc
có nhiều nhân tố để trở thành cường quốc thế giới: Một
dân số đông nhất thế giới, một diện tích lục địa lớn,
một nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, một quĩ dự trữ
ngoại tệ lớn nhất thế giới, một ngân sách quốc phòng lớn
thứ hai trên thế giới, một chương trình không gian, một mẫu
hạm, một viện bảo tàng lớn nhất thế giới, một đập
thủy điện lớn nhất thế giới, một hệ thống xa lộ lớn
nhất thế giới, và một hệ thống đường xe lửa cao tốc
tốt nhất thế giới. Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu về
mậu dịch quốc tế, là người tiêu thụ năng lượng nhiều
nhất thế giới, là người phát sinh ra nhiều nhất các loại
khí thải gây ảnh hưởng nhà kính, là quốc đứng hàng thứ
hai về nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và là quốc
gia đứng hàng thứ ba về đầu tư ra nước ngoài (ODI-Oversea
Direct Investment). Và là sản xuất nhiều nhất thế giới về
nhiều loại hàng hóa.

Tuy thế, khả năng sản xuất chỉ là một chỉ số về sức
mạnh của một quốc gia, và trên trường quốc tế; và không
phải là chỉ số quan trọng nhất. Nhiều thế hệ các học
giả xã hội học đã xác định được chĩ số quan trọng
nhất của sức mạnh quốc gia là <i>ảnh hưởng</i> đối với
nước khác. Đó là khả năng định hình các sự kiện và hành
động của các quốc gia khác. Như học giả nổi tiếng Robert
Dahl đã nhận xét: " A có quyền lực trên B khi có khả năng
xui khiến B làm chuyện gì đó mà B không thể làm khác
được". Các khả năng không được chuyển đổi thành hành
động để đạt một số mục đích nào đó, thì không có giá
trị gì nhiều. Sự hiện diện của các khả năng này có thể
tạo ra ảnh hưởng đe dọa hay choáng ngợp lên người khác.
Nhưng chỉ có khả năng ảnh hưởng lên hành động của người
khác, hay lên kết quả của một sự kiện mới là điều đáng
kể. Dĩ nhiên có nhiều cách thức mà các quốc gia có thể sử
dụng để ảnh hưởng tới hành động của nước khác, hay
tới diễn biến của một sự kiện: lôi kéo, chinh phục bằng
ngôn từ, hợp tác, ép buộc, chi tiền, lôi cuốn hay đe dọa
dùng vũ lực. Sức mạnh và sự thực hiện nó có quan hệ nội
tại tự có. Sự sử dụng những phương tiện này nọ đối
với kẻ khác để có thể ảnh hưởng lên tình hình có lợi
cho bản thân họ.

Khi chúng ta khảo sát sự hiện diện của Trung Quốc và cách
hành sử của họ trên thế giới ngày nay, chúng ta cần bỏ qua
những nét gây ấn tượng bề ngoài và tự hỏi: "Liệu ngày
nay Trung quốc có được ảnh hưởng lên các quốc gia và lên
quĩ đạo các sự kiện quốc tế trong các lãnh vực khác nhau?"
Câu trả lời ngắn gọn là: "Không nhiều lắm, nếu không nói
là chẳng có gì cả".

Có rất ít các lãnh vực mà người ta có thể nói Trung quốc
thực sự có ảnh hưởng lên các quốc gia khác, tạo ra tiêu
chuẩn toàn cầu hay định hình khuynh hướng toàn cầu. Họ cũng
không cố gắng giải quyết các vấn đề quốc tế. Trung Quốc
là một cường quốc thụ động, phản ứng của họ là né
tránh những thách thức, và lẩn trốn khi có cuộc khủng hoảng
quốc tế xảy ra. Các cuộc khủng hoảng hiện nay ở Syria và
Ukraina là những ví dụ điển hình về tính thụ động của
Bắc Kinh.

Hơn thế nữa, nếu khảo sát kỹ hơn về các khả năng của
Trung Quốc, người ta thấy chúng không mạnh lắm. Nhiều chỉ
số cho thấy đầy ấn tượng về mặt số lượng, nhưng không
ấn tượng vế chất lượng. Chính vì thiếu sức mạnh chất
lượng mà Trung Quốc thiếu ảnh hưởng thực sự. Người Trung
quốc có câu thành ngữ "<em>wai ying, nei ruain</em>" (cứng
ngoài, mềm trong). Đó chính là tính chất của Trung Quốc ngày
nay. Nếu lục lọi các con số thống kê đầy ấn tượng về
Trung quốc, bạn sẽ thấy những yếu kém tràn lan, những khó
khăn quan trọng, và nền tảng yếu kém để trở thành đại
cường thế giới. Trung Quốc có thể là con hổ giấy của thế
kỷ thứ 21.

Điều này có thể được cảm nhận trong 5 lãnh vực: Chính
sách ngoại giao quốc tế của Trung quốc, khả năng quân sự,
hiện diện văn hóa, sức mạnh kinh tế và các yếu tố nội
địa làm giảm vị trí của Trung quốc trên trường thế giới.
Chúng ta sẽ xem xét từng khía cạnh.

<b>1- CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO</b>

Về nhiều khía cạnh, chính sách ngoại giao của TQ đã mang
tính chất toàn cầu. Trong 40 năm qua, TQ đã đi từ tình trạng
bị cô lập đối với cộng đồng quốc tế, và trở thành
một thành viên của cộng đồng quốc tế. Ngày nay, Bắc Kinh
có quan hệ ngoại giao với 175 nước; TQ trở thành thành viên
của hơn 150 tổ chức quốc tế, và tham gia hơn 300 hiệp ước
đa phương. Mỗi năm, Bắc Kinh tiếp đón nhiều chính khách
nước ngoài hơn hẳn các quốc gia khác, và các nhà lãnh đạo
TQ đi ra nước ngoài đều đặn.

Mặc dù hội nhập vào cộng đồng quốc tế, và chính sách
ngoại giao tích cực của Bắc Kinh, lãnh vực ngoại giao chính
là chỗ cho thấy Bắc Kinh chỉ giữ vai trò <i>cường quốc bán
phần</i> một cách rõ nhất. Một mặt, Trung quốc được coi là
biểu hiệu của một đại cường thế giới; Họ là thành viên
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, thành
viên của nhóm G-20, và là người tham gia vào các hội nghị
quốc tế thượng đỉnh quan trọng. Mặt khác, các viên chức
Trung quốc vẫn còn rụt rè và thụ động trong các hoạt động
này, và trước những thách thức mang tính toàn cầu. Trung Quốc
không lãnh đạo, họ cũng không định hình nền ngoại giao
quốc tế, không hướng dẫn chính sách ngoại giao của nước
khác, không thành lập được những đồng thuận toàn cầu,
không thành lập được liên minh để giải quyết vấn đề...
Bắc Kinh không chủ động tham gia giải quyết những vấn đề
lớn của thế giới, mà ngược lại, họ tỏ ra thụ động và
hay phân vân khi tham gia vào những nỗ lực đa phương do nước
khác tổ chức (thường là do Hoa Kỳ tổ chức).

Là cường quốc thế giới, bạn phải tham gia giải quyết các
vụ tranh chấp, mang mọi phe phái ngồi lại với nhau, thành lập
liên minh và đưa ra đồng thuận; và khi cần tới, cũng phải
dùng áp lực. Bắc Kinh thích ngồi bên lề và chỉ giản dị
kêu gọi các nước khác giải quyết tranh chấp bằng các
"biện pháp hòa bình", và tìm ra giải pháp "cùng thắng".
Những ngôn từ trống rỗng đó không giúp giải quyết được
gì cả. Bắc Kinh cũng dị ứng với những biện pháp áp đặt,
và chỉ đi theo những biện pháp trừng phạt của Hội đồng
Bảo an LHQ, khi tình hình cho thấy rõ rệt là nếu không làm như
vậy, Bắc Kinh sẽ bị cô lập, và hình ảnh quốc tế của
Bắc Kinh sẽ bị hoen ố. Đó không phải là cách hành xử của
một quốc gia lãnh đạo thế giới.

Thực thế, chính sách ngoại giao của Bắc Kinh thực sự là
màn tuồng trình diễn, chỉ mang tính tượng trưng hơn là có
nội dung. Chúng có mục đích hàng đầu là củng cố tính hợp
pháp của Đảng Cong sản Trung Quốc đối với quần chúng trong
nước; bằng cách cho thấy các nhà lãnh đạo Trung quốc vai kề
vai với các nhà lãnh đạo thế giới. Cùng lúc báo hiệu cho
cộng đồng thế giới là đất nước đã trở lại vị trí
đại cường sau nhiều thế kỷ bất lực. Vì thế, chính phủ
Trung quốc đã cố dàn xếp, kéo dài mang đầy kịch tính những
cuộc gặp gỡ quan khách quốc tế. Mặc dù vậy, nền ngoại
giao Trung quốc cố tránh rủi ro, và nằm dưới sự dẫn dắt
của quyền lợi quốc gia thiển cận. Bắc Kinh bình thường
chọn những giải pháp có mẫu số chung thấp nhất, chọn lựa
những vị trí an toàn nhất, ít gây tranh cãi nhất, và họ
thường chờ đợi thái độ của các quốc gia khác trước khi
bộc lộ quan điểm của mình.

Tính chất thụ động này có những ngoại lệ, nằm trong các
vấn đề được coi là quyền lợi cốt lõi và hạn hẹp của
họ: Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương, nhân quyền và tranh chấp
lãnh thổ. Trong những vấn đề này, Bắc Kinh tỏ ra siêu cứng
rắn, và có chính sách ngoại giao áp chế. Nhưng những nỗ lực
để bảo vệ quyền lợi của họ thường tỏ ra vụng về và
phản tác dụng cho hình ảnh và mục đích của họ. Ngoài việc
bảo vệ các quyền lợi quốc gia thiển cận, chính sách ngoại
giao của họ tỏ ra thụ động cùng cực, đối với một đất
nước to lớn và quan trọng như vậy.

Khi bàn tới việc quản trị thế giới, việc này đòi hỏi
phân phối ngân sách tùy theo khả năng tổng thể của mỗi
quốc gia, cách hành xử của Bắc Kinh bình thường mang tình
tiêu cực, và đầu óc thiển cận trong ngoại giao. Trung Quốc
có đóng góp trên nhiều vấn đề quản trị thế giới: Các
hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, hoạt
động chống cướp biển vùng vịnh Eden, các biện pháp chống
khủng bố ở Trung Á, viện trợ phát triển cho nước ngoài,
chống sự phổ biến vũ khí hạt nhân, y tế công, cứu trợ
thiên tai, và chống tội phạm quốc tế. Trong những lãnh vực
này, Bắc Kinh có đóng góp xứng đáng. Tuy nhiên, Trung Quốc nên
làm và có thể làm nhiều hơn thế nữa. Nhưng họ "đấm
box" dưới trọng lượng của họ, vì không đóng góp tỷ lệ
với tầm vóc của sự giàu có, hay ảnh hưởng tiềm ẩn của
họ. Thế giới nên trông đợi và đòi hỏi Trung quốc đóng
góp nhiều hơn nữa.

Tại sao chính sách ngoại giao quản trị thế giới của Trung
quốc lại bị gò bó như vậy? Có ba lý do chính:

Thứ nhất, có sự bi quan sâu sa ở trong nội bộ Trung quốc
về những ý tưởng tự do và về quan điểm cơ bản trong quản
trị thế giới. Họ nghĩ đó là những cái "bẫy" cuối cùng
do Phương Tây lập ra (nhất là Hoa Kỳ) để làm chảy máu Trung
quốc khi đề nghị Trung Quốc can thiệp vào những cuộc khủng
hoảng và những nơi mà Trung quốc không có quyền lợi trực
tiếp. Như thế sẽ làm phân tán nguồn lực, và ngăn cản
"sự nổi lên" của Trung Quốc.

Thứ hai, người dân Trung Quốc sẽ phê phán chính phủ Trung
Quốc phân tán của cải ra nước ngoài, trong khi ở trong nước
vẫn còn nhiều nhu cầu khẩn cấp.

Thứ ba, Trung Quốc có một phương án tiếp cận mang tính
"đổi chác", để mở rộng nỗ lực, nhất là khi liên quan
tới tiền bạc. Điều này bắt nguồn từ văn hóa thương mại,
nhưng được nới rộng ra cho nhiều lãnh vực trong cách hành
xử của Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn biết chính xác họ
sẽ được lợi cái gì, và khi nào, từ những dịch vụ đầu
tư nào đó. Như thế, quan niệm toàn bộ về hoạt động từ
thiện, và đóng góp bất vụ lợi cho phúc lợi quần chúng rất
xa lạ đối với lối suy nghĩ của Trung Quốc.

Kết quả là trong lãnh vực ngoại giao – quản trị song
phương, đa phương và toàn cầu - Bắc Kinh đã cho thấy sự
thụ động rõ rệt và ngập ngừng tham gia. Họ còn lâu mới
trở thành người "stakeholder" (người nắm cổ phần) có
trách nhiệm như Robert Zoellick kêu gọi vào năm 2005. Ngoại giao
của Bắc Kinh giữ nguyên tính chất ích kỷ, thiển cận, và
sự tham gia của họ vào chính sách quản trị toàn cầu là tối
thiểu và mang tính chất chiến thuật, chứ không phải là mang
tính cách tiêu chuẩn và chiến lược. Tính chất thực sự của
ngoại giao Trung quốc là kinh doanh. Hãy coi kỹ những phái đoàn
tháp tùng Chủ tịch nước hay Thủ tướng của Trung quốc đi ra
nước ngoài, người ta thấy có rất nhiều CEO của các công ty,
đi tìm nguồn cung cấp năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, cơ
hội mậu dịch hay đầu tư. Chính sách ngoại giao trọng thương
như vậy không giúp cho Bắc Kinh được sự kính nể của thế
giới, và thực ra thì đã có sự phê phán và thầm thì khắp
thế giới. (Nhất là ở châu Phi và châu Mỹ La tinh).

<b>2- SỨC MẠNH QUÂN SỰ</b>

Khả năng quân sự của Trung quốc là một lãnh vực khác cho
thấy tính chất đại cường bán phần của nước này. Họ
ngày càng trở thành cường quốc khu vực, nhưng không bao giờ
là cường quốc mang tính toàn cầu. Trung Quốc không có khả
năng viễn phóng sức mạnh quân sự của họ ra khỏi vùng phụ
cận ở châu Á. (hỏa tiễn đạn đạo liên lục địa, chương
trình không gian, và khả năng chiến tranh mạng). Và ngay cả
với châu Á, khả năng viễn phóng sức mạnh (mang quân ra nước
ngoài) cũng bị giới hạn, mặc dù có tăng lên). Không ai chắc
chắn là Trung Quốc có khả năng triển khai sức mạnh 500 dặm
(800 km) xa hơn biên giới của họ (Ví dụ tại Biển Hoa Đông
và Hoa Nam) và có thể chịu đựng đủ lâu dài để chiến
thắng trong tranh chấp. Lực lượng quân sự của họ không có
kinh nghiệm chiến trường, họ không có chiến tranh từ năm 1979
(chiến tranh biên giới Việt Nam).

Chắc chắn là Trung Quốc đã hiện đại hóa quân đội từ 25
năm qua. Hiện nay ngân sách quốc phòng của họ đứng thứ hai
trên thế giới (131.6 tỉ USD cho năm 2014). Họ có đạo quân
thường trực lớn nhất thế giới, chế tạo nhiều vũ khí
tối tân, một hải quân ngày càng du hành xa bờ hơn nữa ở
miền Tây Thái Bình Dương, đôi khi qua tới Ấn Độ Dương, và
một tầu sân bay hiện đại. Do đó, quân đội Trung quốc không
dễ bị đánh bại. Chắc chắn nó có đủ sức để bảo vệ
Tổ quốc, và có thể gây chiến thành công với Đài Loan (Nếu
không có sự can thiệp nhanh chóng của Hoa Kỳ). Trung quốc
được nhìn nhận như một đại cường quân sự khu vực ở
châu Á, và như vậy, làm thay đổi cán cân sức mạnh trong khu
vực. Nhưng lực lượng quân sự Trung quốc vẫn còn chưa có
sức mạnh viễn phóng ra toàn thế giới: Trung quốc không có
căn cứ quân sự ở nước ngoài, không có mạng lưới viễn
thông và hậu cần dài tay, hệ thống vệ tinh bao phủ thế
giới còn thô sơ; hải quân chủ yếu vẫn là lực lượng ven
bờ; Không quân không có khả năng tấn công tầm xa, hay khả
năng tàng hình được chứng thực; và bộ binh không có khả
năng triển khai nhanh chóng.

Hơn thế, về chiến lược mà nói, Trung quốc là một "đại
cường cô đơn", thiếu bạn bè thân thiết và không có đồng
minh. Ngay cả đối với người bạn thân cận nhất (Nga), có
nhiều yếu tố bất tín nhiệm, và nghi ngờ mang tính lịch sử,
nằm sâu dưới cái vỏ quan hệ hài hòa giữa hai nhà nước.
Không một quốc gia nào trông vào Bắc Kinh để tìm kiếm an ninh
và bảo vệ (Ngoại trừ có lẽ Pakistan). Điều này chứng tỏ
Trung quốc thiếu một ảnh hưởng chiến lược, với tư cách
là một đại cường. Ngược lại, các quốc gia khác ở châu Á
lại tìm cách tăng cường liên kết quân sự với Hoa Kỳ, và
tìm cách cải thiện quan hệ giữa họ với nhau. Nguyên nhân
chính vì sự bât chắc và mối đe dọa họ nhìn thấy từ Trung
Quốc.

<b>3- QUYỀN LỰC MỀM</b>

Chuyển từ quyền lực cứng qua quyền lực mềm, Trung quốc
đã xây dựng sức mạnh văn hóa toàn cầu của họ ra sao? Không
tốt lắm! Không một xã hội nào tìm cách bắt chước nền văn
hóa Trung quốc. Không một xã hội nào tìm cách sao chụp hệ
thống chính trị Trung quốc. Và hệ thống kinh tế Trung quốc
không được bắt chước ở nước khác. Mặc dù chính phủ
Trung quốc đã có nhiều chi phí và nỗ lực để xây dựng
quyền lực mềm, và để cải thiện hình ảnh trên khắp thế
giới kể từ năm 2008. Trung quốc tiếp tục có uy tín toàn cầu
từ mức trung bình tới xấu. Các cuộc thăm dò dư luận tại
các quốc gia trên thế giới, người ta nhìn Trung quốc một
cách trung bình hay tiêu cực, và ngày càng có thêm những vấn
đề.

Trung Quốc không phải là cục nam châm cho mọi người bị
cuốn hút. – Cả về văn hóa, xã hội, kinh tế hay chính trị -
Vấn đề của Trung Quốc là cả trong bốn lãnh vực này, chúng
đều mang tính riêng biệt (<em>sui generis</em>). Trung Quốc thiếu
sự hấp dẫn phổ quát ngoài biên giới và ngoài các cộng
đồng người Hoa. Lý do chính chỉ vì tính quá riêng biệt trong
các lãnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị. Tính hấp
dẫn của quyền lực mềm của Trung Quốc đi từ yếu tới
không hiện hữu.

Các sản phẩm văn hóa Trung quốc – nghệ thật, phim ảnh, văn
chương, âm nhạc, giáo dục - vẫn còn tương đối được ít
người biết đến ở bên ngoài Trung Quốc. Và những sản phẩm
này không tạo được chiều hướng văn hóa toàn cầu. Ngay cả
nền kinh tế phát triển đáng ngưỡng mộ của Trung quốc, chỉ
là sản phẩm của một tập hợp riêng biệt các nhân tố
(features), không thể đem áp dụng cho các quốc gia khác.- Kinh
tế cạnh tranh tầm vóc lớn, kế hoạch hóa nhà nước theo
kiểu Liên Xô, kinh doanh cá thể, một lực lượng lao động
lớn có kỷ luật, một định chế lớn cho Nghiên cứu và Phát
triển (R&D), và một FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài)
khổng lồ. – Ngay cả nếu có một "mô hình Trung Quốc"
(điều này còn phải bàn cãi), nó cũng không thể xuất khẩu
được, bởi vì các nhân tố trong tập hợp này không hiện
hữu ở những nước khác. Hệ thống chính trị Trung quốc
giống như một hỗn hợp điện tử, gồm có Chủ nghĩa Mác-Lê
nin, chủ nghĩa chuyên chế Á châu, chũ nghĩa Khổng giáo truyền
thống, và một nhà nước có guồng máy an ninh nội bộ mạnh
mẽ. Sự đặc thù của Trung quốc không thể được nhân rộng
ra - Không có một quốc gia nào khác muốn thử nghiệm làm như
vậy; và người ta cũng không thấy một người nước ngoài nào
muốn xin tị nạn chính trị hay quốc tịch của Cộng hòa Nhân
dân Trung Quốc.

<b>4-SỨC MẠNH KINH TẾ</b>

Sức mạnh kinh tế Trung quốc có gì lạ? Đây là lãnh vực mà
người ta hy vọng Trung quốc sẽ là một đại cường mang tính
toàn cầu, và là người định hướng cho thế giới. Tuy nhiên,
ảnh hưởng của Trung quốc lên thế giới quá nông cạn so với
kỳ vọng. Giống như mọi lãnh vực khác, số lượng của Trung
quốc gây ấn tượng, nhưng chất lượng quá kém. Trung quốc là
quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, nhưng hàng hóa xuất
khẩu thường là hàng tiêu dùng cấp hạng thấp; hàng của họ
cũng có ít thương hiệu nổi tiếng quốc tế. Chỉ có một số
nhỏ công ty đa quốc gia của họ thành công ở nước ngoài.
Toàn bộ số vốn Trung quốc mang đầu tư hải ngoại (ODI-
Oversea direct investment) chỉ đứng hàng thứ 17 trên thế giới;
và các chương trình viện trợ nước ngoài chỉ là một phần
nhỏ của quĩ viện trợ của Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản
hay Ngân hàng Thế giới.

Khi khảo sát về chất lượng thay vì số lượng, dung mạo kinh
tế mang tính toàn cầu của Trung quốc không có gì ấn tượng.
Nó còn là một nền kinh tế chế biến và lắp ráp, chứ không
phải là nền kinh tế sáng tạo và sáng chế. Hầu hết hàng
hóa sản xuất ở Trung quốc để xuất khẩu ra nước ngoài,
đã được sáng tạo ra ở nước khác. Tình trạng ăn cắp phổ
biến quyền sở hữu trí tuệ, và chính sách nhà nước "sáng
tạo bản địa" (Đã đổ hàng tỷ USD cho R&D mỗi năm), là
chỉ dấu cho thấy rõ rệt họ đã thất bại trong việc sáng
tạo ra các mặt hàng. Điều này có lẽ sẽ thay đổi với
thời gian, nhưng cho tới nay, Trung quốc đã không tạo được
tiêu chuẩn quốc tế trong công nghệ hay dây chuyền sản xuất.
(Cũng giống như trong khoa học tự nhiên, khoa học y tế, xã
hội và nhân văn). Tương tự, Trung quốc chỉ có hai trường
đại học nằm trong danh sách 100 đại học tốt nhất thế
giới, (Theo báo cáo của Times Higher Ranking - World University Ranking
for 2013-2014).

Nếu Trung quốc muốn đẩy mạnh sáng tạo, dĩ nhiên họ phải
đầu tư thêm cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Theo National
Science Foundation (Quĩ quốc gia về Khoa học) vào năm 2009, Trung
quốc chỉ dành có 1.7% GDP cho R&D; so với Mỹ 2.9%, Đức 2.8%, và
Nhật Bản 3.3%. Chi phí cho R&D của Trung quốc cũng không nằm
trong danh sách 20 quốc gia chi phí nhiều nhất cho R&D của thế
giới. 80% quĩ này ở Trung quốc được dùng cho phát triển hàng
hóa, và chỉ có 5% dùng cho nghiên cứu cơ bản. Một chỉ dấu
cho hiện tượng này là Trung quốc không có nhiều giải Nobel.
Từ 1949-2010, có 584 giải Nobel được phát ra, người gốc Hoa
chỉ được có 10 giải. Nhưng 8 trong số 10 người này lại
sống ở nước ngoài. Chỉ có 2 ngoại lệ là Lưu Hiểu Ba
được Giải Hòa bình 2010, và Mặc Ngôn, giải Văn chương 2011.
Một chỉ dấu khác là những bài viết có trích dẫn sách Trung
quốc. Số bài viết (trong mọi ngành khoa học) của Trung quốc
được trích dẫn là 4%, so với Mỹ 49%.

Kết quả là Trung Quốc bị thâm hụt sáng chế triền miên.
Quốc gia này đang tiến tới "cái bẫy thu nhập trung bình".
Con đường duy nhất để tránh cái bẫy này là sáng chế,
giống như Nhật Bản, Hàn quốc, Đài Loan, Singapore đã làm
trước đây. Và điều này đòi hỏi nhiều thứ hơn là quĩ
đầu tư cho R&D của chính phủ. Nó đòi hỏi hệ thống giáo
dục dựa trên tư duy phê phán, và tự do khám phá. Điều này
lại đòi hỏi một hệ thống chính trị tương đối cởi mở
và dân chủ, và không cho phép chính sách kiểm duyệt hay "vùng
cấm" trong nghiên cứu. Sinh viên và trí thức phải được
tưởng thưởng, chứ không phải bị đàn áp hay trừng phạt khi
họ dám thách thức sự khôn ngoan qui ước và phạm phải lỗi
lầm. Chờ tới lúc đó, Trung quốc sẽ rơi vào "cái bẫy thu
nhập trung bình".- Lắp ráp và sản xuất, chứ không sáng tạo
và phát minh-.

Nhìn theo cách này, cỗ xe khổng lồ Trung quốc rất yếu, so
với cái vỏ bề ngoài. Các điểm yếu tương tự của Trung
quốc cũng nằm trong ODI (Đầu tư trực tiếp hải ngoại). Mặc
dù chính phủ dành đặc quyền cho các công ty đi ra ngoài, nhưng
tới giờ đầu tư hải ngoại của Trung quốc còn quá nhỏ. Như
đã nói ở trên, vốn ODI của Trung quốc chỉ nằm trong danh
sách 20 quốc gia hàng đầu thế giới, mặc dù tiền vốn chảy
ra ngoài tăng rất nhanh, và đứng hàng thứ ba trên thế giới.
(88.2 tỷ USD vào năm 2012). Tuy vậy, số tiền này chỉ bằng 1/4
số tiền ODI của Mỹ, cùng vào thời điểm đó.

Điều đáng nói hơn, như mọi lãnh vực hoạt động khác của
Trung quốc, người ta cần nhìn vào thống kê số lượng để
đặt ra câu hỏi về chất lượng: Những số vốn này đi đâu?
Và có phải là đầu tư thực thụ không? Điểm đến và cơ
cấu của ODI Trung quốc thay đổi nhanh chóng từ năm 2011. Nhưng
một số lớn là <i>quĩ porfolio</i> (đầu tư vào chứng khoán hay
gửi ngân hàng) chảy qua các vùng như Virgin Islands thuộc Anh, hay
đảo Grand Cayman. Chúng là điểm đến thứ 2 và thứ 3 của
vốn Trung quốc. Như thế, một số không phải là đầu tư hải
ngoại. Chúng là những số tiền mang ra nước ngoài để trốn
thuế. Điều này không chỉ đúng với chính phủ Trung quốc, mà
còn đúng cho vốn của các cá nhân nữa. Trong Sách Xanh về Di
dân Trung quốc trên thế giới do Center for Chinese Globalization ấn
hành, người ta báo cáo là từ năm 1990, đã có 9.3 triệu
người Trung quốc di cư ra nước ngoài, mang theo với họ 2.800
tỷ Nhân dân tệ (46 tỷ USD). Đây không phải là điều mới
mẻ, nhưng khuynh hướng này ngày càng tăng trong thập kỷ vừa
qua. Khi giới tinh hoa kinh tế rời bỏ đất nước với số
lượng lớn như vậy, và quá lo lắng bảo đảm an toàn cho số
tiết kiệm cá nhân của họ, điều đó nói lên sự thiếu tin
tưởng vào hệ thống chinh trị, kinh tế của chính phủ họ.

Tuy nhiên, gần đây, cách thức đầu tư hải ngoại của Trung
quốc có thay đổi: Trung quốc tăng cường đầu tư và mua sắm
khắp châu Á, Mỹ la tinh, châu Âu và Hoa Kỳ. Người mua Trung
quốc mua hết các loại tài sản – Bất động sản thương
mại hay gia cư, xí nghiệp, khu công nghiệp, cơ sở nghiên cứu,
nông trại, rừng, mỏ, mỏ dầu khí, và các tài nguyên khác.
Các công ty Trung quốc tích cực mua hoặc hòa nhập với công ty
nước ngoài. Các tư nhân Trung quốc cũng mua nhiều tác phẩm
nghệ thuật có giá trị trên thị trường đấu giá. Như thế,
cách thức đầu tư hải ngoại của Trung quốc đã thay đổi,
nhưng hậu quả thế nào chưa ai biết rõ.

Còn các công ty đa quốc gia Trung quốc đang làm gì? Ở nước
ngoài, họ có sức cạnh tranh không? Cũng như các loại hình
hoạt động khác, họ có nhiều yếu kém hơn sức mạnh. Về
mặt bề ngoài, theo số liệu của Fortune Global 500, các công ty
Trung quốc xếp hàng thứ hai, chỉ thua các công ty đa quốc gia
của Mỹ. Nhưng việc xếp loại này chỉ dựa trên tổng thu
nhập và lợi nhuận, chứ không dựa vào nơi chốn công ty làm
ra tiền. Khi quan sát danh sách công ty Trung quốc trong năm 2013,
người ta thấy ngay rất ít công ty này hoạt động ở nước
ngoài, và chỉ có một số nhỏ kiếm được hơn nửa số thu
nhập ở hải ngoại. Như thế, chúng không phải là những công
ty đa quốc gia thực thụ, mà đúng hơn, chỉ là những công ty
hoạt động nội địa.

Nhiều công ty có lẽ kỳ vọng vươn ra thế giới. Nhưng tới
nay, nhiều công ty đã thử sức nhưng không thành công. Có
nhiều câu chuyện thất bại hơn là thành công cho những công ty
đa quốc gia Trung quốc. Những vụ mua bán, sáp nhập công ty
bình thường đổ vỡ, bởi vì lãnh đạo công ty Trung quôc
không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ, hoặc vì va chạm văn
hóa. Về nhiều mặt, điểm yếu kém của các công ty đa quốc
gia Trung quốc là nguồn nhân lực, nhất là trong quản lý.

Có một số ít quản trị gia quí hiếm, biết nhiều ngôn ngữ
và nhiều văn hóa, và các công ty Trung quốc bình thường không
thuê người nước ngoài có chuyên môn làm quản trị cao cấp
(Hai trường hợp ngoại lệ là Huawei và Haier). Công ty Trung
quốc và ban quản trị của họ thường xuyên cho thấy họ
không thoát khỏi văn hóa công ty và cách hành xử kinh doanh mang
tính quốc gia. Vì họ chú trọng tới thứ bậc, và vị trí
nhân viên rõ ràng, người Trung quốc không thích hợp với cách
quản trị ngang hàng, nguồn gốc của phân quyền và sáng kiến
cá nhân. Khuynh hướng này đã mang lại hậu quả là sự va
chạm văn hóa trong các vụ sáp nhập công ty Trung quốc với
công ty Tây phương. Các công ty Trung quốc còn cho thấy họ có
khó khăn thích ứng với môi trường luật lệ, thuế má, chính
trị của nước ngoài. Sự minh bạch trong quản trị công ty
bình thường không được thực hiện. Qui trình lấy quyết
định của họ bình thường bị mờ đục, cách hành xử trong
kinh doanh bình thường tham nhũng, qui trình kế toán bị gian
dối. Người ta đã khám phá ra nhiều công ty Trung quôc đã khai
man với các cơ quan kiểm tra chứng khoán ở Mỹ, trước khi
phát hành IPO (Bán cô phiếu lần đầu tiên cho công chúng).

Sự yếu kém của công ty Trung quốc trong cạnh tranh nổi rõ
trong nhãn hiệu quốc tế về hàng hóa. Chỉ có một số ít
công ty có khả năng hoạt động ở nước ngoài: Bia Tsingtao,
sản phẩm trắng của Haier, viễn thông của Huawei, Hàng không
Trung quốc, ô tô Geely, và một số ít nhãn hiệu khác.

<b>5- MỘT SỐ THƯỚC ĐO KHÁC</b>

Một số thước đo khác về sản xuất nội địa cũng cho
thấy không có cấp hạng tốt. Năm 2014, Freedom House xếp hạng
Trung quốc thứ 183 trên tổng số 197 quốc gia về tự do báo
chí. Từ năm 2002, Chỉ số Quản trị Thế giới Tổng hợp
(Worldwide Governance Indicators) của Ngân Hàng Thế giới luôn luôn
xếp hạng Trung quốc trong nhóm thứ 30 phần trăm về ổn định
chính trị và kiểm soát tham nhũng.; nhóm thứ 40 phần trăm cho
chất lượng kiểm tra và pháp trị, và dưới 10 phần trăm cho
kế toán. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum) trong
bảng chỉ số cạnh tranh thế giới năm 2013, đã xếp Trung
quốc hạng thứ 29, về tham nhũng, hạng thứ 68; và đạo đức
làm việc, hạng thứ 54. Tổ chức Minh Bạch quốc tế còn xếp
hạng Trung quốc thấp hơn nữa về chỉ số tham nhũng (hạng
thứ 80) trong bảng xếp hạng chỉ số tham nhũng năm 2013. Trong
hầu hết các phạm trù này, thứ hạng của Trung quốc đã xấu
đi nhiều trong thập kỷ vừa qua. Qua những thước đo như vậy,
rõ rệt là uy tín trên trường quốc tế chỉ ở mức trung bình
là cao nhất. Trong nhiều khía cạnh, Trung quốc đứng ngang hàng
với các quốc gia có thành tựu thấp, và ít được kính trọng
trên thế giới.

Bảng báo cáo về Sự Phát triển Con người của Liên Hiệp
Quốc năm 2013 cho thấy rõ: mặc dù những tiến bộ kinh tế, xã
hội, đáng khâm phục của Trung quốc từ thập kỷ 1980, quốc
gia này vẫn mang tình chất của một nước đang phát triển.
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đứng hàng thứ 101 trên tổng
số 187 quôc gia về chỉ số tổng hợp. Thu nhập bình quân
đầu người (Tính theo mãi lực tương đương -ppp) khoảng 8000
USD/năm, tuy thế 13.1% dân số vẫn sống dưới mức 1.25USD/ngày.
Về tuổi thọ, tử vong trẻ sơ sinh, bảo hiểm y tế, chất
lượng giáo dục, và bất bình đẳng xã hội…Trung quốc còn
thua xa các quốc gia công nghiệp. Sự hủy hoại môi trường và
ô nhiễm đứng vào hạng xấu nhất trên thế giới, và là
nguyên nhân của sự phát triển mạnh mẽ của bệnh ung thư.
Mặc dù những nỗ lực gần đây của chính phủ: Mở rộng
hoạt động y tế, bảo hiểm sức khỏe, hầu hết người dân
Trung quốc phải đối mặt với những bất trắc lớn khi bị
bệnh tật. Chỉ số Gini (Để đo độ bất bình đẳng xã hội,
với 0 là bình đẳng hoàn toàn, 1 là bất bình đẳng hoàn toàn)
nằm gần mức 0.5 là mức cao nhất thế giới. Các trường học
sơ cấp và trung cấp đã có thành tựu ngang tầm quốc tế,
nhưng hệ thống đại học còn chậm lụi rất nhiều so với
các trường tốt trên thế giới.

<b>KẾT LUẬN</b>

Những nhận xét này không phải để làm giảm bớt những
thành tựu phát triển thần kỳ của Trung quốc trong ba thập
kỷ vừa qua, nhưng chúng chỉ giúp ta nhận thức rõ là Trung
quốc không đứng đầu thế giới trong các thể loại phát
triển.

Đó là cái nhìn về Trung quoc ngày nay, 10 hay 20 năm nữa, vị
trí Trung quốc trên thế giới có thể cải thiện trong các thể
loại này, và Trung quốc có thể hoạt động trên cơ sở toàn
cầu cũng như Hoa Kỳ. Nhưng vào lúc này, cùng lắm, Trung quốc
chỉ là một đại cường thế giới bán phần. Tuy thế, người
ta không nên giả định là quĩ đạo phát triển của Trung quốc
sẽ tiếp tục mãi mãi như vậy. Còn có hai khả năng có thể
xảy ra: Tù đọng và suy thoái.

Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng quốc gia này đã đi tới
điểm ngoặc về nhiều phương diện: Tăng trưởng tổng thể
đang nằm ngang (lý do vì chi phí sản xuất tăng cao, và lợi
thế so sánh giảm), và chính phủ đang cố duy trì mức tăng
trưởng 7%, rất quan trọng để tạo đủ công ăn việc làm cho
người dân, thâu nhận nhân công mới vào thị trường lao
động, và duy trì ổn định xã hội. Có lẽ họ đã thử làm,
nhưng chính phủ không thể chuyển đổi nền kinh tế từ phụ
thuộc vào xuất khẩu, đầu tư qua một nền kinh tế dựa trên
tiêu thụ nội địa, và một nền kinh tế dựa trên trí thức
sáng tạo. Nền sản xuất không leo lên được bậc thang cao hơn
về giá trị và công nghệ, và "cái bẫy thu nhập trung bình"
đã xuất hiện, và có thể tồn tại lâu dài. Nợ của nhiều
địa phương tăng cao, và nhiều địa phương nằm bên bờ vực
phá sản. Bất bình đẳng xã hội trở nên gay gắt, và tham
nhũng tràn lan ở cả trong nhà nước và ngoài xã hội, mọi
lãnh vực xã hội đều bất mãn. Số người giầu có chạy
trốn khỏi đất nước ngày càng tăng, giới trung lưu bị tù
hãm, hệ thống chính trị bị hóa thạch và trở nên đàn áp.
Cùng lúc đất nước không chấp nhận cải tổ chính trị và
luật pháp.(Những cải tổ này rất cần cho giai đoạn tăng
trưởng sắp tới), bởi vì chúng va chạm trực tiếp tới tính
độc quyền của Đảng Cộng sản Trung quốc.

Nhiều nhà Trung quốc học hiện nay cho rằng chính Đảng Cộng
sản Trung quốc là chướng ngại cho sự tăng trưởng và phát
triển trong tương lai của Trung quốc. Đảng trở thành một
định chế ngày càng bất an, sơ cứng, yếu ớt, đã bị tê
liệt từ năm 2008. Một phần lý do của sự tê liệt này là
sự chuyển đổi lãnh đạo xảy ra vào năm 2012 và cuộc đấu
tranh phe phái (Vụ Bạc Hi Lai là một). Họ còn phải đối phó
với các cuộc nổi loạn ở khắp nước (Đặc biệt là ở Tây
Tạng và Tân Cương). Còn có thêm một số nhân tố khiến
Đảng co cụm lại, và tăng cường đàn áp trong 5 năm qua, kể
cả mối lo sợ do Mùa xuân Ả Rập mang lại.

Nhưng người ta không nhận thấy tiến triển về cải tổ từ
khi Tập Cận Bình được chuyển giao quyền lực. Ngược lại,
đàn áp chính trị lại được tăng cao từ khi Tập nắm quyền.
Ngay cả cuộc họp thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương tháng
11-2013, được loan báo là sẽ có cải tổ chính trị, cuối
cùng chỉ là một mơ ước chứ không phải là sự thật.

Đó là những vấn đề cháy bỏng rất nguy hiểm mà các chuyên
gia về Trung quốc nghĩ rằng quốc gia này đang đối mặt. Đó
là một loạt thách thức cho người dân và chính phủ Trung
quốc phải giải quyết. Như thế, người quan sát không thể mù
quáng nghĩ rằng tương lai Trung quốc sẽ có được động lực
như 30 năm qua, hay đó là con đường đi tới qui chế đại
cường thế giới sẽ tiếp tục.

<b>David Sambaugh</b>, giáo sư về chính trị và chính sách đối
ngoại Đại học George Washington, Giám đốc Chương trình Chính
sách Trung Quốc, Thành viên của Viện nghiên cứu Brookings. Tác
giả cuốn sách: China goes global: The Partial Power, Oxford University
Press 2013.

<strong>Nguồn:</strong> <a
href="http://nationalinterest.org/feature/the-illusion-chinese-power-10739?page=6">National
Interest</a>. Bản dịch tiếng Việt được chia sẻ trên diễn
đàn ICT-VN.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140626/david-shambaugh-ao-tuong-ve-quyen-luc-trung-quoc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét