Lê Xuân Khoa - Việt Nam: Cơ hội cuối cùng hay những bước đột phá cần thiết

Ngay sau khi Trung Quốc gây ra sự cố giàn khoan Hải Dương
Thạch Du (HD-981) tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam, giới
phân tích chính trị quốc tế đã cho thấy đây không nhất
thiết là một hành động chiếm đoạt về kinh tế mà chủ
yếu là một nước cờ chính trị của Bắc Kinh nhằm tạo
tiền lệ cho những bước lấn chiếm khác trong kế hoạch kiểm
soát toàn thể Biển Đông Nam Á. Đây vừa là một bước thăm
dò vừa là một ngón đòn phủ đầu trước khi Hoa Kỳ có thể
thật sự xoay trục sang Châu Á và tái khẳng định vai trò
cường quốc Thái Bình Dương. Bước chiến thuật này đã đem
lại cho Trung Quốc một thắng lợi ban đầu nhưng qua những
phản ứng của Việt Nam và những nước liên quan thì hành
động này là một tính toán khá mạo hiểm trong chiến lược
"Giấc mơ Trung Quốc ", một mục tiêu quốc gia được Chủ
tịch Tập Cận Bình chính thức tuyên bố trước Đại hội
Đại biểu Nhân dân Toàn quốc ngày 17.3. 2013 và định nghiã là
"sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa." Mạo hiểm
hay không, lãnh đạo mới của Trung Quốc cũng quyết tâm hành
động vì cho rằng thời cơ đã đến.

Đã có nhiều tác giả Việt Nam và ngoại quốc viết về
những mục tiêu trước mắt và lâu dài của Trung Quốc qua vụ
giàn khoan HD-981, phản bác những luận điệu của lãnh đạo
Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền trên 80% Biển Đông Nam Á theo
bản đồ đường chín đoạn do họ tự vẽ ra, bất chấp luật
lệ quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm
1982. Vì vậy, bài này sẽ không tham gia vào những đóng góp quan
trọng của các học giả về cơ sở lịch sử và pháp lý của
Việt Nam mà chỉ chú trọng vào một số biện pháp cụ thể
cần làm ngay để triệt tiêu mưu đồ của Trung Quốc đang
từng bước thực hiện mục tiêu sử dụng Việt Nam làm bàn
đạp tiến xuống các quốc gia khác trong khu vực.

<strong>Tên khổng lồ tỉnh giấc</strong>

Lịch sử chính trị thường nhắc đến câu chuyện Hoàng đế
Napoléon Bonaparte sau khi đọc bản dịch cuốn <em>Tôn Tử Binh
pháp</em> do một linh mục Pháp sống ở bên Tàu đời nhà Thanh
thực hiện, đã phát biểu một nhận xét thú vị: "Hãy để
cho tên khổng lồ này ngủ yên, vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm
rung chuyển thế giới." Thật ra thì từ thời xa xưa cho đến
hết thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc chỉ tự rung chuyển mình
bằng những cuộc nội chiến (như thời Đông Chu liệt quốc)
hay bị rung chuyển khi ngoại nhân (như Mông Cổ hay Mãn Thanh)
chiếm đóng và cai trị, bị tám nước Tây phương (Bát quốc
liên quân) trừng phạt đầu thế kỷ 20 và gần đây nhất là
bị quân đội Nhật hoàng xâm lăng và hành hạ trong thời Đệ
nhị Thế chiến. Công bằng mà nói thì Trung Quốc cũng có làm
rung chuyển một số quốc gia láng giềng nhỏ bé như Cao Ly
(Triều Tiên) và Việt Nam qua những cuộc chiến tranh xâm lược
nhưng rốt cuộc đều bị đánh bại và phải chạy về nước.
(Đáng chú ý là vị anh hùng Cao Ly đại thắng quân Nguyên lại
là một "thuyền nhân" người Việt: Lý Long Tường, thái tử
nhà Lý, chạy sang Cao Ly tị nạn sau khi Trần Thủ Độ diệt
nhà Lý để xây dựng nhà Trần. Lý Long Tường đánh thắng
quân Nguyên hai lần, được vua Cao Ly phong làm Hoa Sơn Tướng
quân.)

Chỉ đến khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền năm 1978
Trung Quốc mới thực sự bắt đầu một thời kỳ cải cách và
phát triển theo hướng "chủ nghiã xã hội mang màu sắc Trung
Quốc". Đặng thi hành chủ nghĩa thực dụng về kinh tế, mở
cửa làm ăn với các nước Tây phương với câu nói nổi
tiếng: "Mèo đen hay mèo trắng không thành vấn đề miễn là
nó bắt được chuột." Nhưng quan trọng nhất trong mưu lược
đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là âm thầm xây dựng một
nước Trung Hoa hùng mạnh bằng chính sách "thao quang dưỡng
hối" (giấu cái sáng, nuôi cái tối) tức là giấu diếm nội
lực, giả vờ yếu kém để chờ ngày vùng dậy làm bá chủ
thiên hạ.

Chính sách ẩn mình chờ thời của Đặng Tiểu Bình nay đã
đến hồi kết thúc. Chỉ trong ba thập kỷ, Trung Quốc từ một
nước nghèo đói đã vươn lên thành một siêu cường kinh tế,
vượt Nhật Bản để chiếm địa vị thứ nhì sau nước Mỹ,
và cũng đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ với số tiền cho
mượn trên 1300 tỉ đô-la. Thời Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí
thư, Trung Quốc đã giàu nhất thế giới vì nhờ lao động rẻ
nên đã trở thành công xưởng của tư bản quốc tế sản
xuất hầu hết hàng tiêu thụ khắp các nước. Không giấu
được sức mạnh tiền bạc nhưng Hồ Cẩm Đào vẫn tiếp tục
lừa thế giới với khẩu hiệu khiêm tốn là "trỗi dậy hoà
bình". Từ 2012, khi Tập Cận Bình kế vị Hồ Cẩm Đào thì
"Trỗi dậy hoà bình" được đổi thành "Giấc mơ Trung
Quốc", thể hiện rõ hơn chủ nghĩa dân tộc của một lãnh
đạo nhiều quyền lực nhất, cùng một lúc nắm ba chức vụ
Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quân ủy
Trung ương. Lời tiên đoán của Napoleon nay được nghiệm đúng:
tên "khổng lồ" đã tỉnh giấc và sẽ thật sự làm rung
chuyển thế giới. Nhưng rung chuyển đến mức nào và sẽ bị
rung chuyển ngược ra sao lại là chuyện khác.

Đặc điểm chung của các lãnh đạo cộng sản độc tài là
"nói một đàng làm một nẻo" và kiên quyết phủ nhận
những sự thật hiển nhiên. Tập Cận Bình còn hơn cả những
người tiền nhiệm ở chỗ không giấu diếm thái độ tự tôn
và ngang ngược về mặt đối ngoại dù vẫn luôn luôn dối
trá. Đối với Tập, thế kỷ 21 phải là thế kỷ của Trung
Quốc vĩ đại, và thời điểm 2014 rất thuận lợi để cho
Tập khẳng định quyết tâm thực hiện "Giấc mơ Trung
Quốc" khởi sự từ Việt Nam, đối tượng quan trọng nhất
nhưng lại dễ dàng nhất. Tập Cận Bình không thể bỏ lỡ cơ
hội này dù mới đây Tập đã trơ tráo quả quyết rằng
"Trung quốc không có cái gien xâm lược."

<strong>Tại sao Việt Nam?</strong>

Một người Việt Nam bình thường nào (và tất cả những học
sinh miền Nam trước 1975) cũng biết rõ là từ các triều đại
phong kiến hơn hai nghìn năm trước đến thời đại cộng sản
ngày nay, các lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn tìm cách xâm chiếm
đất nước và đồng hoá dân tộc Việt. Tất cả những quan
hệ hoà bình, hữu nghị giữa hai nước đều chỉ là giả tạm
và có lợi hơn cho Trung Quốc, tất cả mọi sự viện trợ to
lớn của cộng sản Tàu cho cộng sản Việt trong cuộc chiến
chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà đều là những điều kiện
thuận lợi cho việc đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc Trung
Quốc sau chiến tranh. Ngoài ra, vì Mỹ là kẻ thù nguy hiểm
nhất, cộng sản Tàu còn có lợi ích đặc biệt là "đánh
Mỹ cho đến người Việt cuối cùng".

Trở lại với câu hỏi "Tại sao cộng sản Trung Quốc (CSTQ)
lại chọn cộng sản Việt Nam (CSVN) là nạn nhân đầu tiên
trong mưu toan làm chủ Biển Đông Nam Á, kiểm soát các nước
ASEAN và đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương?",
tôi thấy có chín lý do dưới góc nhìn của Bắc Kinh:

1. Việt Nam có vị trí chiến lược then chốt, gần nhất và
thuận tiện nhất để Trung Quốc có thể sử dụng vào mục
tiêu khẳng định quyền làm chủ Biển Đông Nam Á, khai thác
tài nguyên biển và kiểm soát toàn thể các nước trong khu
vực.

2. Từ sau bản mật ước Thành Đô năm 1990, Việt Nam đã gần
như lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc về kinh tế và chính
trị. Việt Nam lại đang bị suy thoái về kinh tế và không có
một đồng minh nào về chính trị và quân sự.

3. Cộng sản Việt Nam không thể rời bỏ chỗ dựa an toàn là
Trung Quốc vì cần phải duy trì sự tồn tại của Đảng và
chế độ với những đặc quyền đặc lợi quá lớn đã nắm
giữ từ lâu trong khi phạm những tội ác quá nặng đối với
nhân dân và đất nước.

4. Việt Nam khó khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa vì mắc
kẹt với bức công hàm của TT Phạm Văn Đồng gửi TT Chu Ân
Lai ngày 14/09/1958. Trên 50 năm qua, nhà nước Việt Nam né tránh
vấn đề này nên có rất ít công trình nghiên cứu về pháp lý
và lịch sử làm cơ sở tranh cãi so với số lượng nhiều gấp
hàng chục lần của Trung Quốc.

5. Các nước ASEAN không đoàn kết và mỗi nước đều có
nhiều lợi ích kinh tế riêng qua những quan hệ hợp tác song
phương với Trung Quốc.

6. Hoa Kỳ đang phải đối phó với nhiều khó khăn ở trong
nước và nhiều nơi trên thế giới nên chưa thể thật sự xoay
trục sang Châu Á như mong muốn. Trung Quốc cần nắm lấy cơ
hội trước khi Hoa Kỳ có thể cùng với Nhật xây dựng liên
minh chiến lược với ASEAN.

7. Trung Quốc cũng có nhiều khó khăn nội bộ nhưng qua hành
động thị oai với Việt Nam và xác định quyền khai thác tài
nguyên trên biển Đông Nam Á, lãnh đạo Bắc Kinh có thể khích
động chủ nghĩa dân tộc và gỉảm bớt sự bất mãn và
chống đối của nhân dân.

8. Hoa Kỳ và Nhật Bản đang có những nỗ lực lôi cuốn Việt
Nam ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc giữa lúc tinh thần yêu nước
và khát vọng dân chủ của nhân dân Việt Nam đang lên cao,
khuyến khích khuynh hướng thoát Trung trong các đảng viên CSVN
và hậu thuẫn mạnh mẽ cho khuynh hướng cải cách trong nội
bộ lãnh đạo.

9. Nguy hiểm nhất là triển vọng thắng thế của khối yêu
nước và cải cách chính trị ở Việt Nam, trong và ngoài
Đảng. Nếu Việt Nam thoát Trung và trở thành một nước dân
chủ, chế độ độc tài cộng sản ở Trung Quốc sẽ lung lay
và chắc chắn phải sụp đổ trong một tương lai không xa.

Chín lý do trên đây khiến lãnh đạo Bắc Kinh phải ra tay
sớm, bất chấp luật lệ quốc tế, Công ước LHQ về Luật
Biển, và bộ Quy tắc về Ứng xử giữa các bên ở Biển Đông
Nam Á (gọi tắt là COC) mà Trung Quốc đã hứa sẽ ký kết với
các nước ASEAN tiếp theo bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC) đã
được các bên ký từ năm 2002.

Riêng đối với Việt Nam, Trung Quốc đã thẳng tay xé bỏ hai
bản thoả thuận do lãnh đạo hai bên ký kết năm 2011 và 2013,
cam kết giải quyết hoà bình các vấn đề khó khăn giữa hai
nước. Tệ hơn nữa, Bắc Kinh đã ba lần bác bỏ lời yêu cầu
khẩn cấp của Hà Nội về một cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh
để giải quyết hoà bình vụ giàn khoan HD-981. Châm ngôn "16
chữ" và "4 tốt" thể hiện tình đồng chí bền chặt
giữa hai đảng anh em được ca tụng hơn 20 năm bỗng nhiên bị
quăng vào thùng rác. Hành động trở mặt tàn nhẫn và bất
ngờ của Trung Quốc đối với Việt Nam chỉ có thể giải
thích được bằng nguy cơ được nêu lên ở hai điểm số 8 và
9 trên đây.

<strong>Phản ứng phức tạp của Việt Nam</strong>

Nếu lãnh đạo Việt Nam đã phải bàng hoàng vì sự trở mặt
trắng trợn của Bắc Kinh thì lãnh đạo Trung Quốc cũng bị
bất ngờ trước khí thế yêu nước bùng dậy mãnh liệt từ
phiá nhân dân Việt Nam, một dân tộc tưởng như đã bị chế
độ cộng sản thuần hoá thành những con người khiếp nhược
chỉ biết tuân lệnh vì đã được dạy dỗ rằng "chuyện gì
cũng đã có Đảng và Nhà nước lo."

Thật đáng tiếc là thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc
cậy mình quá giàu và quá mạnh nên không chịu tìm hiểu lịch
sử và văn hoá Việt Nam để biết rằng truyền thống chống
Trung Quốc xâm lược vốn nằm sẵn trong từng mạch máu, từng
thớ thịt của dòng giống Việt từ ngày lập quốc. Bởi vậy,
ngay trong hàng ngũ đảng viên CSVN, trừ một số đã nhiễm
độc nặng vì địa vị và quyền lợi, những đảng viên yêu
nước vẫn kiên quyết đấu tranh cho độc lập và chủ quyển
của quê cha đất tổ. Họ cũng sáng suốt nhận ra những sai
lầm tai hại của chủ nghĩa cộng sản nên đã dấn thân vào
tiến trình chuyển hoá chế độ từ độc tài độc đảng sang
dân chủ đa nguyên đa đảng. Nhưng dưới sự cai trị khắc
nghiệt của chế độ toàn trị, trí thức và nhân dân không
thể bày tỏ lòng yêu nước hay thái độ bất mãn đối với
những hành động sai trái của chính quyền. Mọi hoạt động
phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền hay đối xử tàn
nhẫn với ngư dân Việt Nam đều bị nhà nước ngăn cấm và
những người dám lên tiếng đều bị trù dập, bắt giữ và
kết án nặng nề.

Nhưng sự chiụ đựng nào cũng có giới hạn và nhà cầm
quyền cũng không thể che giấu mãi tội ác của Trung Quốc và
thái độ hèn kém của mình. Rốt cuộc ngày phải đến đã
đến. Ngày 1 tháng 5, 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan
khổng lồ HD-981 cùng hơn 80 tàu vũ trang và máy bay hộ tống
vào khu vực Hoàng Sa, hạ đặt giàn khoan này ngay trên Thềm
lục địa và trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Các
tàu hộ tống giàn khoan đã tấn công các tàu công vụ và dân
sự của Việt Nam gây hư hại nhiều tàu và một số người
bị thương vong.

Hành động phi pháp và thái độ hống hách của cường quyền
Bắc Kinh không chỉ làm bùng dậy lòng yêu nước của nhân dân
Việt Nam mà còn làm cho đám lãnh đạo thân Bắc Kinh phải lo
sợ và đành lòng để cho nhân dân biểu tình chống Trung Quốc.
Mặc dù cuộc biểu tình đầu tiên được phép ngày 11.5 đã
diễn ra tốt đẹp vì nhân dân chỉ biểu dương lòng yêu nước
chống quân xâm lược chứ không chống chính quyền, phe thân
Trung Quốc đã tìm cách ngăn chặn cuộc biểu tình trong tuần
kế tiếp mà họ biết chắc là số người xuống đường tham
gia sẽ tăng lên gấp bội. Nhiều nguồn tin cho hay họ đã
mướn côn đồ sách động công nhân biểu tình bạo động ở
một số cơ xưởng do người ngoại quốc đầu tư, gây thiệt
hại vật chất và thương tích cho một số người bị coi là
dân Trung Quốc. Mượn cớ có bạo động, chính quyền đã có
lý do chính đáng để ra lệnh cấm biểu tình dù ban tổ chức
đã thông báo chủ trương bất bạo động. Điều này cho thấy
nội bộ lãnh đạo Việt Nam vẫn còn chia rẽ nhưng phe cấp
tiến đã bắt đầu tạo được hậu thuẫn của nhân dân yêu
nước và khao khát dân chủ.

Tuy nhiên, tình hình mấy tuần qua đã trở nên phức tạp qua
những phát biểu và cách hành xử lúng túng và mâu thuẫn của
một số nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam trước
hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc và những
động thái phòng ngừa từ phía Mỹ và Nhật. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng thì không nói năng gì, chỉ một mực muốn
sang Bắc Kinh cầu cứu Tập Cận Bình nhưng đã bị từ chối.
Đại tướng Phùng Quang Thanh thì tại Hội nghị Shangri-La ngày 1
tháng Sáu đã có những lời phát biểu quá nhũn nhặn so với
lời lẽ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mạnh mẽ kết án
Trung Quốc tại hội nghị cao cấp ASEAN ngày 12 tháng 5, và trong
cuộc gặp Tổng thống Philippines tại Manila một tuần sau đó.
Gần đây nhất là quyết định (của Bộ Chính trị? ) trì hoãn
chuyến đi Washington của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Phạm Bình Minh do lời mời của Ngoại trưởng John
Kerry.

Chuyến đi thăm dò lãnh đạo Hà Nội của Ủy viên Quốc vụ
Trung Quốc Dương Khiết Trì ngày 18/6 lại cho thấy có ba sự
kiện đáng chú ý:

1. Dù chưa có thông báo chính thức của Bộ Ngoại giao, các
nguồn tin trong nước và ngoại quốc đều cho hay là cuộc đối
thoại Dương Khiết Trì-Phạm Bình Minh bị bế tắc vì lập
trường hai bên không thay đổi. Các thông tín viên của Reuters
nhận xét không có treo cờ hai quốc gia bên ngoài toà nhà họp
như thông lệ mỗi khi có khách quan trọng đến thăm và cũng
không có tấm hình nào cho thấy hai bên với vẻ mặt tươi
cười. Trang tin mang tên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn <a
href="http://nguyentandung.org/trung-quoc-phai-rut-gian-khoan-va-tau-ra-khoi-vung-bien-cua-viet-nam.html">đăng
một tấm hình</a> cho thấy khi bắt tay nhau, Phạm Bình Minh nhìn
thẳng vào mặt người đối diện trong khi Dương Khiết Trì thì
nhìn xuống. Người viết blog nhận xét ông Minh có ánh mắt
"rực lửa".

2. <a
href="http://www.vietnamplus.vn/thu-tuong-yeu-cau-trung-quoc-rut-gian-khoan-khoi-vung-bien-viet-nam/266168.vnp">Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố</a> hành động của Trung
Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi
phạm những thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, vi
phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật
Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển
Đông (DOC); đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng
hải, hàng không trong khu vực; gây bất bình và làm tổn thương
tình cảm của nhân dân Việt Nam, tác động tiêu cực đến quan
hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước; yêu cầu Trung Quốc rút
giàn khoan và tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam; cùng đàm
phán giải quyết các tranh chấp bất đồng giữa hai nước
bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế và
nhận thức chung giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước… Việt Nam
kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình bằng các
biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế.

3. Một sự kiện khác rất bất ngờ là quan điểm yêu nước
vững chắc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuộc tiếp
kiến Dương Khiết Trì. <a
href="http://www.vietnamplus.vn/tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tiep-uy-vien-quoc-vu-trung-quoc/266151.vnp">Bản
tin VNTTX ngày 18/6</a> dẫn lời của ông Trọng: "Tổng Bí thư
nhấn mạnh tính nghiêm trọng và tác động rất tiêu cực của
việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang
Shiyou-981) tại vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng Năm
đến nay đối với nhân dân Việt Nam, cục diện quan hệ
Việt-Trung và tình hình khu vực. Tổng Bí thư khẳng định lập
trường về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và trên Biển Đông là không thay đổi và
không thể thay đổi; đề nghị khẩn trương trao đổi để có
các giải pháp sớm ổn định tình hình… trên cơ sở các
thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước và luật pháp
quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển
1982."

Dù sao, thái độ lúng túng và mâu thuẫn của lãnh đạo Việt
Nam vẫn tồn tại, cho thấy phe bảo thủ thân Trung Quốc, dù
đã bị Bắc Kinh không thèm đếm xỉa tới nữa, vẫn không dám
nghĩ đến việc thoát Trung vì ngoài Trung Quốc ra, họ không có
một chỗ dựa nào khác. Có lẽ họ không còn chiếm đa số
trong Bộ Chính trị nhưng họ đang tranh thủ lôi cuốn những
người "do dự" mà phe yêu nước cấp tiến cũng đang cố
gắng thuyết phục. Dù khinh miệt đám tay chân ở Hà Nội, lãnh
đạo Bắc Kinh không bỏ qua cơ hội làm suy yếu phe cấp tiến
đang gia tăng hợp tác với Mỹ. Chắc chắn đàng sau những
cuộc vận động thành phần còn do dự đều có bóng dáng của
Đại sứ Trung Quốc Hồng Tiểu Dũng và các thuộc viên. Mặc
dù mục tiêu cuối cùng của các phe đang chống đối nhau trong
Đảng CSVN là chiếm được ưu thế trong Đại hội 12 sẽ diễn
ra năm 2016, Đảng và Nhà nước vẫn phải có những quyết
định liên quan đến chính sách đối nội và đối ngoại từ
nay cho đến ngày Đại hội. Liệu có thay đổi gì không? Chúng
ta có thể ngờ rằng tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược" và "nói một đàng, làm một nẻo" sẽ tiếp tục
được duy trì như một đồng thuận không chính thức trong nội
bộ lãnh đạo. Trong khi đó, bọn bá quyền Bắc Kinh vẫn tiếp
tục vừa đánh lừa dư luận vừa lấn tới, từng bước một,
nhưng mau hơn trước.

Liệu sự thống nhất bất ngờ giữa hai ông Tổng Bí thư và
Thủ tướng về lập trường đối với Trung Quốc qua vụ giàn
khoan HD-981 có làm cho những lãnh đạo thân Tàu trong Bộ Chính
trị cũng sẽ bớt cản đường trên con đường thoát Trung?

<strong>Tổng lực dân tộc và những hành động đột phá
</strong>

Những nhận định ở phần đầu bài này đã cho thấy năm 2014
là thời điểm thuận lợi nhất cho Trung Quốc tiến hành kế
hoạch thống lĩnh Biển Đông Nam Á và trục xuất Hoa Kỳ khỏi
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trong hai mươi năm qua, CSVN đã
bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội thoát Trung và cải cách chính trị
để đất nước có thể phát triển không thua kém Đại Hàn,
Đài Loan hay Singapore. Trước sự trở mặt thình lình của Bắc
Kinh, Đảng và Nhà nước Việt Nam không kịp chuẩn bị cho
việc bảo vệ chủ quyền trên biển để từ đó sẽ mất luôn
khả năng bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của
đất nước. Trước tình thế gần như tuyệt vọng đó, Việt
Nam chỉ có hi vọng được cứu thoát nếu có một tổng lực
dân tộc do sự kết hợp của cả ba thành phần: chính quyền,
nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt ở nước
ngoài. Nhưng tổng lực dân tộc này chỉ có thể thành tựu
nếu mỗi thành phần đều có những hành động đột phá
hướng về hai mục tiêu chung: bảo vệ tổ quốc và thực thi
dân chủ.

<strong>1. Chính quyền</strong>

Đây là thành phần chủ yếu vì đang nắm quyền quyết định
vận mệnh dân tộc về mặt đối ngoại, nhưng cũng là thành
phần suy nhược, nội bộ chia rẽ và không được nhân dân tin
cậy. Ai cũng đã thấy rõ là lãnh đạo Đảng và Nhà nước
đang chia làm hai: một phe do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu hoàn
toàn dựa vào Trung Quốc (thân Tàu) để bảo vệ chế độ
độc tài và quyền lợi nhóm, và một phe do Nguyễn Tấn Dũng
lãnh đạo chủ trương phải thoát Trung và chuyển hoá thể chế
từ độc tài sang dân chủ (thân Mỹ). Trước nguy cơ mất
nước, dù có nghi ngờ cả hai phe "vì họ đều là cộng
sản", nhân dân trong nước và cộng đồng hải ngoại vẫn
không có lựa chọn nào khác hơn là chống phe thân Tàu và ủng
hộ phe thân Mỹ. Nhưng để có thể được toàn dân hậu thuẫn
và tạo thành tổng lực dân tộc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
lần này phải thật sự chứng tỏ lời nói đi đôi với việc
làm. Những lời chỉ trích Trung Quốc cũa ông Dũng từ hơn một
năm nay đã trở nên mạnh mẽ đến mức độ dứt khoát và
những phát biểu của ông trong <a
href="http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thong-diep-dau-nam-cua-thu-tuong-2931059-p2.html">thông
điệp đầu năm 2014</a> gửi nhân dân trong nước đã bộc lộ
rõ rệt ý muốn "đ<em>ổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của nhân dân", nhưng có thể ông đã không thi
hành được ý muốn vì lực cản của đám bảo thủ thân Tàu
còn quá mạnh. </em>Tuy nhiên, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
đã chọn thái độ dứt khoát và ở trong một tình thế không
thể lùi được nữa thì ông phải có ngay một số hành động
đột phá, chẳng hạn:

a. Thành lập ngay một Hội đồng Tư vấn về quan hệ
Việt-Trung gồm các trí thức và chuyên gia độc lập trong và
ngoài nước. Hội đồng này sẽ làm việc với những Ban Đặc
nhiệm (Task Force) về lịch sử, pháp lý, và quan hệ quốc tế
của chính phủ để đề xuất những chính sách và biện pháp
đối phó với những luận điệu xuyên tạc, thủ đoạn hãm
hại và hành động uy hiếp của Trung Quốc. Các thành viên trong
hội đồng tư vấn và ban đặc nhiệm sẽ thường xuyên tham
khảo với các học giả và chiến lược gia quốc tế có thiện
cảm với Việt Nam và chống chính sách bành trướng của Trung
Quốc (như Carl Thayer, Jonathan London, Ernest Bower, David Brown). Một
hồ sơ tội ác và thủ đoạn nham hiểm của Trung Quốc đối
với Việt Nam cần được thiết lập để sẵn sàng có bằng
chứng tố cáo trước dư luận quốc tế.

b. Gửi một văn thư kêu gọi lãnh đạo các cấp trung ương và
địa phương thức tỉnh trước thái độ tráo trở ngạo mạn
của Bắc Kinh, xé bỏ các hiệp ước hoà bình hữu nghị giữa
hai nước và quyết tâm biến Việt Nam thành một nước chư
hầu. Văn thư cũng kêu gọi toàn thể các đảng viên đang hoạt
động hay đã hồi hưu, đặc biệt trong quân đội và công an,
hãy thực thi truyền thống oai hùng bảo vệ tổ quốc và nhân
dân chống quân xâm lược, và sau hết kêu gọi toàn dân đoàn
kết để hợp thành sức mạnh dân tộc cứu nguy đất nước.
Thế giới văn minh ở thế kỷ 21 sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam
vì không một quốc gia nào chịu sự lãnh đạo của một nước
cộng sản độc tài như Trung Quốc. Đây có thể là một bản
"hịch" lịch sử.

c. Thực hiện tiến trình dân chủ hoá bằng việc ban hành các
quyền tự do cơ bản của con người như tự do báo chí, tự do
lập hội, tự do tôn giáo…, thả hết những tù nhân chính
trị và tù nhân lương tâm bị bắt giữ vì bất đồng chính
kiến, đền bù công bằng cho những dân oan bị cưỡng chế
đất đai, những công nhân bị bóc lột và đối xử tàn tệ.
Về mặt thể chế thì bãi bỏ ngay điều 4 Hiến pháp và thành
lập hội đồng lập hiến để soạn thảo một bản Hiến pháp
mới trên cơ sở tam quyền phân lập, một quốc hội thực sự
do dân bầu và một cơ chế chính trị đa nguyên đa đảng.

Những bước đột phá này nếu được thi hành chắc chắn sẽ
được toàn dân nhiệt liệt hoan nghênh, mọi thế lực phản
động bán nước và quan thày Bắc Kinh sẽ phải chùn bước, và
thế giới dân chủ, văn minh sẽ mở rộng vòng tay đón nhận
và giúp đỡ Việt Nam phát triển. Chỉ trong một vài thập kỷ,
Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia giàu mạnh trong khu vực.

<strong>2.</strong> <strong>Nhân dân trong nước </strong>

Thành phần này tuy không có thực quyền và đã bị áp chế
lâu ngày đã bỗng nhỉên bừng tỉnh vì hành động ức hiếp
quá đáng của Trung Quốc, đồng thời cũng vì sức chịu đựng
chế độ độc tài tham nhũng đã lên đến mức căng thẳng
nhất. Trong thời gian chưa đầy một năm, sau những kiến nghị
và thư ngỏ đầy thiện chí của nhân sĩ trí thức bị chính
quyền vứt bỏ, các nhóm công dân đã liên tiếp theo nhau ra
đời không cần xin phép – nay đã lên tới gần ba chục tổ
chức – tất cả đều tranh đấu bất bạo động cho nhân
quyền và dân chủ. Một xã hội dân sự đã thật sự thành
hình mặc dù vẫn thường xuyên bị hạn chế, đe doạ và một
số đã bị bắt giữ. Bất chấp lực lượng an ninh, những
hoạt động của xã hội dân sự vẫn tiếp tục dưới nhiều
hình thức: diễn đàn điện tử, báo mạng, toạ đàm và hội
thảo có chủ đề, thư yêu cầu chính phủ kiện Trung Quốc,
thư kêu gọi toàn thể các đảng viên đứng chung với nhân
dân, trực tiếp vận động và hội họp với các tổ chức
quốc tế và các cơ quan đại diện chính phủ nước ngoài ở
Việt Nam, thậm chí đã có thể trực tiếp vận động với
Quốc hội và Bộ Ngoại giao ở Hoa Kỳ, Lỉên minh Châu Âu và
Hôi đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, kể cả đích thân tham
gia những cuộc hội thảo của người Việt ở nước ngoài
hoặc trao đổi qua màn hình trực tuyến, v.v.

Dù sao, những tổ chức công dân tự phát ở Việt Nam còn quá
mới và quá nhỏ. Thực tế là không có một sự thay đổi
chính quyền hay thể chế nào có thể diễn ra mà không do sự
tranh đấu của một tổ chức quần chúng lớn mạnh như Công
đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) ở Ba Lan hay một đảng chính trị
đối lập có uy tín như Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ
(NLD) ở Myanmar. Việt Nam vì bị cộng sản kìm kẹp quá lâu đã
không có được những tổ chức công dân hay đảng phái đối
lập và những lãnh tụ nổi bật như Lech Walesa hay Aun Sang Suu
Kyi. Vì vậy cần phải có sự xuất hiện của ít nhất một
tổ chức đủ lớn và đủ khả năng lãnh đạo quần chúng
tranh đấu cho lợi ích của quốc gia. Ba tháng trước đây, tác
giả Nguyễn Vũ Bình có một bài viết rất đáng chú ý về sự
lớn mạnh của Phong trào Dân chủ trong mấy năm qua nhưng vẫn
chỉ là "dấu hiệu cho một sự chuyển đổi cơ bản và toàn
diện."

Trong khi chờ đợi và trước nhu cầu cấp bách của tình thế,
các tổ chức công dân riêng rẽ hiện nay cần phải kết hợp
với nhau thành một liên minh bình đẳng để phối trí các
hoạt động có mục tiêu chung và hỗ trợ lẫn nhau. Như tôi
đã đề nghị sơ khởi trong bài "<a
href="http://www.boxitvn.net/bai/26327">Khúc ngoặt lịch sử</a>"
(boxitvn, ngày 14/5/2014): "Các nhóm trong Liên minh này đều độc
lập và bình đẳng, hợp tác với nhau trên cơ sở mẫu số
chung, đại đồng tiểu dị. Đại diện các nhóm sẽ bầu ra
một Hội đồng Điều hành của Liên minh theo lề lối dân
chủ, căn cứ trên những điều kiện thích hợp, như hiểu
biết, kinh nghiệm, khả năng tổ chức, giao thiệp, v.v. Cũng
cần có một bản nội quy ấn định rõ sứ mệnh và cấu trúc
của Liên minh, vai trò và trách nhiệm của các nhóm thành viên,
nhất là thể thức làm việc cho có hiệu quả và ngăn ngừa
được sự lạm dụng quyền lực của một cá nhân hay phe nhóm
nào… Như vậy dân tộc mới có đủ sức mạnh bảo vệ độc
lập và chủ quyền đất nước đồng thời hậu thuẫn cho sự
chuyển đổi thể chế từ độc tài toàn trị sang dân chủ đa
nguyên đa đảng một cách trật tự, ôn hoà." Đây chỉ là
sự gợi ý để cho các nhà lãnh đạo xã hội dân sự ở trong
nước xem xét và tìm cách thực hiện thích hợp.

Ngày 5 tháng 6 vừa qua, đã có 16 tổ chức xã hội dân sự và
tôn giáo lần đầu tiên ngồi lại với nhau tại chùa Liên Trì
ở Saigon để thảo luận về sự phát triển XHDS, đòi hỏi
chính quyền thực thi những quyền tự do căn bản, và nhấn
mạnh vào quyền thành lập công đoàn độc lập. Bốn ngày sau,
Liên đoàn Lao động Việt Tự do, gọi tắt là Lao Động Việt
(LĐV) ra tuyên cáo xác nhận tham gia cộng đồng xã hội dân sự
ở Việt Nam để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của
người lao động. Đó là những bước đầu tích cực tiến
đến sự ra đời của một loại hình chính thức liên kết các
tổ chức dân sự, có lãnh đạo và sinh hoạt dân chủ. Điều
đáng lo ngại là giữa các tổ chức vẫn có thể có những
trở ngại cho sự phối trí và hợp tác, và điều đó, nếu
tồn tại, sẽ là một đại bất hạnh cho dân tộc. Mong rằng
các nhà lãnh đạo xã hội dân sự ở trong nước có đủ sự
sáng suốt, tinh thần trách nhiệm và ý chí vượt qua mọi trở
lực để tạo được sức mạnh toàn dân, điều kiện cần
thiết để gìn giữ đất nước, thực hiện tiến trình dân
chủ và phát triển.

Vai trò của trí thức đặc biệt quan trọng trong việc đối
thoại với chính quyền, vận động các đại sứ quán và cơ
quan quốc tế (gồm cả giới truyền thông) có đại diện ở
Việt Nam, giúp thành lập Liên minh các tổ chức XHDS và giúp
thảo kế hoạch và chương trình hoạt động của liên minh
nhằm đẩy mạnh những cải cách về chính trị, kinh tế, giáo
dục và xã hội. Trí thức cấp tiến trong hay ngoài Đảng cũng
sẽ rất đắc lực trong việc cung cấp thông tin, vận động
trí thức và nhân dân Trung Quốc nhận ra chính sách sai lầm và
tham vọng lỗi thời của các lãnh đạo Đảng CS đe dọa hoà
bình và ổn định trong khu vực, nhất là phá hoại tình thân
thiết tự lâu đời giữa hai dân tộc.

Nỗ lực đoàn kết, hợp tác trong tinh thần dân chủ để
phục vụ lợi ích chung, bảo đảm lâu dài nền độc lập,
toàn vẹn chủ quyền và phát triển bền vững cho đất nước,
đó là bước đột phá cần thiết của trí thức và nhân dân
trong nước, tự giải thoát ra khỏi mọi áp bức của chế độ
cộng sản độc tài, mọi thành kiến nghi kỵ, và giành lại
đầy đủ quyền công dân của một nước văn minh, dân chủ.

<strong>3. Cộng đồng người Việt hải ngoại </strong>

Kiều dân hay công dân ngoại quốc gốc Việt đều được kể
là thành phần của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài, nói gọn là người Việt hải ngoại. Dù ở xa quê hương
hay sinh trưởng ở nước ngoài, hầu hết đều vẫn gắn bó
tình cảm với nguồn gốc của mình ở những mức độ khác
nhau. Tổng số người Việt hải ngoại tính đến nay khoảng
trên 4 triệu người, riêng ở Hoa Kỳ có khoảng 2 triệu. Bài
này không đi vào chi tiết về lịch sử và đời sống của
người Việt hải ngoại mà chỉ tập trung vào vai trò cần
thiết và thích hợp của cộng đồng này, đặc biệt là ở
Mỹ, đối với tình hình chính trị ở Việt Nam và các quan hệ
Việt-Mỹ-Trung.

Nói chung, quan điểm chính trị của Việt kiều ở Nga và các
nước Đông Âu trước đây đối với Việt Nam khác xa nếu
không muốn nói là đối nghịch với khối người Việt tị
nạn ở những nước không cộng sản từ 1975 cho đến khi chế
độ cộng sản ở các nước Đông Âu theo nhau sụp đổ trong
năm 1989. Kể từ đó, quan điểm của những Việt kiều ở
những nước cựu cộng sản đã bắt đầu thay đổi và cùng
với các cơ hội giao lưu gia tăng từ đó đến nay, những suy
nghĩ về tình hình đất nước và nhu cầu dân chủ hoá chế
độ đã gần như đồng nhất trong đại khối người Việt
hải ngoại.

Từ năm 2010, tôi đã nêu vấn đề hiểm hoạ Trung Quốc và
đề cập vai trò của người Việt hải ngoại trong hai bài
viết, "<a href="http://www.talawas.org/?p=16835">Người Việt hải
ngoại làm được gì trước hiểm hoạ Trung Quốc</a>" (talawas,
01/03/2010) và "<a href="http://www.talawas.org/?p=21989">Trước hiểm
họa Trung Quốc: Kế hoạch hành động của người Việt hải
ngoại</a>" (talawas, 02/07/2010). Như vậy đây là lần thứ ba
tôi trở lại vấn đề này nhưng có những nhận định phù
hợp với những biến chuyển mới của tình hình, đặc biệt
khai triển thêm hai phần về vai trò và những bước đột phá
cần thiết của chính quyền cũng như của xã hội dân sự. Vì
kế hoạch hành động của người Việt ở nước ngoài đã
được trình bày khá đầy đủ trong bài viết ngày 02/07/2010
nên ở đây tôi chỉ nhấn mạnh những điểm chính, nhất là
vai trò hỗ trợ của cộng đồng hải ngoại, một quan điểm
đã được nhắc đến trong bài viết ngày 01/03/2010 nêu trên và
xác nhận rõ hơn trong bài "<a
href="http://boxitvn.blogspot.de/2013/03/thu-gui-ban-be-trong-nuoc-qua-dien-sci.html">Thư
gửi bạn bè trong nước</a>…" (boxitvn, 05/03/2013) rằng
"việc thay đổi tình hình chính trị ở Việt Nam là việc làm
của người trong nước, còn người ở bên ngoài chỉ có thể
đóng vai trò hỗ trợ."

Những điểm chính được tóm tắt (với đôi chút cập nhật)
là:

* Trước hiểm họa Trung Quốc và tình thế cấp bách hiện
thời, cần ủng hộ những lãnh đạo thật lòng bảo vệ độc
lập và toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Nếu ngày nay, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng không những chỉ khẳng định quyết
tâm ấy mà còn chủ trương dân chủ hoá chế độ thì người
Việt hải ngoại càng cần phải hợp tác với các tổ chức xã
hội dân sự trong nước hậu thuẫn cho ông Dũng đánh bại phe
thân Tàu độc tài toàn trị. Một khi đã thoát Trung và thể
chế dân chủ đã có cơ sở thì những tội lỗi và sai lầm
cuả chế độ cộng sản sẽ được xử lý một cách công
bằng, nhân đạo.

* Trí thức và chuyên gia hải ngoại sẽ cùng với các trí
thức chuyên gia yêu nước và cấp tiến ở trong nước đóng
góp vào việc giúp chính quyền giải quyết các vấn đề khó
khăn về đối nội và đối ngoại, thiết lập các dự án cải
cách để có thể ổn định được tình hình chính trị, kinh
tế và xã hội, giúp đất nước mau chóng trở thành một quốc
gia dân chủ và phát triển. Trong nhiều năm qua, trí thức, văn
nghệ sĩ, nhà báo, sinh viên và các giới trong và ngoài nước
đã có nhiều cơ hội giao lưu, hợp tác, tạo thành một nguồn
nhân lực và tài nguyên quan trọng với tiềm năng rất phong
phú, sẵn sàng được huy động và sử dụng khi có cơ hội và
điều kiện thuận lợi. Các tổ chức phi chính phủ từ bên
ngoài với những chương trình y tế, giáo dục và nhân đạo
cũng đã tạo được nhiều hạt giống cho sự nảy sinh và phát
triển xã hội dân sự.

* Cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều điều kiện
hơn người trong nước trong việc tiếp cận các cơ quan chính
quyền, quốc hội, các đại sứ quán và tổ chức quốc tế
để vận động cho các chính sách có lợi cho Việt Nam trong
việc đối phó với Trung Quốc và thực hiện các chương trình
phát triển kinh tế, xã hội theo chiều hướng dân chủ. Các
học giả người Việt ở nước ngoài cũng có nhiều dịp tham
gia hội họp và hợp tác với các viện nghiên cứu về Việt
Nam, các tổ chức tranh đấu cho quyền con người, các hiệp
hội công dân gốc Châu Á-Thái Bình Dương để cùng vận động
cho các chương trình, các giải pháp đem lại hoà bình, hợp
tác, và phát triển cho các nước trong khu vực.

Việc phân định vai trò của chính phủ, nhân dân và cộng
đồng hải ngoại như trên không nhất thiết chỉ thuộc về
mỗi thành phần vì trên thực tế có nhiều việc nếu làm chung
thì sẽ có hiệu quả hơn. Vấn đề chính là chính phủ – ở
đây là chính phủ Nguyễn Tấn Dũng – có đủ quyết tâm thoát
ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc và thực thi dân chủ hay không.
Tôi biết có nhiều nhân sĩ, trí thức ở trong nước trước
đây chống ông nay sẵn sàng giúp ông thay đổi tình thế vì
sự tồn vong của đất nước. Đây là một nhiệm vụ lịch
sử với muôn vàn khó khăn trước mắt. Trong bài "<a
href="http://boxitvn.blogspot.de/2013/06/viet-nam-se-ra-sao-sau-bai-dien-van.html">Việt
Nam sẽ ra sao sau bài diễn văn Shangri-La</a>" (boxitvn, 19/06/2013),
tôi kết luận bằng một lời cầu nguyện: "Cầu Trời khấn
Phật cho ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev Việt
Nam". Nhưng như ngạn ngữ Tây phương đã nói "Hãy tự giúp
mình trước thì Trời sẽ giúp ta", nếu ông Dũng tự giúp ông
làm nhiệm vụ lịch sử thì ngoài sự phù hộ của Trời, ông
còn có hậu thuẫn của hơn 90 triệu người Việt Nam ở trong
và ngoài nước, cộng với sự hỗ trợ tận tình của bạn bè
quốc tế. Nếu chẳng may vì lý do nào đó Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng thất bại, hay quay lưng lại với nhân dân, thì tình
huống đó sẽ được Trời và nhân dân xử lý.

<em>Carpe diem! </em>Hãy nắm lấy thời cơ đang có trong tầm tay.
Vì đó cũng là cơ hội cuối cùng.

California, 19 tháng Sáu 2014


<em>Tác giả<strong> Lê Xuân Khoa </strong>nguyên là Chủ tịch
Trung tâm Tác vụ Đông Nam Á (SEARAC) và Giáo sư thỉnh giảng
Đại học Johns Hopkins, USA.</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140621/le-xuan-khoa-viet-nam-co-hoi-cuoi-cung-hay-nhung-buoc-dot-pha-can-thiet),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét