Konrad G. Bühler: Sự thống nhất của Việt Nam – Một trường hợp sát nhập?

<blockquote><strong>Đôi lời giới thiệu của người
dịch</strong>:

Thời gian gần đây xuất hiện một loạt các vấn đề có liên
quan tới câu hỏi kế thừa nhà nước (state succession) trong liên
quan tới Việt Nam sau thời gian 1975-1976. Việc một nhà nước
kế thừa một nhà nước tồn tại trước đó như thế nào có
ảnh hưởng trực tiếp tới việc kế thừa quyền lợi và
trách nhiệm của tiền quốc (predecessor) trước nó.

Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc một phần trong nghiên
cứu phân tích trường hợp Việt Nam của ông Konrad G. Bühler,
trích từ cuốn Kế thừa nhà nước và vai trò thành viên trong
các tổ chức quốc tế: Lý thuyết pháp lý v. chủ nghĩa thực
dụng chính trị (State Succession and Membership in International
Organizations: Legal Theories Versuc Political Pragmatism) được nhà
xuất bản Springer cho ra mắt tháng Hai năm 2001.

Mag. Dr. Konrad G. Bühler là cố vấn pháp lý của Phái bộ
Thường trực của Cộng hòa Áo tại Liên Hợp Quốc từ năm
2004. Trước khi vào làm việc tại Bộ Ngoại giao Cộng hòa Áo
trong các năm 1999-2004 với tư cách chuyên viên pháp lý, ông là
cán bộ giảng dạy chuyên ngành luật pháp quốc tế và và quan
hệ quốc tế tại Đại học Viên.

Trong bài dịch này chúng tôi cố gắng dùng đúng câu từ của
tác giả, nhưng bỏ qua tất cả các ghi chú. Toàn bộ phân tích
về sự kế thừa nhà nước của Cộng hòa XHCN Việt Nam với
đầy đủ ghi chú, trích dẫn xin xem chi tiết trong cuốn sách
trên.</blockquote>

Tương tự như các trường hợp Cộng hòa A-rập Thống nhất và
Tanzania, học thuyết về xác định loại hình pháp lý cho quá
trình thống nhất của Việt Nam có nhiều điều tranh cãi. Trong
khi một số tác giả cho rằng sự thống nhất của Việt Nam là
một trường hợp của hợp nhất (merger), liên quan tới sự
tiêu vong (extinction) của hai nước được thống nhất và hình
thành một nhà nước kế thừa mới, phần lớn các tác giả có
nhìn nhận rằng nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thống nhất
là đồng nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được mở
rộng thêm về lãnh thổ bởi Cộng hòa miền Nam Việt Nam
trước đó, và tư cách cá nhân (personality) quốc tế của Cộng
hòa miền Nam Việt Nam đã biến mất như là kết quả của
việc sát nhập.

Tuy nhiên, trong trường hợp Việt Nam, việc áp dụng các yếu
tố khách quan và chủ quan đã nói tới ở trên để vạch ra
một phân biệt giữa trường hợp hợp nhất và sát nhập
(incorporation) không đưa lại một câu trả lời rõ ràng. Trong
lúc lý thuyết sát nhập, lý thuyết chiếm ưu thế, có thể
được ủng hộ bởi thực tế là Cộng hòa XHCN Việt Nam thống
nhất tiếp tục giữ nguyên thủ đô ở Hà Nội, giữ nguyên
hệ thống kinh tế và chính trị, cũng như màu cờ quốc gia và
quốc ca của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phần lớn các yếu
tố khách quan khác như độ lớn của lãnh thổ, dân số hay
lực lượng quân sự là không rõ ràng, không có yếu tố nào
có thể đặt Bắc Việt Nam hay Nam Việt Nam vào vị trí có ưu
thế rõ ràng.

Tương tự như vây, các yếu tố chủ quan thí dụ như tự nhìn
nhận (self-conception) của nước thống nhất và nhìn nhận của
các nước thứ ba cũng khó đưa đến kết luận rõ ràng. Việc
đánh giá sự tự nhìn nhận của Việt Nam thậm chí còn trở
nên phức tạp hơn bởi yếu tố cả Bắc Việt Nam và Nam Việt
Nam, khẳng định nguyên tắc thống nhất và không thể chia cắt
được của lãnh thổ Việt Nam trong các hiến pháp của họ,
đã liên tục giữ lập trường rằng toàn bộ lãnh thổ Việt
Nam tạo thành một quốc gia duy nhất, chỉ bị chia cắt tạm
thời. Kết quả là trong tự nhìn nhận của Việt Nam thì việc
thống nhất của Việt Nam được cho là hoàn toàn không liên
quan tới trường hợp kế thừa mà chỉ là một thay đổi của
chính phủ. Tuy nhiên, xét tới các hoàn cảnh thực trạng không
thể chối cãi được thì việc bác bỏ sự tồn tại của hai
thực thể nhà nước riêng biệt ở Bắc và Nam Việt Nam trước
thống nhất 1976 có vẻ là không vững chắc về mặt pháp lý.
Hơn nữa, cách hiểu như thế là mâu thuẫn rành rành với các
thông điệp của Việt Nam tới các tổ chức quốc tế như WHO,
trong đó nêu rõ là hai nhà nước thành viên Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt nam đã hợp nhất tạo
thành Cộng hòa XHCN Việt Nam và nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam có thể tiếp nối vai trò thành viên chính thức; điều này
có xu hướng ủng hộ lý thuyết hợp nhất hay hợp tạo (fusion)
của hai nhà nước Việt Nam trước đó.

Mặt khác, hành vi thực tiễn của nước Việt Nam thống nhất
nói chung là bãi bỏ tiếp nối hiệu lực của các hiệp định
quốc tế do Nam Việt Nam ký kết trước đó có thể đưa đến
suy luận rằng Cộng hòa XHCN Việt Nam nhìn nhận sự thống
nhất của Việt Nam như là một trường hợp sát nhập. Tuy vậy
người ta thường bỏ qua bối cảnh Cộng hòa XHCN Việt Nam có
phân biệt rõ ràng giữa các hiệp định được ký kết bởi
chính phủ Sài Gòn trước đó (Quốc gia Việt nam, Việt Nam
Cộng hòa) và các hiệp định được ký kết bởi Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Cộng hòa
miền Nam Việt Nam) cộng sản, chính phủ mà Bắc Việt Nam coi
là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho Nam Việt Nam.
Thế là nước Việt Nam thống nhất, như một vấn đề có tính
nguyên tắc, không bãi bỏ mọi hiệp định quốc tế của Nam
Việt Nam trước đó mà chỉ bãi bỏ những hiệp định được
ký kết của chế độ Sài Gòn bất hợp pháp. Theo vậy, ngày
4.7.1976, chỉ hai ngày sau thống nhất VN, Bộ trưởng Ngoại giao
Cộng hòa XHCN Việt Nam đã gửi một bức thư tới chính phủ
Thụy Sĩ, chủ thể lưu trữ bốn Công ước Genève năm 1949,
trong đó có tuyên bố như sau:


<blockquote>"Cộng hòa XHCN Việt Nam sẽ tiếp nối sự tham gia
của Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong
bốn Công ước Genève 1949 liên quan tới bảo vệ nạn nhân
chiến tranh với những điều kiện hạn chế đồng nhất với
những điều kiện hạn chế đã được Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã đặt ra." </blockquote>

Là quan trọng để nhấn mạnh rằng trong bức thư này Việt Nam
thống nhất không tuyên bố ý định kế thừa (succeed to) mà
tiếp nối (continue) vai trò của Bắc Việt Nam (Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa) và Nam Việt Nam (Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam/Cộng hòa miền Nam Việt Nam) như
các bên tham gia các Công ước Genève, những hiệp định đa
phương duy nhất mà cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cộng sản
đều là các bên tham gia. Theo đó, Cộng hòa XHCN Việt Nam thống
nhất được đưa vào danh sách thành viên các Công ước Genève
với ngày tháng 28.6.1957, ngày tháng tham gia có hiệu lực của
Việt nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng với các điều kiện hạn
chế của cả hai nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(Cộng hòa miền Nam Việt Nam) đặt ra khi tham gia.

Thêm vào đó, quốc gia Việt Nam thống nhất có vẻ không chỉ
tiếp nối các hiệp định của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(Cộng hòa miền Nam Việt Nam) cộng sản, mà – trái ngược
với chính sách chung của họ - thậm chí cũng tiếp nối một
vài hiệp định của chế độ Sài Gòn. Thí dụ như thực
trạng Hiệp định Tương trợ (Agreement of Assistance) giữa
Trương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc UNDP và Việt Nam Cộng
hòa ngày 5.7.1974, đã được tuyên bố kết thúc rõ ràng bởi
Cộng hòa XHCN Việt nam khi nước này ký kết một thỏa thuận
tiếp sau đó ngày 21.3.1978, dẫn đến việc tiếp tục áp dụng
sau khi Việt Nam thống nhất vào tháng Bảy 1976. Tương tự như
thế, Hiệp định cho Trao đổi Ấn phẩm chính thức (Exchange of
Official Publications) song phương được ký kết giữa Úc và chế
độ Sài Gòn vào năm 1954 tiếp tục có hiệu lực trong quan hệ
với Cộng hòa XHCN Việt Nam thống nhất. Do vậy, xét theo khía
cạnh tiếp nối vai trò thành viên trong các tổ chức quốc tế
và chính sách có lựa chọn trong việc ngừng tham gia các hiệp
định của Nam Việt Nam, có nghi ngờ liệu các hành vi thực tế
của nhà nước Việt Nam thống nhất có được đặt nền móng
trên các cơ sở pháp lý giáo điều hay không hay chúng được
dẫn hướng bởi các cân nhắc chính trị và thực dụng thiết
thực.

Không may là việc dùng tới yếu tố chủ quan về công nhận và
thừa nhận của các nước thứ ba cũng không đem lại nhiều
ánh sáng cho câu hỏi xác định loại hình sự thống nhất của
Việt Nam. Bên cạnh việc hiếm hoi tài liệu, quan điểm của
các nước thứ ba và tòa án của họ cũng rất khác biệt nhau.
Thí dụ như một loạt các tòa án Mỹ giữ quan điểm về sự
thống nhất của Việt Nam là vào tháng Bảy năm 1976, Bắc Việt
Nam, nhận lấy tên mới, đã đơn giản sát nhập Việt Nam Cộng
hòa, điều này dẫn tới nước Việt Nam Cộng hòa kết thúc
tồn tại:

<blockquote>"Tháng Bảy 1976, lãnh thổ trước đó của Việt nam
Cộng hòa đã được nối kết vào lãnh thổ của Bắc Việt Nam
và nhà nước nảy sinh được gọi là Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Như thế, Việt Nam Cộng Hòa […] đơn giản không phải là suy
tàn; nó đã chết.[…]

Việt Nam Cộng hòa, cả với tư cách nhà nước và chính phủ,
chấm dứt tồn tại về mặt pháp lý cũng như thực trạng và
Mỹ cho tới nay chưa công nhận một chính phủ nào là quyền
lực hợp pháp trên lãnh thổ trước đó được biết tới như
là Nam Việt Nam." </blockquote>

Một nhìn nhận tương tự, tuy diễn đạt ít rõ ràng hơn, xem ra
có vẻ là được Bộ trưởng Ngoại giao Pháp dùng tới, khi
trả lời quốc hội nước này ngày 9.9.1978 đã có nhận định
như sau:

<blockquote>"Sau khi Việt Nam Cộng hòa chấm dứt tồn tại,
chính phủ Việt Nam mới không đưa ra tuyên bố cho biết có
tiếp tục tham gia các hiệp định 16 tháng Chín 1954 và 16 tháng
Tám 1955, đã được ký kết bởi Cộng hòa Pháp và chính phủ
nam Việt Nam trước đó, hay không. Điều này, theo các nguyên
tắc luật pháp quốc tế hiện thời về kế thừa nhà nước,
dẫn đến kết quả là các hiệp định trên không còn tính
ràng buộc với chính phủ Việt Nam hiện thời và trở thành vô
hiệu lực."</blockquote>

Mặt khác, vào ngày 20.1.1981, một tòa án Thụy Sĩ cho rằng:
<em>"Cộng hòa XHCN Việt Nam phải được coi là người kế
thừa pháp lý của Việt Nam Cộng Hòa"</em>. Trong liên quan tới
sự thống nhất của Việt Nam và địa vị của Cộng hòa XHCN
Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa, tòa án này nhận định tiếp
như sau:

<blockquote>"Cộng hòa XHCN Việt Nam không phải là kết quả
của một sự phân chia. Ngược lại, nó là một quốc gia duy
nhất được hình thành trên lãnh thổ Việt Nam. […] Theo cách
nói chung, Cộng hòa XHCN Việt Nam tiếp nhận các quyền lợi [và
trách nhiệm] của Việt Nam Cộng hòa trước đó. […] Điều
này dẫn đến bên bị tự động tiếp nối các chức năng
[của Việt Nam Cộng hòa] liên quan đến các mối quan hệ ngoại
giao."</blockquote>

Tuyên bố này cho thấy, trong liên quan chỉ riêng tới Việt Nam
Cộng hòa trước đó và sự thành lập của nhà nước mới
Cộng hòa XHCN Việt Nam như là một nhà nước duy nhất trên
lãnh thổ Việt Nam, sự thống nhất của quốc gia Việt Nam
được coi là một trường hợp hợp nhất, dẫn đến sự tiêu
vong của hai nhà nước đã được thống nhất lại và sự ra
đời của một nhà nước mới, nhà nước này tự động có
tất cả các quyền lợi và nghĩa vụ của hai nhà nước tiền
quốc trước đó. Trong bối cảnh này, là rất thú vị nhắc
tới hành vi thực tiễn của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc trong
tư cách chủ thể lưu trữ các hiệp định đa phương, cá nhân
này xem ra cũng có vẻ xác định sự thống nhất của Việt Nam
như một trường hợp của loại hình hợp nhất .

<blockquote>"Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam
Việt Nam (nước đã thay thế cho Việt Nam Cộng hòa) đã thống
nhất vào ngày 2 tháng Bảy 1976 để lập ra một nhà nước
mới, Cộng hòa XHCN Việt Nam (Việt-Nam)". </blockquote>

Tuy nhiên, trong liên quan tới vai trò thành viên trong các tổ
chức quốc tế, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc lại không hành
động trên cơ sở giả định như trên, mà lại coi sự thống
nhất của Việt Nam là một sự hàn gắn(amalgamation) hai tư
cách cá nhân (personalities) được tiếp tục, bao gồm cả địa
vị thành viên của họ, vào thành một tư cách cá nhân, tương
tự như thực tiễn đã được thành lập trong liên quan tới
sự thống nhất của Cộng hòa A-rập Thống nhất và Tanzania.
Cuối cùng, theo sau sự công nhận quốc gia Việt Nam thống nhất
từ phía Vương quốc Anh, nhìn nhận như sau đã được trình
bày bởi Bộ trưởng Ngoại giao Hà Lan trong một tuyên bố vào
ngày 19.7.1976:

<blockquote>"Quan điểm của Hà Lan là, do Cộng hòa XHCN Việt Nam
tự coi mình là một sự tiếp nối của hai Việt Nam trước
đó, một sự công nhận chính thức của Hà Lan là không cần
thiết."</blockquote>

Tóm lại, với tất cả các yếu tố khách quan và chủ quan đã
được xem xét trên đây, có vẻ khó mà đặt Việt Nam vào một
loại hình nhất định nào. Một số các yếu tố khách quan,
đặc biệt là ưu thế của giới công chức và chính trị gia
Bắc Việt Nam sau khi thống nhất, có thể ủng hộ cho thuyết
sát nhập, trong khi các yếu tố khác như độ lớn của lãnh
thổ hay dân số lại không ủng hộ cho thuyết này. Theo các
yếu tố chủ quan, trường hợp Việt Nam phản ánh một cách
hoàn hảo sự non yếu của một trắc nghiệm dựa trên các yếu
tố này, các yếu tố này không chỉ là khó nắm bắt mà trong
phần lớn các trường hợp, chúng không nhất quán rõ ràng và
mâu thuẫn nhau. Nếu thiếu một tự nhìn nhận rõ ràng của
quốc gia đang được xét tới, cũng như thiếu tính nhất trí,
hoặc ít nhất là một xu hướng phổ biến trong nhìn nhận của
các nước thứ ba, một trắc nghiệm dựa vào các yếu tố chủ
quan trên trở thành bất khả thi.



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140623/konrad-g-buhler-su-thong-nhat-cua-viet-nam-mot-truong-hop-sat-nhap),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét