Là con một gia đình dòng dõi ở Chicago, Albert Peter Dewey vào
học đại học Yale, tốt nghiệp, đi làm phóng viên thường trú
ở Paris cho Chicago Daily News và thực hiện các nhiệm vụ ngầm
cho Rockefeller. Thế chiến 2 nổ ra, Dewey đăng lính và cuối cùng
gia nhập OSS (cơ quan tiền thân của CIA). Vào tháng 9 năm 1945,
Dewey được cử đến Sài Gòn, đứng đầu một toán OSS có 7
thành viên, để đại diện cho quyền lợi Hoa Kỳ. Ở thời
điểm này Hoa Kỳ chưa có cơ quan ngoại giao trên đất Đông
Dương thuộc Pháp.
Khoảng nửa năm trước khi OSS đến Sài Gòn, quân Nhật bất
ngờ đảo chính Pháp ở Đông Dương, bắt giữ tù binh (POW),
trong đó hơn 200 người Mỹ. Khi Dewey tới Sài Gòn thì Thế
chiến 2 đã kết thúc, Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, ở
Hà Nội Việt Minh đã cướp được chính quyền, và đang
được phe Đồng Minh (Anh và Mỹ) yểm trợ vì có công chống
Nhật. Một nhóm OSS khác, toán Con Nai, đi vào vùng rừng núi
phía bắc đã huấn luyện nhóm của Võ Nguyên Giáp và cứu Hồ
Chí Minh khỏi cơn sốt rét ác tính.
Nhóm của Dewey làm việc với Việt Minh để bảo vệ quyền
lợi Hoa Kỳ, cụ thể là khoảng hơn 200 tù nhân POW bị Nhật
giam giữ gần Sài Gòn. Chỉ mấy tháng sau tình hình thay đổi,
quân đội Anh (20<sup>th</sup> Indian Division của Douglas David Gracey)
vào giải giáp Nhật. Người Anh công nhận lãnh thổ của Pháp
ở Indochina và thả tù binh Pháp ra, tái vũ trang cho họ để
chống lại Việt Minh lúc này đã hiện rõ là cộng sản. Hơn
mươi ngày sau khi đặt chân đến Sài Gòn, Dewey lại phải ra
đi. Từ Continental, Dewey lái xe ra sân bay, đón hụt máy bay, lái
xe trở về khách sạn. Trên đường về bị lực lượng Thanh
Niên Tiền Phong của Phạm Ngọc Thạch chặn, tưởng nhầm là
người Pháp, bắn chết. Dewey là lính Mỹ đầu tiên chết ở
Đông Dương. Lúc đó là ngày 26 tháng 9 năm 1945, ba tuần sau khi
chính phủ Việt Minh tuyên bố Độc Lập ở Hà Nội.
Ở thời điểm này không ai ngờ được rằng sẽ có hai cuộc
chiến lớn sẽ xảy ra ở mảnh đất Đông Dương: chiến tranh
Pháp- Việt và chiến tranh Mỹ – Việt. Hai cuộc chiến được
gọi lần lượt là Chiến tranh Đông Dương lần 1, và Chiến
tranh Đông Dương lần 2.
Năm 1950, gần 5 năm sau cái chết của Dewey, Hoa Kỳ mới mở cơ
quan ngoại giao của mình ở Sài Gòn. Đó là lúc Anh và Mỹ công
nhận Quốc Gia Việt Nam (State of Vietnam) của Quốc trưởng Bảo
Đại, như một đối trọng với việc Liên Xô và Trung Quốc
công nhận chính phủ Hồ Chí Minh ở vùng rừng núi phía bắc.
Cùng một lúc, ở Đông Dương, tự nhiên có hai chính phủ cùng
đòi hỏi sư hiện diện hợp pháp của mình trên toàn cõi Việt
Nam. Một cõi mà phải đến tận năm 1975 mới liền một dải.
<blockquote>Tính chính danh không phải là trò chơi quyền lực xa
lạ gì với mảnh đất này. Tây Sơn khởi nghĩa lúc đầu chỉ
là hùa theo tính chính danh của hoàng tôn nhà Nguyễn là Nguyễn
Phúc Dương để chống lại bọn quan tham nhũng lộng hành bóc
lột dân là Trương Phúc Loan. Rồi Tây Sơn đánh nhau thua quân
Trịnh, đầu hàng, rồi hùa theo quân Trịnh để lấy chính danh
nhà Lê để đánh nhà Nguyễn tan tác khỏi đất miền nam. Đánh
nhà Nguyễn xong, để Nguyễn Nhạc lên làm vua miền trong để
lấy chính danh, Nguyễn Huệ bị ép ra mảnh đất hẹp miền
trung, một lần nữa phải dương tính chính danh phù Lê để ra
bắc làm thịt nhà Trịnh. Nhà Trịnh lúc này tiếm quyền vua Lê
đã quá lâu, mà bóc lột nhân dân cũng rất quá đà. Diệt xong
nhà Trịnh, Nguyễn Huệ cướp bóc Bắc Hà, rút về miền trung
để lại khoảng trống mênh mông quyền lực và xơ xác vật
chất. Lê Chiêu Thống dại dột qua Tàu rước quân ngoại xâm
về, để lại Thăng Long khoảng trống chính danh. Nguyễn Huệ
nhanh chóng lấp mình vào chỗ chính danh ấy, lên ngôi Hoàng
Đế, sử dụng địa phương quân đánh chặn quân Thanh từ biên
giới về đến đất Kinh Kỳ. Theo Nguyễn Duy Chính, từ miền
trung Hoàng Đế Quang Trung (đã bí mât lên ngôi) cử một cánh
quân đi vòng qua Ai Lao (quân bộ) và một cánh quân đi đường
biển đánh ra bắc. Hai con đường này, quân Chiêm Thành đã
từng dùng để đánh Thăng Long. Nguyễn Huệ cầm một đạo
quân đi nhanh ra Nghệ An, huy động quân đội và dân công tại
chỗ, một bí quyết quân sự mà chỉ có Việt Minh đánh Điện
Biên sau này mới làm nổi, rồi tiến phăng phăng ra bắc. Chiến
thắng Kỷ Dậu đưa Quang Trung lên hàng siêu sao về quân sự,
thống nhất Trung – Bắc, đồng thời để lại bài học cho
quân đội Việt Nam sử dụng địa phương quân đánh 60 vạn
quân Đặng Tiểu Bình năm 1979. Chỉ có một điểm khác. Quân
Quang Trung truy sát tàn nhẫn quân Thanh khi bọn này rút chạy,
khiến cho nhiều năm sau chúng còn khiếp sợ không dám khiêu
khích. Quân Việt Nam năm 1979 tuyên bố "thiện chí hòa bình"
cho Trung Quốc rút quân (từ 7 đến 18 tháng 3 năm 1979) khiến
chúng khinh nhờn mà kéo dài xung đột biên giới đến 1988 và
đánh Trường Sa 1988.
Thế nhưng mải mê chinh chiến trên đất bắc mà Quang Trung lơ
là để hổng phía nam khiến Nguyễn Ánh có cơ mà nổi lên như
bão. Nguyễn Ánh khi trở lại, lại mượn tạm tính chính danh
của nhà Lê để bày trò Phục Quốc, bằng cách sử dụng niên
hiệu Cảnh Hưng đồng thời sử dụng tâm lý chiến để thu
phục lòng dân Bắc Hà ("lạy trời cho cả gió nồm, cho
thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra").</blockquote>
Việt Minh đã học hết các bài học ấy. Bài học nhảy vào
chỗ trống quyền lực ở miền bắc xác xơ vì đói phá kho
thóc Nhật và cướp chính quyền, họ đã làm hoàn hảo.
Theo Thomas Bass thì Cao Giao, một người bạn của Phạm Xuân
Ẩn, là người đã báo tin cho Mười Hương về việc Nhật
đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) để họ chuẩn bị
lực lượng. Chỉ 3 ngày sau, ngày 12, TW Đảng đã ra chỉ thị
quan trọng "Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng
ta".
Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, rất nhanh về mặt thời cơ,
Trương Tử Anh của đảng Đại Việt, vốn rất mạnh trong
giới đại học và trí thức hồi đó, lại có thành tích yểm
trợ Trần Trọng Kim, đã toan cướp chính quyền ở Tonkin (lúc
này Đông Dương vẫn chia làm ba vùng tách biệt) ngày 17 tháng 8,
khi chính phủ trần Trọng Kim nhân dịp Nhật bật đèn xanh mà
mở rộng phạm vi hành pháp ra đất Bắc Bộ. Do chuẩn bị tốt
hơn, đội tuyên truyền có vũ trang của Võ Nguyên Giáp từ Tân
Trào đã có mặt ở Hà Nội, nhanh chóng dẹp vụ cướp chính
quyền này, để hai ngày sau họ có cuộc cướp chính quyền
khác hiệu quả hơn, nay được biết với tên gọi Cách Mạng
Tháng Tám (ngày 19 tháng 8). Sau khi cướp chính quyền, chỉ trong
vài ngày, Việt Minh dẹp sạch các phần tử có tiềm năng cạnh
tranh ở khu vực Hà Nội, rồi Võ Nguyên Giáp lên chiến khu
rước Hồ Chí Minh về làm lễ mùng 2-9 trong thanh bình. Đây là
lần đầu tiên trong đời Hồ Chí Minh, lúc này khoảng 56 tuổi,
đặt chân đến Hà Nội. Ở thời điểm bước ngoặt này, Hồ
Chí Minh nổi danh nhiều hơn với tên gọi ông già Tân Trào, sau
được biết chính là Nguyễn Ái Quốc.
Theo hồi ký Bùi Diễm (đảng viên Đại Việt dưới quyền
Trương Tử Anh, sau là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoa
Kỳ) và hồi ký Lê Giản (Giám đốc nha công an Việt Minh, nằm
trong bộ nội vụ của bộ trưởng nội vụ Võ Nguyên Giáp) cho
biết Trương Tử Anh bị bắt và xử chết sau đó nhiều tháng.
Theo sách của Hoàng Văn Đào, có một nhân vật cộm cán của
VNQDĐ qua làm cho công an Việt Minh nên bắt đảng viên nào của
Quốc Dân Đảng là dính bóc đảng viên ấy. Cũng theo hồi ký
Bùi Diễm, các cơ sở chính quyền Việt Minh được tổ chức
đồng loạt khắp các vùng thôn quê vùng sâu vùng xa, và được
tổ chức rất tốt và đặc biệt là rất tàn nhẫn. Theo hồi
ký của Thụy Nga (người vợ miền nam của Lê Duẩn), đội
Thanh Niên Tiền Phong do bác sỹ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh
đã tổ chức các hoạt động tảo thanh (tiễu trừ các đối
lập chính trị) rất mạnh, dư âm còn lại rất lâu sau này
trong tâm lý người dân. Bản thân Thụy Nga bị đội này bắt
nhầm và suýt giết, may mà chỉ huy lúc đó là Phạm Hùng biết
tin nên tha chết (Phạm Hùng kể lại với Thụy Nga: không thì
chị đi mò tôm rồi).
Nhưng Việt Minh không thực hiện được bài học thứ hai, dù
đã nỗ lực hết mình. Sau cách mạng tháng tám chỉ hai năm,
người Pháp đã dựng được Quốc gia Đàng Trong (State of
Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president (thủ tướng). Và
ngay cả khi đã thắng trận Điện Biên Phủ rồi ký hiệp
định Geneva, thì họ đã để cho gần như một tay Edward Lansdale
tổ chức cả chiến tranh tâm lý lẫn logistic cho cuộc Exodus vĩ
đại đưa gần một triệu người "đi ngược gió nồm vào
Nam", trong đó khoảng 1/3 đi bằng tàu của Hải Quân Hoa Kỳ.
Theo Thomas Bass, sau hiệp định Geneva, Landsdale huấn luyện biệt
kích và thả từ biển (người nhái) đột nhập vào duyên hải
Bắc Bộ, mang theo vũ khí và rất nhiều vàng. Người nhái vào
đều bị phản gián Bắc Việt bắt sạch, nhưng Landsdale không
biết mà vẫn tiếp tục gửi thêm các nhóm khác. Số phận các
người nhái này vẫn là bí ẩn, chỉ biết họ còn sống đến
sau 1975. Sau này người ta cho rằng Phạm Xuân Ẩn là người làm
kế hoạch của Lansdale thất bại.
Rất nhanh sau ngày Độc Lập (mùng 2 tháng 9), sắc lệnh số 8
do Võ Nguyên Giáp ký ngày 5 tháng 9 năm 1945 đã đặt các đảng
phái chống Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật <i>(Khoản thứ
nhất: Nay giải tán "Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng" và
"Đại Việt Quốc dân Đảng". Khoản thứ hai: Nếu hai Đảng
ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ
phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị).</i>
Trong lúc mải mê săn đuổi và triệt hạ các đảng phái này,
Việt Minh quên béng Bảo Đại, lúc này đang làm cố vấn cho
chính phủ Hồ Chí Minh với cái tên Vĩnh Thụy, khiến ông này
đi thoát qua Trung Quốc và rồi tới Hongkong (tháng 3 năm 1946),
bắt hụt Ngô Đình Nhu và thả Ngô Đình Diệm ra khỏi nhà
ngục. Ngô Đình Diệm lúc đó bị Việt Minh bắt giam trên
rừng, được đưa về Hà Nội giam chỗ bây giờ là công an
Hoàn Kiếm. Theo hồi ký Lê Giản, chính Lê Giản đưa Hồ Chí
Minh vào nhà lao để gặp Ngô Đình Diệm, Lê Giản đứng gác
ở ngoài, sau đó Ngô Đình Diệm được thả. Trong thời gian ở
Trung Quốc, dù rất nghèo, Bảo Đại vẫn tìm cách bảo trợ cho
triển lãm tranh của Nguyễn Tường Lân. Họa sỹ tài năng này
chỉ một thời gian ngắn sau đó bị Việt Minh bắt và chết
trong tù.
Gần 5 năm sau khi được thả, Ngô Đình Diệm qua Nhật gặp
Cường Để và tìm kiếm hỗ trợ từ nước Nhật nhưng thất
bại. Rồi qua Bỉ, qua Pháp, cũng thất bại. Rồi qua Mỹ, cũng
chưa ăn thua. Cho đến lúc Ngô Đình Nhu tìm cách để Bảo Đại
bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng (thực chất là
đứng đầu chính quyền miền nam) và Diệm về Sài Gòn nhận
chức chỉ hai tuần trước khi Geneva được ký, và đất nước
bị chia làm hai nửa không bằng nhau. Chuyện này lát kể tiếp.
Còn bây giờ lần một chút về quá khứ.
Các thế hệ thanh niên tân học, sinh ra và lớn lên ở một
nước Pháp viễn đông (Cochinchina) hay một vùng được nước
mẹ Đại Pháp bảo hộ (Annam, Tonkin) đã học được từ
phương tây tinh thần tự do và mong ước dân tộc độc lập.
Tinh thần ấy đi sâu vào các hoạt động xã hội, chính trị,
vào báo chí, văn nghệ, vào các chính trị gia, các đảng phái.
Độc lập với họ không cần là self-government hay autonomy về
mặt hình thức, mà phải ở nội dung: thống nhất Trung Nam
Bắc, tự chủ về kinh tế, tiền tệ, ngoại giao và quân sự.
Khởi nghĩa Yên Bái và hoạt động của Nguyễn An Ninh là tiêu
biểu của thanh niên thời kỳ này.
Chính quyền thuộc địa của Pasquier nhanh chóng phản ứng với
xu thế này. Họ lập tức cổ võ truyền thống dân tộc, giá
trị cổ điển của nước Annam, và tái lập hình ảnh và vị
thế của triều đình Huế. Nhưng ngai vàng lại bất ngờ trống
vắng khi vị vua thân Pháp là Khải Định lăn ra chết. Chính
quyền thực của Huế, không nằm trong tay vua, mà nằm trong tay
các quan lại. Họ bắt đầu chống Pháp theo kiểu của họ,
bằng cách đòi hỏi sử dụng hiệp ước 1884. Để làm điều
này, quan đại thần Nguyễn Hữu Bài yêu cầu Pháp mang hoàng
tử trẻ lúc này đang học ở Pháp, là Bảo Đại, trở về.
Một vị quan – trí thức khác là Phạm Quỳnh lại đòi xây
dựng quân chủ lập hiến. Trí thức tây học thậm chí còn
cực đoan hơn, đòi dẹp luôn triều đình mà lập ra cái gì đó
mới mẻ hơn hẳn. Kết quả là Bảo Đại quay về Huế năm 1932
khi 20 tuổi. Một năm sau, năm 1933, Nguyễn Hữu Bài, 70 tuổi,
bị Pháp lật đổ và thay người thân Pháp là Phạm Quỳnh vào.
Cũng trong năm này, Phạm Quỳnh cạnh tranh quan điểm khá mạnh
với một quan khác và khiến viên quan này phải từ chức, rồi
từ đó mang tư tưởng chống Pháp và có hào quang của một vị
quan treo ấn từ quan. Đó là Ngô Đình Diệm. Năm này Ngô Đình
Diệm 32 tuổi và là thượng thư trẻ nhất của triều đình.
Sau khi từ quan, Ngô Đình Diệm tham gia các hoạt động ngầm
chống Pháp của hoàng thân Cường Để, do đó bị mật thám
Pháp theo dõi rất chặt chẽ.
Đầu những năm 1940, Nhật tiến vào Indochina với thỏa thuận
ngoại giao mềm mại với chính quyền Vichy. Kiểm soát của
chính quyền Pháp trở nên lỏng lẻo, mật thám Pháp sao nhãng
việc giám sát. Hiến binh Nhật bắt đầu các hoạt động ngầm
ủng hộ các tổ chức kháng Pháp. Ở phía nam họ hỗ trợ Cao
Đài, Hòa Hảo. Năm 1942, lãnh đạo Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ
bị mật thám Pháp vây bắt. Hiến binh Nhật đã giải thoát
rất ngoạn mục vị lãnh đạo tôn giáo 22 tuổi khỏi tay mật
thám Pháp. Nhưng đến năm 1947, ở tuổi 27, Huỳnh Phú Sổ không
thoát nổi tay Việt Minh. Cũng năm 1942, giáo chủ Phạm Công
Tắc, lúc này 52 tuổi, bị Pháp bắt và đày qua Madagascar. Ở
đó Phạm Công Tắc bị giam chung với tù cộng sản, trong đó
có Lê Giản. Hồi ký Lê Giản có kể lại chuyện này.
Ở miền trung người Nhật ủng hộ các nhóm Đại Việt thân
Nhật và chịu ảnh hưởng của Cường Để, trong đó có nhóm
Ngô Đình Diệm. Năm 1944 khi mật thám Pháp vây bắt Ngô Đình
Diệm, hiến binh Nhật đã giải cứu rồi mang Ngô Đình Diệm
vào Sài Gòn để bảo vệ. Ở miền bắc họ tuyên truyền và
lấy tình cảm của trí thức trẻ và học sinh sinh viên trong
Đông Dương Học Xá, đặc biệt là với nhóm Đại Việt của
Trương Tử Anh và học giả Trần Trọng Kim. Tháng 7 năm 1944
thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh bắt Trương Tử Anh, hiến binh Nhật
can thiệp không cho bắt. Hồi ký của Bùi Diễm mô tả khá
sống động hoạt động ngầm và nổi của người Nhật ở Hà
Nội quãng thời gian này: rất tinh tế, tinh xảo và hiệu quả.
Cùng lúc này, các hội kháng Pháp ở bên kia biên giới, dưới
sự bảo kê của cả quân đội Trung Hoa (quốc dân đảng của
Tưởng Giới Thạch) và quân đội Trung Quốc (đảng cộng sản
của Chu Ân Lai), xuất hiện chi chít: Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội (Hồ Học Lãm, du học sinh Đông Du và sau này tham gia
hội củaPhan Bội Châu, và là sĩ quan của quốc dân đảng),
Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội (thỏa hiệp hợp tác giữa
VNQDĐ và ĐCS Đông Dương), và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh
Hội do chính tướng của Quốc dân đảng là Trương Phát Khuê
tổ chức cho người Việt hải ngoại. Trong nhóm của Trương
Phát Khuê có Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần.
Còn ở ngay Hà Nội thì Trường Chinh tổ chức Hội Văn Hóa
Cứu Quốc và thành lập hai đảng Việt Nam Xã Hội Đảng và
Việt Nam Dân Chủ Đảng. Đảng Dân chủ chỉ vài năm sau
được Việt Minh sử dụng làm công cụ chính danh khi cướp
chính quyền ở Hà Nội và thành lập chính phủ. Với sáng
kiến này, Trường Chinh đã tỏa sáng rất rực rỡ trong hàng
ngũ lý luận của Việt Minh với tầm nhìn xa trông rộng của
mình. Và phải rất lâu sau mới tỏa sáng thêm lần nữa, cũng
ở vai trò Tổng Bí Thư, ở đêm trước Đổi Mới.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, rất bất ngờ và gọn
ghẽ. Nhưng họ đã không chọn Cường Để, một nhân vật thân
Nhật mà vẫn sử dụng Bảo Đại. Người ký tuyên ngôn độc
lập cho nước Việt, dưới sự che chở của Nhật, là Vua Bảo
Đại cùng sáu vị thượng thư, trong đó có Phạm Quỳnh, vào
ngày 11 tháng 3 năm 1945. Tuyên ngôn độc lập này có đoạn:
<i>"Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi
Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước
bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền
độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho
xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn
chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh
vương chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng
thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước
Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục
đích như trên."</i>
Bất ngờ hơn nữa, người Nhật không chọn Ngô Đình Diệm,
vốn đang được quân đội Nhật che chở ở Sài Gòn làm thủ
tướng. Thay vào đó họ chọn Trần Trọng Kim là một học giả
nổi danh. Trước đó Trần Trọng Kim được người Nhật đưa
đi trốn ở Singapore. Chính phủ Trần Trọng Kim ra mắt với tên
gọi Đế Quốc Việt Nam (Vua Bảo Đại ký chấp thuận nội các
này ngày 7 tháng 4 năm 1945).
Chỉ vài tháng sau,ngày 23 tháng 8, tức 4 ngày sau Cách Mạng
Tháng 8, Bảo Đại nhận được yêu cầu thoái vị từ Chính
phủ nhân dân cách mạng của Hồ Chí Minh. Tìm hiểu một hồi,
Bảo Đại biết Hồ Chí Minh là ai, bèn thoái vị và trở thành
công dân nước độc lập, ra Hà Nội làm cố vấn Vĩnh Thụy.
Trong hồi ký <em>"Một cơn gió bụi"</em> của Trần Trọng Kim
đăng trên báo năm 1949 có nhắc lại câu nói lừng danh của
Bảo Đại về việc này.
Ở Bắc Bộ, Việt Minh làm chủ tình hình nhờ tảo thanh triệt
để các phe đối lập. Quân Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch, lúc
này Hồng Quân của Mao chưa thắng thế, và cũng không phải ở
phe Đồng Minh), yểm trợ cho Quốc Dân Đảng và nhùng nhằng
với cả Việt Minh lẫn Pháp. Việt Minh ký Hiệp ước sơ bộ
Pháp Việt (ngày 6 tháng 3 năm 1946) để lấy tính chính danh cho
chính phủ Việt Minh nằm trong Liên hiệp Pháp đồng thời
đồng ý cho quân đội Pháp (tướng Lecler) quay lại miền bắc
để đẩy quân Tưởng, kẻ thù của Việt Minh ra khỏi lãnh
thổ. Quốc Dân Đảng và Đại Việt gặp tai nạn nặng khi khi
mất hậu thuẫn Trung Hoa, nên bị quân đội Pháp và Việt Minh,
lúc này chưa chiến tranh, phối hợp tiễu trừ. Các chiến khu
của Đại Việt và Quốc Dân Đảng, hai lực lượng chống Pháp
quyết liệt, ở dọc sông Hồng bị lực lượng vũ trang Việt
Minh của Võ Nguyên Giáp tấn công và xóa sổ. Các lãnh đạo
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Vũ Hồng Khanh
nhanh chân đi thoát qua biên giới. Thế nhưng Hiệp ước sơ bộ
có nội dung thỏa hiệp với Pháp (chấp nhận cho Việt Nam nằm
trong Liên Hiệp Pháp) và rước quân đội Pháp trở lại Việt
Nam này lại đặt Việt Minh vào thế đối lập với các đảng
phái và các tổ chức có vũ trang có tinh thần chống Pháp ở
miền nam.
Ở Nam Bộ tình hình rắc rối hơn nhiều. Ngay sau khi Nhật
đầu hàng, Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất bao gồm tất cả
các lực lượng khác nhau, bao gồm cả Việt Minh vẫn Cao Đài,
Hòa Hảo… nổi lên. Một trong các lãnh đạo của mặt trận
này là Ngô Đình Diệm. Lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn lúc đó
là Trần Văn Giàu chỉ tảo thanh được các nhóm đối lập
giàu trí thức mà kém vũ trang là nhóm Troskist (Tạ Thu Thâu, Phan
Văn Hùm) và nhóm Lập Hiến (Bùi Quang Chiêu). Ngô Đình Diệm
bị công an Việt Minh bắt và chuyển ra Hà Nội. Các nhóm như
Hòa Hảo, Cao Đài súng ống đầy mình do Nhật yểm trợ nên
Việt Minh không thể cưỡng được, đành thôi. Tuy nhiên lãnh
tụ Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị phục kích chết sau đó hơn
một năm, khi chiến tranh Pháp Việt đã nổ ra (1947). Lực
lượng Thanh Niên Tiền Phong rời Sài Gòn đi về nông thôn.
Trần Văn Giàu coi như mất giá, phải ra Hà Nội làm nhà nghiên
cứu cạo giấy, mở đường cho hai siêu sao là Nguyễn Bình
(lãnh đạo các hoạt động quân sự) và Lê Duẩn (lãnh đạo
chính trị). Hồi ký Trần Văn Giàu, xuất bản không chính thức
từ bản thảo ở Long An, hé lộ một nửa chuyện này.
Ở Nam Bộ, quân Đồng Minh Anh rút đi, để lại Đông Dương
cho Pháp. Quân Đồng Minh Tàu Tưởng rút đi khỏi đất liền
miền bắc nhưng vẫn chiếm các hải đảo (giải giáp từ quân
Nhật) vốn trước do Pháp công nhận thuộc Annam do Pháp bảo
hộ (1932), sau Pháp sáp nhập vào Đông Dương Thuộc Pháp (cũng
trong năm 1932). Hải quân Pháp không chịu mất chủ quyền của
quốc gia, đánh nhau với quân Tàu Tưởng, đến năm 1950 mới
xong. Đánh xong bàn giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Quốc gia Việt
Nam (State of Vietnam) của Bảo Đại. Năm 1951 thủ tướng của
Bảo Đại là Trần Văn Hữu tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là
của Việt Nam ở hội nghị San Francisco là hội nghị giải
quyết tài sản của Nhật. Liên Xô to mồm tuyên bố hai quần
đảo này là của Trung Quốc (Mao). Việt Minh trong lúc này vẫn
cặm cụi ở trên rừng làm việc của mình chả biết gì về
chủ quyền biển đảo. Thế là hội nghị San Francisco phải bỏ
phiếu. 46/51 nước bỏ phiếu cho Việt Nam. Điều này một lần
nữa được hiệp ước Geneva (sau Điện Biên Phủ 1954) công
nhận cho chính phủ Bảo Đại ở phía nam vĩ tuyến 17. Công lao
của Bảo Đại với Nam Bộ, sau là cả Việt Nam, ở chỗ này
không thể không công nhận. Bảo Đại và Cường Để đã làm
được những việc xứng đáng với tổ tiên chúa Nguyễn của
mình.
Tháng 5 năm 1956 lợi dụng Quốc gia Việt Nam lúc này mới
chuyển thành Việt Nam Cộng Hòa (1955 với Ngô Đình Diệm là
Tổng thống đầu tiên), Tàu Tưởng Đài Loan chiếm Ba Bình
Trường Sa. Ngay lập tức Ngô Đình Diệm cho hải quân ra đánh
chiếm lại (tháng 8 năm 1956).
Đến năm 1974, thay vì quân Tưởng ở Đảo, lần này quân Mao
ở Lục Địa, đánh Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
năm 1974 (sau hiệp định Paris) đã suy yếu lắm rồi. Tổng
thống Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, dù biết hải quân mình
yếu và kém cỏi hơn hẳn, vẫn ra lệnh đánh trả. Đây là
quyết định sáng suốt nhất và có tính chiến lược nhất
của Nguyễn Văn Thiệu. Đánh trả chính là tuyên bố chủ
quyền mạnh mẽ nhất. Nó cũng chuyển tải thông điệp cho
đời sau: để lấy lại Hoàng Sa, không cách nào khác là phải
dùng biện pháp quân sự.
Trở lại với thời kỳ 1946. Pháp quay lại Đông Dương với
người đứng đầu cực kỳ quyền lực (Cao Ủy) là đô đốc
hải quâncó cái tên dài lòng thòng là George Louis Marie Thierry
D'Argenlieu. Ông này chống lại yêu cầu đòi thống nhất Nam
Bộ của chính phủ Hồ Chí Minh. Đàm phán giữa hai phe diễn ra
ở Đà Lạt nhưng thất bại. Đọc hồi ký Ký vãng Đà Lạt
của Hoàng Xuân Hãn sẽ thấy không khí giai đoạn này. Để
vứt Hiệp định sơ bộ Pháp Việt vào sọt rác D'Argenlieu
thản nhiên Cộng Hòa Đàng Trong (Republic of Cochinchina) với
Nguyễn Văn Thinh làm President. Nguyễn Văn Thinh có quốc tịch
Pháp và là thành viên nhóm Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu. Chính
phủ bù nhìn này theo trường phái ly khai Nam Bộ nên bị các
nhóm chống Pháp có vũ trang, từ Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên
và cả Việt Minh xúm lại đánh đập. Lực lượng của Việt
Minh lúc này do siêu sao Nguyễn Bình, vốn là đảng viên Quốc
Dân Đảng cũ, lãnh đạo. Các hoạt động vũ trang trong nội
thành của Nguyễn Bình chính là mẫu hình cho các vụ đánh bom
của Biệt động Sài Gòn sau này. Ý tưởng về một Liên bang
Đông Dương gồm 5 bang (state) bao gồm Lào, Cambodia, Cochinchina,
Annam, Tonkin nằm trong Liên hiệp Pháp (French Union) hình thành ở
giai đoạn này.
Uy tín và tài năng cá nhân của Nguyễn Bình đã thống lĩnh
được các lực lượng vũ trang chống Pháp vốn rất lộn xộn
và hiềm khích nhau ở Nam Bộ, xây dựng Vệ quốc đoàn, đánh
đập Pháp và chính phủ Cộng Hòa Đàng Trong rất tàn nhẫn.
Nhờ đó khi Hồ Chí Minh khi đi Pháp đã có những thỏa thuận
(với Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại) có lợi cho chính
phủ Việt Minh và hai bên ngừng bắn. Việc này kết liễu luôn
nhà nước Cộng Hòa Đàng Trong. Nguyễn Văn Thinh tự sát.
Thương thuyết Pháp Việt dùng dằng mãi rồi thất bại, chiến
tranh Pháp Việt (Đông Dương lần thứ nhất) nổ ra.
Sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh, chỉ trong thời gian ngắn,
để thay thế Pháp lần lượt lắp Lê Văn Hoạch (Cao Đài) rồi
Nguyễn Văn Xuân (sĩ quan quốc tịch Pháp) vào chỗ trống. Tất
cả các nhân vật miền nam thân Pháp này, lại hùa với nhóm
chống Việt Minh đang lưu vong ở Tàu, cùng nhau ủng hộ Bảo
Đại. Bảo Đại lúc này ở Hong Kong (1947) và bắt đầu có tín
hiệu muốn đàm phán với Pháp. Trong quá trình này, Pháp đổi
Republic of Cochinchina thành Provisional Central Government of Vietnam
(Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ) với tướng Nguyễn Văn Xuân làm
thủ tướng. Một vở kịch của Thế Lữ thời kỳ này chế
diễu tướng Xuân rất buồn cười với việc "kéo mũi ra cho
lõ như Tây".
Đàm phán Pháp – Việt (Việt của Bảo Đại) đi đến hiệp
ước Elysée. Pháp trao trả độc lập (pháp lý) và toàn vẹn
lãnh thổ (tương đối) cho Việt Nam. Pháp vẫn nắm ngoại giao,
quân đội, kinh tế và tiền tệ. Đồng thời tạo ra khu tự
trị cao nguyên. Hiệp ước được quốc hội Pháp thông qua và
ký tháng 3 năm 1949. Ba tháng sau Bảo Đại về Sài Gòn nhận
chức quốc trưởng của một nhà nước mới toe: Quốc gia Việt
Nam (State of Vietnam). Tất nhiên trên thực tế, chính quyền mới
này không can thiệp vào được các vùng do chính phủ Việt Minh
đang kiểm soát.
Lúc này chính trị thế giới, do ảnh hưởng của Liên Xô và
học thuyết của họ lúc đó là học thuyết (chủ nghĩa) Zhdanov
(rất thô và đơn giản) đã chia thế giới theo một cách hết
sức ngô nghê: chia thành hai phe. Phe Đế Quốc do Anh Mỹ đứng
đầu, và phe Dân Chủ do Liên Xô đứng đầu. Để phát triển
xã hội, học thuyết Zhdanov khuyến khích đấu tranh giai cấp
không khoan nhượng. Tiếp đó cách mạng bạo lực của Mao thành
công ở Trung Quốc, đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đảo.
Trung Quốc và Liên Xô công nhận chính phủ Việt Minh (1949). Mỹ
và Anh công nhận chính phủ của Bảo Đại (1950). Đó là lúc
thế giới bước vào Chiến tranh lạnh.
Các học thuyết của Mỹ ở thời điểm này bắt đầu cho
Đông Dương vào vòng ngắm. Các phái đoàn cố vấn quân sự,
kinh tế của Mỹ bắt đầu đến Sài Gòn. Quốc hội Hoa Kỳ và
tổng thống Truman bắt đầu chi tiền cho Đông Dương: xây dựng
quân đội cho Quốc gia Viêt Nam, tài trợ cho quân đội Pháp
đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc. Các
hoạt động của Edward Lansdale tốn kém lên tới hàng triệu
dollar vẫn được tài trợ.
Từ năm 1950 đến năm 1954, khi Võ Nguyên Giáp vẫn kiên trì
đánh Pháp ở rừng núi Bắc Bộ thì ở Nam Bộ quốc trưởng
Bảo Đại một mặt xây dựng chính quyền của mình, vốn
nhiều phe phái không đồng nhất, mặt khác kiên trì tiếp tục
đàm phán với Pháp đòi hỏi độc lập thực sự của Việt
Nam.
Bảo Đại là một ông vua, như Dumas nói, vua là quý tộc của
các quý tộc. Bảo Đại có các phẩm chất cao quý nhất của
con người: thông minh, tinh tế, hiểu người, hiểu đời. Bên
cạnh đó, Bảo Đại được đào tạo đầy đủ về khoa học
chính trị ở Sciences Po bên Pháp. Điểm yếu của Bảo Đại,
cũng là tính quý tộc: mê đánh bài, mê gái, mê săn bắn, mê
ngao du. Bảo Đại hiểu chính trị và biết dùng chính trị gia.
Nhưng bản thân lười lao động, ham chơi, không muốn làm lãnh
đạo đất nước. Làm quốc trưởng, Bảo Đại cũng ở Đà
Lạt đi săn, mọi việc thả cho Thủ Tướng làm.
Đây là thời kỳ thú vị của Sài Gòn. Không khí chính trị
mới mẻ, các lực lượng quân sự hùa về với Bảo Đại, kinh
tế ngầm liên quan đến buôn thuốc phiện do mafia đảo Corse
nắm. Nhóm người Corse này lại kết nối với lực lượng bảo
vệ an ninh đô thành, là nhóm Bình Xuyên. Bình Xuyên lại làm
cả bảo kê gái và song bài. Bảo Đại sống bằng tài trợ
của Pháp và Bình Xuyên. Sài Gòn như một thành phố quốc tế,
đầy rẫy bọn buôn lậu và điệp viên. Graham Greene qua Sài Gòn
vừa làm báo, vừa làm điệp viên, vừa hút thuốc phiện. Phạm
Xuân Ẩn làm cho phòng nhì, kiểm soát bằng cách đọc lén thư
từ của chính Greene. Ở ngoại ô, quân Việt Minh do Nguyễn Bình
vẫn đánh Pháp. Lê Duẩn nắm Xứ Ủy, và theo KW Taylor, Lê
Duẩn còn phải kiềm chế Nguyễn Bình. Một góc của Sài Gòn
hồi đấy có thể thấy ở <a
href="http://5xublog.org/2013/07/27/sound-of-silence/">Sound of Silence</a>.
Thủ tướng đầu tiên của Bảo Đại là Nguyễn Phan Long, một
người thuộc nhóm Lập Hiến. Nguyễn Phan Long đòi Pháp trả
độc lập hoàn toàn và tỏ ra thắm thiết với Mỹ. Ngay lập
tức Pháp ép Phan Long nghỉ và thay bằng Trần Văn Hữu, một
người nhà giàu quốc tịch Pháp (1950). Không ngờ Trần Văn
Hữu ngày càng tỏ ra ái quốc, bỏ ra nhiều tháng đi Pháp (Pau)
để tiếp tục tranh luận các điều khoản chưa rõ trong hiệp
ước Elyée, đòi các quyền lợi kinh tế, quân sự, ngoại giao.
Trần Văn Hữu chính là thủ tướng tuyên bố Hoàng Sa Trường
Sa là của Việt Nam như đã nói ở trên. Cuối cùng, tới năm
1952, Trần Văn Hữu làm việc thẳng với Anh Mỹ, khiến Pháp cay
quá phải thay bằng Nguyễn Văn Tâm, một công dân Pháp và theo
phe ly khai Nam Kỳ ngày trước.
Nguyễn Văn Tâm làm đến cuối năm 1953 thì từ chức, và đầu
năm 1954 Bảo Đại bổ nhiệm Bửu Lộc, một người họ hàng
của mình vào chức thủ tướng. Lúc này Bảo Đại đang ở
Pháp để trực tiếp đàm phán về độc lập hoàn toàn cho
Việt Nam. Chiến tranh Pháp Việt đang đi đến hồi kết. Quân
của Võ Nguyên Giáp bao vây Điện Biên Phủ. Ở vùng mà Việt
Minh gọi là vùng tạm chiếm thì Đại Việt rất mạnh, đồng
thời xuất hiện và trỗi dậy lực lượng của các linh mục
Bùi Chu Phát Diệm.
Cũng trong thời gian này anh em nhà họ Ngô phân công nhau mỗi
người một việc. Sau khi được công an Việt Minh phóng thích,
Ngô Đình Diệm ở nhà thờ Hàng Bột thêm một thời gian khá
dài. Edward Miller lấy tin của mật thám Pháp cho biết Diệm ở
lại lâu để lôi kéo các nhân vật quan trọng trong chính phủ
Việt Minh, đặc biệt là lôi kéo Nguyễn Bình. Năm 1950 nhận
thấy chính trị nghiêng hẳn về Bảo Đại, Ngô Đình Diệm
thoát ly khỏi quê hương cùng anh trai là Ngô Đình Thục. Điểm
đầu tiên đến là Nhật và gặp hoàng thân Cường Để.
Chuyến đi này thất bại, khi Diệm không tìm kiếm được gì
từ nhóm Nhật thân Cường Để. Vả lại Cường Để qua đời
sau đó vài tháng. Nhưng rất may cho Diệm, đi Nhật lại gặp
nhà khoa học chính trị kiêm tình báo quân sự khu vực viễn
đông của Hoa Kỳ tên là Wesley Fishel. Rời Nhật, Diệm Thục đi
Mỹ, thất bại trong tìm kiếm hỗ trợ từ chính phủ Hoa Kỳ,
lại bay tiếp qua Roma và Paris. Ở Paris chính Bảo Đại từ
chối gặp Ngô Đình Diệm. Sau thất bại này, Diệm quay về Hoa
Kỳ và ở lại khá lâu. Edward Miller dành một chương để nói
về quãng tời gian Ngô Đình Diệm ở Mỹ. Trong thời gian này,
Ngô Đình Diệm thông qua các kênh công giáo La Mã và tư vấn
của Fisher đã quen thân được thẩm phán Tối cao Pháp viện là
William O. Douglas. Douglas tổ chức ăn tối để Ngô Đình Diệm
gặp gỡ các nhân vật chính trị trẻ, trong đó có thượng
nghị sỹ Mike Mansfield và thượng nghị sỹ John F Kennedy (sau
trở thành tổng thống Hoa Kỳ).
Cùng lúc đó ở trong nước, <a
href="http://5xublog.org/2013/11/20/luan-van-cua-ong-nhu/">Ngô Đình
Nhu</a>, một người lạnh lẽo và đặc biệt thông minh, đã bí
mật thành lập Cần Lao Cách Mạng Đảng với chủ thuyết Nhân
Vị ở Đà Lạt, thông qua các hội thảo nhỏ với lượng khách
tham dự rất chọn lọc (1949). Trong cuốn sách mới xuất bản
cuối xuân 2013, <em>cuốn Missalliance: Ngo Dinh Diem</em>, The United
States and the Fate of Sound Vietnam, Edward Miller than rằng có quá ít
thông tin về Cần Lao, do hoạt động của họ quá kín đáo. Ngay
cả các tài liệu của mật thám Pháp và CIA giải mật gần
đây cũng không tiết lộ được nhiều. Chỉ biết rằng Cần
Lao bén rễ được vào chính phủ của Bảo Đại, vào quân
đội của Quốc gia Việt Nam đang manh nha thành lập, vào các
lực lượng công giáo. Mặt khác, Ngô Đình Nhu xây dựng tờ
báo Tinh Thần và đứng sau ngầm chỉ huy để tuyên truyền cho
đường lối "cách mạng chính trị kinh tế". Nhu cũng xây
dựng các quan hệ vững chắc và dài lâu với giới lao động
thông qua lãnh đạo nghiệp đoàn (Trần Quốc Bửu) và báo của
họ (tờ Xã Hội), nắm được giới trí thức elite Bắc Kỳ
chạy vào Nam Kỳ (Trần Chánh Thành). Và với quân đội thì
thậm chí ngay khi Trường Võ bị Đà Lạt (Học viện quân sự
Đà Lạt) mới được thành lập, Nhu đã đến phát biểu, qua
đó gây ảnh hưởng đến các sỹ quan trẻ sau này. Theo Edward
Miller, đến cuối năm 1953, mặc dù hoạt động ngầm nhưng
mạng lưới chính trị của Ngô Đình Nhu đã trải khắp
Indochina. Từ đó Ngô Đình Nhu lôi kéo được các thủ lĩnh các
phe vũ trang chống cộng, ủng hộ Ngô Đình Nhu và rời xa Bảo
Đại, lúc này đang ở Pháp.
Chính sự lớn mạnh về lực lượng chính trị của anh em họ
Ngô ở trong nước, đã làm Bảo Đại phải cân nhắc về nhân
vật vốn chống mình rất dữ dội là Ngô Đình Diệm.
Vào phút cuối cùng, Việt Minh thắng Điện Biên, còn ở Pháp
Bảo Đại đạt được thỏa ước tối đa với Pháp Ngày 4
tháng 6 năm 1954, người Pháp, vốn cứng đầu, lèm bèm và ti
tiện, đến lúc này mới trả độc lập toàn bộ cho Quốc gia
Việt Nam của Bảo Đại. Bảo Đại, với quyết định vừa
lười nhác vừa dũng cảm, vừa sáng suốt, bổ nhiệm Ngô Đình
Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại biết trước một người tham
vọng như Ngô Đình Diệm sẽ làm lãnh đạo quốc gia tốt hơn
một ông vua ham chơi, và tất nhiên việc Diệm sẽ phế quốc
trưởng Bảo Đại là một điều chắc chắn. Từ đó không bao
giờ Bảo Đại quay về trong nước.
Sau khi được bổ nhiệm, Ngô Đình Diệm bay về Sài Gòn và
lập chính phủ, ra mắt quốc dân ngày 7 tháng 7 năm 1954.
Hai tuần sau hiệp định Geneva được ký kết (ngày 21 tháng 7),
chia đất nước thành hai nửa.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140215/5xu-trong-vo-hat-de-tiep-va-het), một
số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc
giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận
có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng
dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét