<div class="boxleft320"><img
src="http://www.vanhoanghean.com.vn/media/k2/items/cache/57ade22d9903e56b930bbbb9b13965c1_XL.jpg"
/><div class="textholder">Tù binh Trung Quốc trong cuộc chiến tranh
biên giới 2.1979</div></div>
Trong những năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam Việt Nam
(1975), Trung Quốc là nước tiếp tục giúp đỡ, viện trợ cho
Việt Nam. Theo một logic thông thường, lý ra sự hợp tác, quan
hệ truyền thống giữa hai nước càng phải được củng cố,
phát triển. Tuy nhiên, từ giữa năm 1975, do nhiều nguyên nhân
lịch sử, chính trị.... quan hệ Việt Nam - Trung Quốc rạn nứt
và trở nên không bình thường, rơi vào tình trạng thường
xuyên căng thẳng dẫn đến đến đối đầu, xung đột với
sự kiện đỉnh cao là cuộc tấn công của Trung Quốc dọc theo
biên giới phía Bắc Việt Nam (2-1979).
<h2>1- "Khoảng lặng" trong quan hệ Việt - Trung</h2>
Sau năm 1975, điều bất thường là quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc bắt đầu bộc lộ nhiều "lỗ hổng" và mang dáng vẻ
lạnh nhạt. Dường như không phải ngẫu nhiên mà đúng lúc Bí
thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam Lê Duẩn bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước tại Bắc
Kinh, tờ Nhân dân nhật báo ngày 18-9-1975 đã đăng 6 ảnh lớn
về các đơn vị quân đội Trung Quốc ở Hoàng Sa[1] . Tương
tự, một ngày sau khi phái đoàn Việt Nam rời khỏi Trung Quốc,
các bức ảnh lớn về Hoàng Sa tiếp tục xuất hiện trong
những tờ báo uy tín tại Bắc Kinh. Nhìn chung, chuyến thăm Bắc
Kinh tháng 9-1975 của Lê Duẩn được các nhà quan sát coi như
một thất bại chính trị - ngoại giao [2], bởi mặc dù được
tiếp đón có vẻ như trọng thị, song phái đoàn đã rút ngắn
thời gian lưu lại tại Bắc Kinh và đã không mở tiệc chiêu
đãi để cảm tạ lòng hiếu khách của người Trung Hoa như
vẫn thường thấy trong thông lệ ngoại giao. Phái đoàn đã
rời Bắc Kinh đúng hai ngày trước khi kỷ niệm ngày Quốc
khánh Trung Quốc (1-10), mà không đưa ra bất cứ một phát biểu
hoặc thông cáo nào về cuộc viếng thăm. Tiếp đó, ngày
26-11-1975, sau khi Đoàn Việt Nam kết thúc chuyến thăm hữu nghị
Liên Xô, tờ Quang minh nhật báo có bài viết về Hoàng Sa và
Trường Sa với lời báo động không giấu giếm: "<em>Một số
đảo vẫn chưa trở về trong tay nhân dân Trung Hoa… Tất cả
các đảo thuộc về Trung Hoa đều phải trở về lãnh thổ của
Tổ quốc</em>" [3].
Tuy hai nước còn cố gắng kiềm chế, tránh xung đột, nhưng
từ giữa những năm 1976, quan hệ Việt - Trung đã xấu đi rất
nhanh chóng với các tranh cãi liên quan đến vấn đề biên
giới, vấn đề người Việt gốc Hoa và đặc biệt về vai trò
của Liên Xô trong các vấn đề thế giới, khu vực. Trong bài
phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 25 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ ngày 24-9
đến 24-10-1976) xuất hiện những cụm từ nhiều hàm ý:
"<em>Ta thắng là nhờ có sự giúp đỡ tích cực của Liên Xô,
Trung Quốc, của phe ta, của thế giới, Liên Xô và Trung Quốc
giúp ta rất nhiều. Không có sự giúp đỡ của họ ta khó lòng
thắng được. Ta phải luôn luôn biết ơn Liên Xô, Trung Quốc
và các nước anh em khác đã giúp ta; ta nói cho con cháu ta mãi
mãi nhớ ơn họ. Nhưng chúng ta phải độc lập, tự chủ bởi
vì trong quan hệ quốc tế, mỗi nước có lập trường riêng do
vị trí và quyền lợi mỗi nước một khác, cho nên giữa các
nước anh em, khó có sự nhất trí với nhau, có khi về những
vấn đề rất quan trọng đối với một nước trong phe, cũng
không nhất trí được</em>"[4].
Tháng 2-1977, Trung Quốc ngỏ ý với Việt Nam rằng, không sẵn
sàng cung cấp viện trợ cho Việt Nam trong công cuộc tái thiết
đất nước sau chiến tranh [5].
Cũng vào thời kỳ này, biên giới Việt Nam - Campuchia liên tục
có xung đột. Chính phủ Việt Nam không dưới một lần đề
nghị Trung Quốc giúp đỡ dàn xếp, mong muốn thông qua hợp tác
với Trung Quốc tác động tới phía Campuchia, song Trung Quốc đã
im lặng. Việc Trung Quốc từ chối ủng hộ Việt Nam trong việc
tìm kiếm các phương thức giải quyết căng thẳng biên giới
với Campuchia càng cho thấy những vết nứt sâu hơn trong quan
hệ hai nước. Điều đáng chú ý là trong thời điểm phức
tạp, nhạy cảm của quan hệ Việt Nam - Campuchia, Bộ trưởng
Ngoại giao Trung Quốc Hoàng Hoa đã chính thức phát biểu
(30-7-1977): "<em>Chúng tôi ủng hộ lập trường chống đế
quốc xét lại Liên Xô của Campuchia... và sẽ không thể ngồi
nhìn bất cứ sự can thiệp nào đối với chủ quyền Campuchia
hoặc thèm khát lãnh thổ nào bởi đế quốc xã hội. Chúng tôi
sẽ ủng hộ Campuchia trong cuộc đấu tranh và có các hành
động nhằm bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Campuchia
bằng mọi sự giúp đỡ có thể</em>" [6]. Ngầm sau lời tuyên
bố đó, người ta dễ dàng nhận thấy ẩn ý "chống lưng"
của Ban lãnh đạo Trung Quốc đối với tập đoàn
Polpot-Iêngxari.
Ngày 20-11-1977, Lê Duẩn sang thăm Trung Quốc một lần nữa. Đây
được coi như một nỗ lực nhằm hàn gắn những vết rạn
nứt trong quan hệ với Trung Quốc, thực hiện việc cố gắng
cân bằng quan hệ giữa Việt Nam - Liên Xô; Việt Nam - Trung
Quốc. Tuy nhiên, giới quan sát nhận thấy rằng, người đứng
đầu Nhà nước Việt Nam Lê Duẩn đã được đón tiếp với
một thái độ vừa phải (nếu không muốn nói là lạnh nhạt),
trái ngược với sự trọng thị và nồng nhiệt được dành cho
Polpot trước đó một tháng [7]. Chuyến viếng thăm Trung Quốc
lần này của Lê Duẩn chẳng những không làm cho quan hệ hai
nước ấm lên, mà bộc lộ những bất đồng mới. Trong cuộc
hội đàm giữa Lê Duẩn và Hoa Quốc Phong, mặc dù hai bên đều
tránh nói đến một vấn đề tế nhị trong quan hệ hai nước
là những tranh chấp về Hoàng Sa, Trường Sa, song sự khác biệt
về quan điểm đối với việc nhìn nhận thế giới, chiến
tranh và hòa bình… đã bộc lộ ngày càng rõ. Lê Duẩn bày tỏ
quan điểm không tham gia vào cuộc tranh cãi Trung - Xô thông qua
việc "<em>chân thành cảm ơn Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác về sự nhiệt tình, giúp đỡ to lớn đối với
Việt Nam</em>". Không khí có vẻ căng thẳng hơn, khi Lê Duẩn
đề nghị những nhà lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu Campuchia Dân
chủ chấp nhận một giải pháp cho cuộc xung đột trên tuyến
biên giới Tây Nam, nhưng Trung Quốc đã không mấy mặn mà.
Cuối cùng, giống như chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 9-1975,
Lê Duẩn cũng đã ra về mà không mở tiệc khoản đãi
"<em>những người Trung Hoa anh em</em>".
Về phía Trung Quốc, từ cuối năm 1977, các văn kiện của Quân
khu Quảng Châu luôn nhấn mạnh tinh thần "phải chuẩn bị các
mặt để đánh Việt Nam", tuyên truyền: "<em>Việt Nam là tay sai
của Liên Xô, có tham vọng xâm lược Campuchia, Lào, chiếm Đông
Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh cho bọn xét
lại Việt Nam, không đánh là không thể được và phải đánh
lớn. Việt Nam là tiểu bá ở châu Á, xâm lược Campuchia, xua
đuổi người Hoa</em>" [8]. Tháng 1-1978, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ giải
quyết cuộc xung đột Việt Nam - Campuchia. Một lần nữa Trung
Quốc không đáp ứng. Trong khi đó, tháng 1-1978, Bà Đặng Dĩnh
Siêu, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc sang
thăm Phnompenh và ký một hiệp định xúc tiến viện trợ quân
sự cho Campuchia Dân chủ, bắt đầu chuyển vũ khí đến
Campuchia. Thậm chí, trong chuyến thăm, bà Đặng Dĩnh Siêu đã
tuyên bố, Trung Quốc sẽ không tha thứ cho một cuộc tấn công
nào vào liên minh của họ (ngụ ý ám chỉ Việt Nam đã rõ,
mặc dù không nêu đích danh).
<h2>2- Những đợt sóng mới</h2>
Sự rạn nứt trong quan hệ Việt - Trung trở nên sâu sắc và
chuyển dần sang trạng thái căng thẳng, xung đột thể hiện qua
hàng loạt sự kiện rắc rối khác, mà trước tiên là vấn
đề người Việt gốc Hoa.
So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á (trong đó
có Việt Nam) là nơi có số lượng tương đối lớn Hoa kiều
làm ăn, sinh sống, "<em>lên tới hơn 20 triệu người (năm
1978)</em>" [9]. Ở Việt Nam có khoảng 1,2 đến 2 triệu người
Hoa đến lập nghiệp từ lâu đời, là một trong những thế
lực kinh tế mạnh mẽ, nhất là ở miền Nam Việt Nam. Hoa kiều
được gọi là "<em>đội quân thứ năm</em>" trong chính sách
tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực.
Người Hoa là một bộ phận cùng hợp thành cộng đồng dân
tộc Việt Nam với 54 dân tộc thống nhất trong đa dạng. Cư
dân người Hoa ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc
nhóm ngôn ngữ Hán của ngữ hệ Hán – Tạng [10]. Dưới các
triều đại phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII, XIX, quy chế
đối với người Hoa ở Việt Nam không khác gì so với cư dân
thuộc các cộng đồng dân tộc khác [11]. Trong chiến tranh và
xây dựng đất nước thời bình, người Hoa đã "đồng cam
cộng khổ", sát cánh cùng các dân tộc Việt Nam.
Về phía Trung Quốc, trước năm 1949, Trung Quốc yêu cầu tất
cả các Hoa kiều tiếp tục giữ quy chế công dân Trung Quốc,
hoặc có hai quốc tịch. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung
Quốc đòi duy trì quyền lãnh ngoại (quyền có thể can thiệp
vào nước khác để bảo vệ kiều dân của mình). Sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, các quốc gia độc lập ở Đông Nam Á
đã đưa ra những đạo luật hạn chế các hoạt động của
người Hoa, đặc biệt là hạn chế quy chế hai quốc tịch. Năm
1950, theo sáng kiến của Chu Ân Lai, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
chính thức từ bỏ yêu sách về quyền lãnh ngoại, coi như là
sự chấp nhận những nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc
gia.
Năm 1955, ở miền Bắc Việt Nam, theo thỏa thuận của Đảng Lao
động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, "<em>người Hoa
cư trú ở miền Bắc Việt Nam phải được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam</em>" [12], sau dần
dần chuyển thành công dân Việt Nam, được hưởng những
quyền lợi như người Việt Nam và tự nguyện nhận quốc tịch
Việt Nam. Cho đến năm 1975, giữa Việt Nam - Trung Quốc không có
bất cứ một bất đồng nào trong vấn đề người Hoa ở miền
Bắc Việt Nam. Còn ở miền Nam Việt Nam, từ năm 1956, dưới
Chính quyền Ngô Đình Diệm, Hoa kiều đã gia nhập quốc tịch
Việt Nam để có điều kiện dễ dàng làm ăn, sinh sống [13].
Tháng 4-1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh ở miền Nam. Vấn đề người Hoa được Trung
Quốc nêu lên. Trung Quốc coi việc Việt Nam tiến hành cải tạo
công thương nghiệp, động chạm tới người Hoa ở một số
thành phố lớn miền Nam như một sự công khai thách đố chính
sách bảo vệ Hoa kiều hải ngoại mà Trung Quốc vừa công bố
[14]. Một phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người
Hoa ở Việt Nam được dấy lên. Trung Quốc đưa ra chính sách
"<em>đoàn kết với giai cấp tư sản Hoa kiều</em>", kêu gọi
chống lại chính sách "<a
href="https://danluan.org/tin-tuc/20140216/huy-duc-nan-kieu">bài Hoa</a>"
của Việt Nam; đồng thời, loan truyền trong cộng đồng người
Việt, gốc Hoa những luận điệu kích động [15] về một cuộc
chiến tranh không thể tránh khỏi giữa Việt Nam - Trung Quốc,
gây tâm lý hốt hoảng trong quần chúng người Hoa. Do sự
khuyến khích đó của Trung Quốc và với sự im lặng đồng
tình ngầm của Việt Nam muốn tống xuất hiểm họa của "đội
quân thứ năm", trong năm 1978, các dòng người Hoa ở Việt Nam
ồ ạt kéo về Trung Quốc [16]. Ngày 30- 4-1978, Chủ nhiệm Văn
phòng Hoa kiều vụ đã phát biểu bày tỏ "<em>sự quan tâm đối
với hiện tượng Hoa kiều ở Việt Nam về nước hàng
loạt</em>", hứa hẹn "<em>sẽ sắp xếp thích đáng cho những Hoa
kiều đã trở về một cách vội vàng</em>". Để thu hút sự
chú ý của dư luận thế giới về tình trạng "nạn kiều",
Trung Quốc lập ra các trạm đón tiếp dọc theo biên giới hai
nước, tuyên bố sẽ gửi hai tầu chuyên chở sang Việt Nam để
đón "nạn kiều" về nước, nói trắng ra rằng, tàu Trung Quốc
sang Việt Nam không phải để đón người Hoa, người Việt gốc
Hoa, hay Hoa kiều muốn đi Trung Quốc", mà đón "nạn kiều" [17].
Tháng 5-1978, Trung Quốc đơn phương đưa tàu sang đón người Hoa
về Trung Quốc [18]. Ngày 12-7-1978, Trung Quốc đóng cửa biên
giới Việt Nam – Trung Quốc, làm cho hàng vạn người Hoa muốn
đi Trung Quốc bị kẹt lại, tạo nên tình trạng mất an ninh ở
khu vực biên giới. Đến khi các đợt ra đi của người Hoa
trở nên ồ ạt, Trung Quốc lại đưa ra điều kiện là người
Hoa muốn về Trung Quốc phải chính thức xin giấy phép hồi
hương do Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội cấp, cần có hộ
chiếu xuất cảnh của Chính quyền Việt Nam. Trung Quốc chỉ
đón nhận những "<em>nạn kiều người Hoa</em>" đang bị
Chính quyền Việt Nam ngược đãi, chứ dứt khoát không nhận
về "người Việt gốc Hoa", hay người Hoa có quốc tịch
Việt Nam. Cũng cần nói thêm rằng, trong khi Trung Quốc khêu lên
vấn đề bảo vệ Hoa kiều một cách mạnh mẽ, thì ở
Campuchia, do chính sách khủng bố trong nước của Chính quyền
Campuchia, hàng vạn Hoa kiều chạy khỏi Campuchia, song Trung Quốc
đã không có bất cứ một động thái phản đối nào.
Sự ra đi đông đảo của cư dân người Hoa đã làm cho tình
trạng kinh tế tại các vùng biên giới phía Bắc Việt Nam trở
nên tồi tệ. Hàng vạn người Hoa vội vã bỏ nhà cửa, chuẩn
bị "hồi hương" đã phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế
nhỏ trong các hộ gia đình, làm tăng thêm tình trạng khan hiếm
hàng hoá tiêu dùng một cách gay gắt, đánh mạnh vào nền kinh
tế Việt Nam vốn đã khủng hoảng. Vấn đề người Hoa ở
Việt Nam và phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc đã
làm mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc trở nên phức
tạp. Đây là một trong những nguyên nhân làm căng thẳng quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc sau năm 1975.
Việc Trung Quốc đơn phương cắt viện trợ cho Việt Nam là
một trong những nguyên nhân tiếp theo làm cho sự căng thẳng
trong quan hệ Việt - Trung ngày càng gia tăng. Ngày 12-5-1978, Bộ
Ngoại giao Trung Quốc gửi Công hàm cho Đại sứ quán Việt Nam
ở Trung Quốc thông báo quyết định cắt 21 dự án ở Việt
Nam, với lý do là để chuyển các khoản tiền cùng vật chất
trong các dự án này cho người Hoa hồi hương sinh hoạt và lao
động sản xuất. Sau đó, Chính phủ Trung Quốc đã gửi Chính
phủ Việt Nam Công hàm ngày 30-5-1978 hủy bỏ thêm thêm 51 dự
án khác [19], cũng với lý do cách đối xử của Chính phủ
Việt Nam đối với người Hoa là gánh nặng tài chính cho Trung
Quốc, do Trung Quốc phải giải quyết vấn đề người Hoa nhập
vào Trung Quốc từ Việt Nam [20]. Chỉ trong tháng 5-1978, Trung
Quốc đã cắt 72 trong số 111 công trình viện trợ [21], gây cho
Việt Nam nhiều khó khăn trong lĩnh vực kinh tế. Ngày 3-7-1978,
Trung Quốc gửi thêm một công hàm nữa cho Chính phủ Việt Nam
thông báo chấm dứt mọi trợ giúp kinh tế, kỹ thuật [22] và
rút tất cả các chuyên gia Trung Quốc đang làm việc ở Việt
Nam về nước [23]. Ngày 22-12-1978, Trung Quốc đơn phương hủy
bỏ việc chuyên chở trên tuyến đường sắt liên vận từ Hà
Nội đến Bắc Kinh. Lý giải việc cắt toàn bộ viện trợ,
ngoài lý do vì "<em>gánh nặng rất lớn về tài chính của
Trung Quốc trong việc sắp xếp sản xuất và đời sống cho
nạn kiều</em>" [24], Trung Quốc còn đưa thêm lý do "<em>Việt
Nam ngày càng chống Trung Quốc, bài Hoa một cách nghiêm trọng,
phá hoại các điều kiện tối thiểu nhất để các chuyên gia
Trung Quốc tiếp tục công tác tại Việt Nam</em>" [25], nên
"<em>Chính phủ Trung Quốc mới buộc phải quyết định ngừng
viện trợ kinh tế, kỹ thuật cho Việt Nam, điều cán bộ Trung
Quốc ở Việt Nam về nước</em>" [26]. Cần lưu ý rằng, từ
chối viện trợ cho Việt Nam với lý do "<em>gánh nặng kinh tế
giải quyết vấn đề người Việt gốc Hoa</em>", nhưng trong
dịp Vương Thượng Vĩnh, Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội
Trung Quốc đến Phnôm Pênh đàm phán với Son Sen (2-1976), những
nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ký viện trợ quân sự cho Campuchia
một khoản tiền không hề nhỏ, trị giá 226 triệu nhân dân
tệ (tương đương 1,5 tỷ USD) trong ba năm (1976-1978) [27].
Cắt viện trợ cho Việt Nam vào thời điểm Việt Nam mới ra
khỏi khói lửa chiến trường, đang nỗ lực khắc phục hậu
quả chiến tranh, kiến thiết đất nước và gồng mình bảo
vệ tuyến biên giới Tây Nam, quả thật, Trung Quốc đã giáng
một "đòn chí tử" có tính toán vào nền kinh tế của Việt
Nam đang trong thời kỳ bấp bênh, khiến Việt Nam tiếp tục
phải đối mặt với những thử thách mới.
Cùng với việc đơn phương cắt bỏ mọi khoản viện trợ mà
hai bên đã ký kết, Trung Quốc hủy bỏ hiệp ước về lãnh
sự. Ngày 17-6-1978, Trung Quốc yêu cầu các lãnh sự quán Việt
Nam ở Côn Minh, Quảng Châu và Nam Ninh phải dời về nước. Quan
hệ Việt - Trung tiếp tục đi xuống một bước.
Đi kèm với vấn đề người Hoa,"câu chuyện Campuchia" tiếp
tục là một nhức nhối mới trong quan hệ Việt - Trung.
Ngay từ giữa những năm 60 (XX), các nhà lãnh đạo Trung Quốc
đã có kế hoạch nắm trọn vấn đề Campuchia, phục vụ mục
đích tạo vùng ảnh hưởng của mình tại khu vực Đông Nam Á,
sau khi nhận thấy "<em>những biểu hiện bướng bỉnh</em>"
của Việt Nam đi chệch quỹ đạo mà Trung Quốc muốn sắp
đặt. Từ năm 1973, Ban lãnh đạo Trung Quốc đã có chỉ thị:
"<em>Bề ngoài ta đối xử tốt với họ (Việt Nam - TG) như
đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần phải chuẩn
bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta</em>" [28]. Nói như nhà
báo Gareth Porter (tờ Dân tộc, New York), thì "Campuchia đóng vai
trò trung tâm trong chiến lược của Trung Quốc, nhằm bao vây
ảnh hưởng của Việt Nam tại Đông Nam Á" [29]. Thực hiện
kế hoạch nắm Campuchia, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho
Campuchia Dân chủ. Theo tính toán của nhà nghiên cứu D.R.SarDesai,
"<em>từ năm 1975-1978, Trung Quốc cung cấp cho Campuchia súng
đại bác, súng cối, súng bazoca, súng đại liên, súng trung
liên, vũ khí các loại, xe cộ và xăng đầu đầy đủ để
trang bị cho đội quân 200.000 người. Trung Quốc cũng viện trợ
cho Campuchia một khoản tiền rất lớn. Thêm vào đó, Trung Quốc
đã gửi khoảng 10.000 cố vấn và chuyên gia quân sự sang
Campuchia để hỗ trợ và rèn luyện quân đội Pôn Pốt</em>"
[30]. Nhà báo Marish Chandona[31] cung cấp một thông tin: Nếu tháng
7-1977, Campuchia chỉ có 6 sư đoàn, thì vào tháng 1-1978, Campuchia
có 25 sư đoàn, Trung Quốc đã cung cấp vũ khí để lập ra 19
sư đoàn mới trong ba năm [32].
Những năm 1975-1976, Trung Quốc vẫn còn muốn giữ quan hệ, duy
trì ảnh hưởng của mình tại Việt Nam, muốn Việt Nam đứng
về phía mình để chống Liên Xô, giảm ảnh hưởng của Liên
Xô tại Việt Nam và vùng Đông Nam Á; do vậy, Trung Quốc vẫn
đóng vai trò trung gian hoà giải khi những cuộc đụng độ quân
sự giữa Việt Nam và Campuchia mới bắt đầu diễn ra. Nhưng
từ đầu năm 1977 trở đi, khi quan hệ giữa Việt Nam và
Campuchia trở nên gay gắt, rồi dẫn đến tan vỡ ngoại giao vào
cuối năm 1977 và tiếp diễn chiến tranh trong năm 1978, quan hệ
Việt – Trung cũng chuyển sang một tình trạng xấu hơn, phức
tạp hơn, nhất là khi Trung Quốc ủng hộ cả chính trị, lẫn
quân sự cho chế độ Khơme Đỏ. Từ tháng 9 đến tháng 10-1977,
Pôn Pốt có chuyến thăm dài ngày tới Trung Quốc, nhằm thắt
chặt thêm quan hệ liên minh được thiết lập. Sau chuyến thăm
này, tháng 12-1977, Phó Thủ tướng Trung Quốc Uông Đông Hưng
đã tới thăm Campuchia và đi thị sát những vùng gần biên
giới Việt Nam. Tuyên bố của Phó Thủ tướng Uông Đông Hưng
cũng mạnh mẽ hơn và đầy hàm ý: "<em>Không một lực lượng
nào có thể đứng cản trở quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc
và Campuchia, hai nước sẽ là đồng chí với nhau mãi mãi</em>"
[33]. Tháng 3-1978, các kỹ sư Trung Quốc xây dựng lại đường
xe lửa Konpongthom - Phnôm Pênh và ở lại tại chỗ sau khi sửa
xong. Ngày 12-7-1978, lần đầu tiên, tờ Nhân dân Nhật báo - cơ
quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, công khai buộc
tội Việt Nam "<em>tìm cách sáp nhập Campuchia vào một Liên
bang Đông Dương dưới sự thống trị của Việt Nam</em>" [34].
Ngày 4-11-1978 (một ngày sau khi Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước có giá trị 25
năm), Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc Uông
Đông Hưng đi Phnôm Pênh để tỏ sự ủng hộ của Bắc Kinh
đối với chính sách của Campuchia [35]. Theo Cơ Bằng Phi, thì
đó là sự trả lời trực tiếp của Trung Quốc đối với
việc ký Hiệp ước Việt - Xô. Tháng 1-1979, Việt Nam đưa quân
vào Campuchia, lật đổ chế độ Pôn Pốt và đối với Trung
Quốc, "<em>việc không thể chấp nhận được đã thành sự
thật</em>" [36]. Một thời gian ngắn sau khi Phnompenh bị thất
thủ, tờ Nhân dân Nhật báo (27-1-1979) đã có bài viết, trong
đó chứa nhiều hàm ý: "<em>Sự thất thủ của Phnompenh không
có nghĩa là chiến tranh chấm dứt mà chỉ là khởi
đầu</em>". Nói một cách cụ thể hơn, đối với Trung Quốc,
"<em>vấn đề Campuchia đóng vai trò vật xúc tác để đẩy các
quan hệ với Việt Nam vượt quá một điểm không thể nào quay
trở lại được nữa</em>" [37].
Campuchia bị mất, Thái Lan trở nên một địa bàn quan trọng
để Trung Quốc có thể tiếp tục giúp đỡ cho Khơme Đỏ.
Tháng 1-1979, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Uỷ viên Bộ Chính
trị Gừng Giao cùng Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long khẩn
cấp sang Bangkok, hội đàm với Thủ tướng Thái Lan Kriangsak
tại căn cứ không quân Utapao. Thái Lan lúc này không còn giữ
thái độ trung lập nữa, đồng ý để Trung Quốc sử dụng
lãnh thổ của mình làm nơi tiếp tế cho Khơme Đỏ. Đồng
thời, trước sự vận động của Trung Quốc, sau hơn mười năm
vắng bóng trên chính trường, ông Hoàng Sihanouk xuất hiện,
đại diện cho Campuchia đọc diễn văn trước Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc, yêu cầu Đại hội đồng ra nghị quyết buộc
Việt Nam phải rút quân ra khỏi Campuchia [38].
Trong thời gian này, bên cạnh những khúc mắc như đã nói ở
trên, xung đột biên giới trên bộ và tranh chấp chủ quyền
trên biển Đông là một trong biểu hiện cụ thể, tập trung
nhất trạng thái bất bình thường trong quan hệ Việt - Trung,
nó đẩy quan hệ Việt - Trung rơi xuống nấc thấp nhất.
Với Trung Quốc, Việt Nam có đường biên giới đất liền dài
khoảng 1.406 km, từ ngã ba biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Lào
đến bờ biển vịnh Bắc Bộ (Quảng Ninh – Quảng Đông), đi
qua 7 tỉnh biên giới phía Việt Nam, tiếp giáp với hai tỉnh
phía Trung Quốc [39]. Đường biên giới đất liền Việt Nam -
Trung Quốc là đường biên giới thực tế lịch sử, đến
cuối thế kỷ XIX đã trở thành đường biên giới pháp lý
(được luật pháp quốc tế thừa nhận). Theo R.V.Pretcot thì
đây là "<em>một trong những biên giới được xác định tốt
nhất trong khu vực</em>" [40].
Từ giữa năm 1975, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc
trở nên căng thẳng do những hoạt động vũ trang từ phía Trung
Quốc. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng xấu đi với
những xung đột ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc tại khu
vực Cao Bằng - Lạng Sơn vào cuối năm 1976. Tháng 3-1977, Việt
Nam và Trung Quốc tiến hành đàm phán về vấn đề biên giới
Cao Lạng - Quảng Tây. Đoàn Việt Nam yêu cầu bàn biện pháp
chấm dứt các vụ vi phạm biên giới quốc gia và trở lại
đường biên giới lịch sử, trong khi đó, Đoàn Trung Quốc chỉ
đề nghị bàn biện pháp ngăn ngừa xung đột, giữ nguyên
trạng trong khi chờ Chính phủ hai nước đàm phán giải quyết
vấn đề biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ xâm phạm lãnh thổ,
vũ trang khiêu khích biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày
càng nghiêm trọng. Đặc biệt, từ tháng 7-1978, Trung Quốc đã
sử dụng hành động này phục vụ cho mục đích công khai và
chuẩn bị tạo cớ, gây cuộc tấn công dọc theo toàn tuyến
biên giới Việt Nam. Theo thống kê của Việt Nam, công bố trong
Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ngày 15-2-1979, số vụ xâm phạm vũ trang của
Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là 583 vụ, tháng 1 và
những tuần lễ đầu tháng 2-1979 tăng lên 230 vụ [41]. Cùng
với những hoạt động vũ trang trên vùng biên giới đất liền
với quy mô ngày càng rộng lớn, nhịp độ ngày càng tăng, Trung
Quốc còn cho máy bay chiến đấu xâm phạm vùng trời, cho tầu
thuyền xâm phạm vùng biển của Việt Nam. Trong năm 1978, đã cho
trên 100 lượt máy bay xâm phạm vùng trời và 481 lượt tầu
thuyền hoạt động khiêu khích trên vùng biển Việt Nam [42].
Trên biển Đông, vấn đề tranh chấp quan trọng nhất của Trung
Quốc đối với Việt Nam liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Ngày 10-9-1975, phía Trung Quốc gửi công hàm cho
Việt Nam Dân chủ cộng hòa khẳng định chủ quyền của Trung
Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và
Trường Sa-TG). Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc của Đoàn
đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam do Lê Duẩn dẫn đầu
vào tháng 9-1975, phía Việt Nam nêu vấn đề chủ quyền của
mình đối với hai quần đảo này. Trong cuộc gặp ngày
24-9-1975, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố
rằng, phía Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ để khẳng
định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay là
lãnh thổ Trung Quốc, nhưng cần theo nguyên tắc hiệp thương
hữu nghị để giải quyết bất đồng. Đặng Tiểu Bình cũng
bày tỏ rằng, sau này hai bên có thể thương lượng, bàn bạc.
Ngày 12-5-1977, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm và thềm lục
địa Việt Nam, bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, Trung Quốc đã phản ứng mạnh mẽ. Ngày 30-7-1977, Ngoại
trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa tuyên bố: "<em>Khi thời cơ đến
chúng ta sẽ thu hồi toàn bộ quần đảo Nam Sa (quần đảo
Trường Sa - TG) mà không cần phải thương lượng gì
hết</em>" [43].
Sau mỗi lần Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ và vũ trang khiêu
khích biên giới Việt Nam, Chính phủ Việt Nam, Bộ Ngoại giao
Việt Nam đã nhiều lần ra tuyên bố và gửi công hàm phản
đối tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
(còn tiếp)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140216/nguyen-thi-mai-hoa-mau-thuan-xung-dot-trong-quan-he-viet-trung-va-chien-tranh-bien),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét