Đào Tuấn - Chiến tranh trong mắt ai

<div class="boxleft300"><img
src="http://haydanhthoigian.files.wordpress.com/2014/02/bia-tran-ai-pha-long.jpg?w=300&h=225"
/><div class="textholder">Bia trấn ải bên đồn biên phòng Pha
Long.</div></div><strong>Chiến tranh như con rắn độc</strong>

Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5.3.1979, chiến tranh
vẫn liên miên ở Hà Giang, kéo dài suốt đến những năm 1988.
Nhưng tới giờ, chiến tranh, như con rắn độc, vẫn lẩn quất
đâu đó đối với ngay cả những người sinh ra sau cuộc
chiến.



<strong>Trở về từ Thung lũng Gọi hồn</strong>

Chúng tôi vòng vèo khắp Tam Nông đi tìm anh Lê Quang Thống, em
cô Luyến, để rồi, đứng sững ngay trước mặt là một
người đàn ông bé nhỏ, đen đúa và cáu bẩn trong bộ quần
áo công nhân nhem nhuốc. Trên đầu anh và ngay trên con mắt
trái, phủ một lớp mùn cưa, khi anh như chui ra từ đống bạch
đàn.

"Chú chưa hết giờ làm, nhưng hẵng cứ vào đây làm hớp
nước" – người đàn ông mới 48 tuổi nhưng "đã toan về
già" vì lam lũ, nói như càu nhàu, kéo ghế rót nước mời
chúng tôi.

Anh Thống "năm 87" là lính sư 314. "Đóng ở đâu hả? Nằm
chứ đóng gì. Pháo nó dập cho suốt ngày. Bảo nằm mà lại
dám đứng! Nằm chốt Vị Xuyên, Thung lũng Gọi hồn. Tại sao
là Thung lũng Gọi hồn á? Thì hi sinh nhiều quá thì gọi là
Thung lũng Gọi hồn chứ sao" – anh Thống trả lời như
"gẩy liên thanh AK". Ra đó là một người đàn ông vui tính.

Năm đó, anh Thống, như biết bao thế hệ thanh niên ở đất
nước này hăng hái lên đường tòng quân.

Sau mấy tháng "đủ để (bắn từ) tắc đọp sang tành
tành", những người lính trẻ được đưa tới địa danh nổi
tiếng của đất Vị Xuyên, Hà Giang là Hang Dơi, để rồi sau
đó, lên chốt.

3h sáng một ngày năm 1988, tổ tam tam của anh Thống đang
"nằm chốt" khu vực "tuyến hào Mùa xuân", dưới chân
"đài Z" thì pháo, cối Trung Quốc nã sang suốt 30 phút. Ngớt
tiếng pháo, bộ binh Trung Quốc theo kèn tiến lên chiếm chốt
để lấy đường đánh lên hang 70. Tổ tam tam của Thống sau khi
"cứ thong thả" nã hết cơ số đạn thì buộc phải rút. Và
ngay khi đó, anh dính mảnh đạn cối.

2 người đồng đội đã khiêng anh "rúc vào một khe đá".
Anh nằm đó tới 7h tối mới được vận tải cứu ra.

Một mảnh đạn cối đã cướp của anh một con mắt. Và
người lính ấy cũng để lại mảnh đất biên cương một quả
thận.

Cuộc chiến tranh biên giới hoàn toàn không hề ngừng lại sau
khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 5.3.1979.

Ở Vị Xuyên, Hà Tuyên, cuộc chiến kéo dài đến năm 1988 với
sự ác liệt lên cao điểm vào giai đoạn 1984-1985. Theo một
bức điện của hãng thông tấn RFA điện từ Bắc Kinh, năm
1985, trong số 1 triệu phát đạn pháo bắn trên toàn tuyến thì
riêng Vị Xuyên đã hứng 800.000 phát. Có những dải đồi bị
pháo Trung Quốc nã đến mức như nhuộm vôi, lở loét đến
nỗi không một cành cây ngọn cỏ nào có thể sống.

Cuộc sống của những người lính 314 năm đó là nằm giữ
chốt, hứng pháo, đánh nhau với "bọn sơn cước giày 3
đanh" và với cả "em Ngọc Ánh".

Ngày nào pháo Trung Quốc cũng bắn sang. Dăng ô khắp nơi. Pháo
đến mức nhàm tai. Kệ pháo, cứ nằm khểnh nhổ râu. Chỉ
đánh nhau khi có tiếng pháo "dọn đường" bởi sau đó bộ
binh Trung Quốc sẽ tràn lên chiếm chốt. Chỉ đến đêm, công
việc của người lính mới bắt đầu với một cái xẻng, để
đào hầm và khẩu AK, chống lại lính sơn cước giày 3 đanh.

"Em Ngọc Ánh là ai?" – Tôi hỏi anh.

À đó là "Hòm thư Ngọc Ánh", là chương trình phát thanh
tâm lý của Trung Quốc. Cứ 19h, loa bằng cái giường từ trên
đỉnh phát xuống. Nào là về với vợ con đi. Nào là "Xuân
này con không về". Lải nhải suốt đêm: "Chị đã nhìn
thấy hầm em đào. Đừng có ở đó, chị bắn đấy". Xen
giữa màn tra tấn tâm lý, là pháo cối và lính "giày 3 đanh"
âm thầm đột nhập, chứ đâu có thể thư giãn với âm nhạc.

Một bóng đen thoáng qua vầng trán người lính. Nó bắn trúng
hầm thật. Vừa nói nhìn thấy mình đào hầm tối trước, tới
7h sáng, 2 quả pháo giáng đúng hầm nóc hầm của C2.

Giọng nói người lính chốt năm xưa trở nên xa xăm. Đại
đội anh hơn 60 đã hy sinh 14 người sau chỉ 2 trận đánh.

Còn anh, trở về như một người anh hùng khi một con mắt và
một trái thận đã gửi lại nơi biên viễn.

<strong>Những bàn tay chai nối những… bàn chân</strong>

Công việc của những người lính Vị Xuyên năm ấy là đào
hầm tránh pháo, những căn hầm xuyên vào đá núi. Bàn tay "có
thể dùng làm thớt", chai sạn đến nỗi không thể bật máu
được nữa.

Nhưng bàn tay người anh hùng trở về năm ấy vẫn chưa thôi
chai sạn.

Lê Quang Thống trở về với "thước ngắm đít trâu". 3
đứa con đi học với đồng tiền thương binh 2/4 chính xác là 2
triệu lẻ 70 ngàn, khiến cuộc sống vô vàn chật vật.

Cuộc sống của anh là chuỗi dài mưu sinh. Sáng: Ra ruộng.
Chiều, làm tất cả những gì có ai đó thuê mướn. Và "bảo
vệ nhà trẻ" để mỗi tháng có thêm 1 triệu đồng.

Bữa tôi gặp, anh đang đi bóc vỏ cây thuê. 120 ngàn một ngày.
"Có việc như thế này, vất vả tí chút, nhưng có việc là
may lắm rồi, bù cho những ngày ngồi nhà nhổ râu vặt".



Cái mừng, con mắt còn lại của người lính năm xưa rực
sáng, là cả 3 đứa con đều học đại học.

Tháng 2 năm nay, trên những địa danh đẫm máu năm xưa Làng
Lò, Hang Dơi, Thung lũng Gọi hồn, đồi Cô Ích, Cốc Nghè, 4
hầm, điểm cao 1509… hoa đào đượm sắc trong giá lạnh.

Cách Thung lũng Gọi hồn, Vị Xuyên không xa có một ngôi nhà
gỗ nhỏ của Hầu Xào Chung.

Chàng trai người Mông sinh năm 1981 ở bản Hoàng Lỳ Pả chưa
từng biết, chẳng từng nghe chút gì về cuộc chiến tranh từng
ác liệt ngay trên dãy núi sau nhà. Cho đến cách đây 4 năm.

Hôm đó, Hầu Xào Chung đi nương trên Sì Khà Láng, dưới chân
cao điểm 1030 thủa nào. "Mình đi bình thường thôi" – lời
Chung. Đang đi thì mìn phát nổ. Một quả mìn còn lại từ
những năm 79-88 đã khiến bàn chân Chung nát bấy.

Anh chỉ nhớ là đã phải bò lê trên đất, nước mắt giàn
giụa trong đau đớn và lấy hết hơi tàn để thi thoảng lào
khào vài tiếng kêu cứu. Chân Chung sau đó phải cắt ngang ống
đồng. Giờ đây, anh quấn nó trong giẻ, nhét vào một chiếc
ống bương để lọc cọc lê lết đi lại trên đá…

<a sl-processed="1"
href="http://haydanhthoigian.files.wordpress.com/2014/02/hau-xao-chung.jpg"><img
src="http://haydanhthoigian.files.wordpress.com/2014/02/hau-xao-chung.jpg?w=600&amp;h=448"
width="600"></a>
<center><em>Đối với Hầu Xào Chung, chiến tranh là hiện hữu
nguy cơ khiến người ta không còn nguyên vẹn trở về với tổ
tiên</em></center>

Chỉ riêng một thôn Hoàng Lỳ Pả đã có 6 người cụt chân do
dẫm phải mìn. "Mìn ở đây còn nhiều lắm, dân đi chẳng
dám rẽ ngang rẽ tắt – một cán bộ địa phương phàn nàn,
thì đấy, hồi sư 316 lên dò mìn, ngay ở trong một cái khe đã
phát hiện tới 40 quả mìn dưới tán một cái cây".

3 hôm sau, Chung nhờ người anh lên Sì Khà Láng tìm lại bàn
chân chết và nong nó lên gác bếp, để sau này, khi về với
ông bà tổ tiên, có thể mang bàn chân hoàn nhập cùng thân xác.

Giờ đây, hàng ngày, Chung cùng với những người anh em của
mình vẫn đi rừng. Anh không nói, nhưng chúng tôi biết rằng
nghề chính của anh là làm thớt nghiến. Chẳng phải sau lưng
anh, ngay dưới dãy núi răng cưa, với những cao điểm lừng danh
1030, một con đường mòn như sợi chỉ vắt sang bên kia biên
giới con đường thớt nghiến sang Trung Quốc.

Nhớ hôm ngồi với một "ông Hội đồng" vừa đi tiếp xúc
cử tri về tay nới… cà vạt miệng oang oang: Tiếp xúc cử tri
ở bản, người dân chỉ "mong muốn kiến nghị" xã cho một
cái nồi 3 chảy (nồi nấu 3 bò gạo), một cái chảo gang và 2
bộ ly. Chảo thì để nấu…thịt trâu rồi. Nhưng ly để làm
gì. Vị hội đồng cười: Ly để… nào, làm một ly đi anh.

Cái tâm thế người Mông vùng cao Hà Giang chỉ đơn giản là
phải mạo hiểm vì miếng cơm, ly rượu. Chung không phải là
người hiện sinh chủ nghĩa như Hữu Loan với "Màu tím hoa
sim", cho nên đừng ai hỏi anh về chiến tranh. Chỉ đơn giản,
chiến tranh là mìn Tàu.

Với Chung, với không ít những người dân ở Hoàng Lỳ Pả,
ở Mã Hoàng Phìn, chiến tranh là hiện hữu nguy cơ biến người
ta thành "chấm phẩy", không còn được nguyên vẹn để về
với tổ tiên.

<strong>Gió lạnh buồng đào</strong>

Có một bó hoa cúc vàng rực rỡ được đặt lên kệ thờ
trong nhà bà giáo về hưu Lê Thị Luyến ở Tiến Thịnh, Tam
Nông, Phú Thọ vào ngày 14.2.2014. Đó không phải là những đóa
hoa Valentine. Chỉ là từ 35 năm nay, vào mỗi tháng 2, bà lại
đặt lên ban thờ chồng một lọ hoa cúc vàng.

Lúc đó là 11h30 phút trưa 17.2.1979, sau một buổi sáng lên
lớp với "sự bồn chồn như là linh tính", cô giáo Luyến,
trở về căn lán nhỏ trong khu tập thể giáo viên ở Tân Lập,
Phú Thọ. Phòng tranh, vách nứa vọc vạch. Và bản tin chiến
sự trên Đài tiếng nói Việt Nam từ bên phòng hiệu trưởng
vọng sang. Bắt đầu bằng cái tin "như thanh gươm đâm suốt
qua tim": Trung úy Phạm Văn Vụ – Đồn phó đồn 131, Công an
vũ trang Mường Khương đã anh dũng hy sinh.

<strong>Duyên hảo cầu sao bỗng dở dang</strong>

Cô giáo Luyến, năm đó mới 23, chỉ nhìn thấy lờ mờ trước
mắt khuôn mặt âu lo hốt hoảng của những người đồng
nghiệp vừa ùa sang. Ai cũng nói có thể có sự nhầm lẫn.
Nhưng đó là linh cảm. Nhưng cô biết đó là sự thật. Cô
ngất lịm trong tay bạn bè đồng nghiệp.

Nỗi đau của người vợ trẻ không có câu chữ nào có thể
tả nổi.

35 năm sau, ký ức buổi trưa và bản tin sét đánh hôm ấy vẫn
tràn trụa trong những hàng nước mắt người già. Những hàng
nước mắt mờ đục bởi thời gian và đau thương mà có lẽ 35
hay bao nhiêu năm cũng không thể gắn hàn.

Họ yêu nhau 4 năm sau một lần anh về phép. Hòm thư của anh
ấy đến giờ cô vẫn nhớ: Hòm thư 8268 Hoàng Liên Sơn. Năm
đó, anh mới 27, còn cô vừa 23.

Bữa cưới nhau ngồi chờ bên bến đò Hưng Hóa, ai cũng nói
họ đẹp đôi nhất vùng.

Bữa cưới nhau, lễ cưới của một cô giáo hậu phương với
anh bộ đội nơi tuyến đầu biên giới, ai chúc cũng nói đến
"trăm năm hạnh phúc".

Bữa cưới nhau, họ như hai đứa trẻ, thẹn thùng trong tấm
chăn hoa cà bông đỏ.

Chưa tới 10 hôm thì anh nhận điện trở về đơn vị. Cô còn
nhớ như in rằng: Người cha, khi ấy còn động viên con lên
đơn vị càng nhanh càng tốt. Và hàng chục năm sau ông vẫn băn
khoăn về lời động viên ấy, dù với ông, đã là lính thì
không thể có sự lựa chọn nào khác. Đã là người lính thì
không thể để tình riêng xen lẫn vào việc công.

Hôm chia tay, anh chở cô trên chiếc xe đạp, 60km, đưa cô lên
trường ở Tân Lập, nắm tay cô bảo rằng: Khi nào anh về phép
sẽ từ đơn vị về thẳng trường đón em. Anh còn nói mình có
con, trai sẽ tên là Việt, gái sẽ gọi là Phương.

Thế rồi, anh ra đi và không bao giờ trở về nữa.

Anh bắn đến viên đạn cuối cùng. Và khi anh dũng hy sinh, trên
tay vẫn còn một quả lựu đạn chưa kịp mở chốt. Cô không
quên. Đó là Tả Ngải Chồ. Là Mường Khương. Là Lào Cai. Và
là một đâu đó trên mảnh đất Việt.

Cuộc chiến nào thì đau thương nhất vẫn chỉ là những
người phụ nữ. Những bà mẹ mất con. Những người vợ mất
chồng. Cô giáo Luyến có chưa tới 10 ngày hạnh phúc để đau
khổ suốt 10 năm sau đó.

<a sl-processed="1"
href="http://haydanhthoigian.files.wordpress.com/2014/02/chien-tranh.jpg"><img
src="http://haydanhthoigian.files.wordpress.com/2014/02/chien-tranh.jpg?w=600&amp;h=400"
width="600"></a>
<em><center>Thời bình của một người lính trở về sau cuộc
chiến tranh biên giới</center></em>

<em>"Gió lạnh buồng đào, rơi cầm nẩy sắt;</em>

<em>Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương".</em>

Phải chăng là Ngọc Hân công chúa đã một lần nói hộ nỗi
lòng những người phụ nữ mất chồng đêm đêm xoạt xoạt
trở mình tự hỏi "Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo
cầu sao bỗng dở dang?".

"Có lẽ cô quá yêu chú. Cô quá nặng tình" – cô giáo,
giờ phải gọi là bà, giấu khuôn mặt trong tay áo.

10 năm sau đó, không đêm nào cô không nhớ tới người chồng.

Cô lao vào công việc, đi giáo viên màng lưới khắp những
vùng xa khó nhất. 10 năm không còn một người đàn ông nào
khác trong mắt người vợ mất chồng. 10 năm, cô nhận nuôi
thằng út của chị gái, thằng Nghĩa Tồ, để anh rể, một
người lính khác, yên tâm cầm súng ở Yên Minh, Hà Giang.

<strong>Nỗi cô đơn 35 năm</strong>

10 năm yên phận thờ chồng, mãi đến năm 1989, khi thằng Nghĩa
Tồ đủ lớn khôn để quyết trở về với mẹ, cô giáo
Luyến, một lần nữa khóc hết nước mắt trước nỗi cô
đơn, "tứ phía chỉ toàn tường là tường, chăn đắp thế
nào cũng thấy lạnh lưng".

"Giống như y là định mệnh" – cô giáo Luyến thoáng như
là thở dài. Trước hôm cưới, trên mu bàn tay người yêu có
một vết thương nhỏ. Cô lấy nước muối rửa cho anh hỏi
rằng bị sao. Anh mỉm cười hỏi lại "Nếu anh bị thương
cụt chân cụt tay thì em còn yêu thương anh nữa không". Cô
bấy giờ không trả lời, đưa tay lên bịt miệng anh.

Run rủi thế nào đó, sau 10 năm thờ chồng, cô mới lại tìm
thấy sự thông cảm. Và nói thế nào nhỉ. Người chồng mới
Trần Xuân Lập, khi ấy là một thương binh hạng 1/4 (hạng
nặng nhất) với đôi chân bị liệt hoàn toàn, cũng trên biên
giới phía Bắc, cũng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc
vĩ đại của dân tộc.

Bữa chúng tôi ghé thăm, chú Lập không có nhà. Vết thương
chiến tranh từ năm 1981 và cuộc sống gần như bất động trên
xe lăn đã sinh ra biết bao nhiêu căn bệnh, khiến người anh
hùng ngày đó giờ sống gần như cả năm trên Khu điều dưỡng
thương binh cách xa nhà không chỉ là khoảng cách vài chục cây
số. 2 người có với nhau một con gái, đặt tên Phương (!!!)
và đương đi học xa nhà.

Cô quạnh quá. Cô giáo Luyến ngồi tách những hạt ngô đỏ
bầm như máu, mắt nhìn ra xa xăm trong căn nhà trống huơ trống
hoách. Giờ có những nỗi lo khác. Lo con gái sẽ lấy chồng xa
quê. "Nó đã có bạn trai ở tận trong Thanh Hóa". Lo không xin
được việc cho con gần nhà. Nỗi lo của một người phụ nữ
đã cả đời cô đơn.

Liệu có ở nơi đâu trên trái đất này có những người phụ
nữ mòn mỏi trong chờ đợi. Đợi tin người một cha chiến
sĩ; Một người chồng liệt sĩ hy sinh trong ngày 17.2.1979; Một
người chồng là thương binh mặt trận Hà Tuyên; Người em, có
giấy báo đỗ đại học Tổng hợp văn, xin gác bút lên
đường ra biên giới. Và một đứa em nữa trở về từ mặt
trận Vị Xuyên năm 1988 sau khi đã gửi lại mảnh đất địa
đầu một quả thận và một con mắt.

Chiến tranh. Phải. Chiến tranh là gì, ở đâu đó. Chính chiến
tranh, chứ không phải số phận, đã khiến vô số những
người phụ nữ Việt Nam sống cả cuộc đời trong mất mát,
trong nỗi khắc khoải của sự cô đơn.

<strong>Gặp lại tác giả "Tiếng súng đã vang trên bầu trời
biên giới"</strong>

Chiến tranh có thể là sự ác liệt nhưng hào hùng với đạn
rơi máu đổ của những chiến binh chốn sa trường. Chiến
tranh, cô đơn và mất mát ngay trong cái dáng ngồi dựa cửa
của người thiếu phụ chờ chồng. Chiến tranh, cũng có thể
là sự ngơ ngác của một người dân thời bình bỗng một ngày
trở thành phế nhân.

<a sl-processed="1"
href="http://haydanhthoigian.files.wordpress.com/2014/02/pham-tuyen.jpg"><img
src="http://haydanhthoigian.files.wordpress.com/2014/02/pham-tuyen.jpg?w=600&amp;h=450"
width="600"></a>
<center><em>Nhạc sĩ Phạm Tuyên: Lịch sử muôn đời duyệt lại/
Không ai lừa được cuộc đời.</em></center>

Và chiến tranh, chẳng có gì quá lời khi nói đó là cảm giác
hào hùng và tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đã có
sẵn trong dòng máu Lạc Việt từ cả ngàn năm nay.

Có một nhạc sĩ, đã 35 năm qua, vẫn nhớ như in cái cảm
giác hào hùng năm ấy. Ông là Phạm Tuyên, tác giả của
"Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới".

Năm 1979, nhạc sĩ Phạm Tuyên đang phụ trách âm nhạc Đài
Tiếng nói Việt Nam. "Không khí biên giới hồi đó đã rất
căng thẳng – ông nhớ lại – Đụng độ từ trước đó mấy
năm". Trước đó, ông đã đi thực tế để viết bài hát
"Chúng tôi là đồng đội của Lê Đinh Chinh", nói về tấm
gương hy sinh của người liệt sĩ đầu tiên ngã xuống trên
biên giới phía Bắc.

Tối 17.2.1979, người nhạc sĩ đã ngồi lặng đi khi nghe tin
quân xâm lược Trung Quốc đã tràn qua biên giới. Bản tin nói
rất rõ lời lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình
bảo phải dạy cho Việt Nam một bài học. Đó là sự căm
phẫn. Và đó cũng là cảm giác hào hùng. Mấy ngàn năm nay,
đất Việt đâu cũng có Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa.

"Tôi viết rất nhanh. Ngay trong đêm 17. Trong ngày 18, bài hát
"Chiến đấu vì độc lập tự do" với câu mở đầu
"Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới" được Đài
Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Ngày 20.9.1979, tức là 4 ngày kể
từ khi quân xâm lược thêm một lần nữa giày xéo mảnh đất
này, bài hát được phát trên làn sóng Đài tiếng nói Việt
Nam.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên nhớ lại cái "cảm giác phát khóc" khi
những người dân, những anh cán bộ, những người lính ở Tây
Nguyên, ở Khu 5 nhắn với ông rằng họ ước sao có đôi cánh
để bay ngay ra biên giới phía Bắc chống quân xâm lược.

Đất nước này ngàn năm trước Sát Thát và ngàn năm sau cũng
vẫn là như vậy thôi. Cảm tử cho tổ quốc là tinh thần đã
chảy sẵn trong huyết quản người Việt rồi.

Bài hát "Chiến đấu vì độc lập tự do" ban đầu được
viết dưới dạng hành khúc, hào hùng tinh thần chống giặc
ngoại xâm bất khuất với những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống
Đa có trong ca từ. Nhưng đến đoạn điệp khúc, đáng ra phải
là một giai điệu mang âm hưởng hào hùng, nhưng Phạm Tuyên
nói ông không thể viết được thế.

"Đến đoạn điệp khúc, tôi nhớ đến đất nước Việt Nam
bao đau thương vừa trải qua cuộc chiến tranh dài với hy sinh,
mất mát. Bao nhiêu xương máu của cha ông, của lớp lớp các
thế hệ người Việt đã đổ xuống để bảo vệ mảnh đất
này. Chẳng phải là lịch sử đã trao cho Người sứ mệnh bảo
vệ tổ quốc đó sao".

Còn câu kết của bài hát: "Vì một lẽ sống cao đẹp cho
mọi người: Độc lập – Tự do", nhạc sĩ Phạm Tuyên nói
ông dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và chăng, độc
lập, tự do cũng là khát vọng ngàn đời của người dân
Việt.

Phạm Tuyên sau đó đi Quảng Ninh viết "Có một đóa Hồng
Chiêm" để ca ngợi người nữ liệt sĩ Hoàng Thị Hồng Chiêm
đã hy sinh oanh liệt trên đỉnh Pò Hèn. Bản nhạc được đăng
trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 13.7.1979, với câu mở đầu
"Có những đóa hoa dịu dàng không rực rỡ/ nhưng sắc hương
thắm mãi chẳng hề phai… Đồi Pò Hèn nở đẹp một đóa
hoa".

Vào ngày 5.3, khi Chủ tịch nước ra lệnh Tổng động viên,
nhạc sĩ viết bài hát nổi tiếng "Tiễn thầy giáo đi bộ
đội", từ một câu chuyện có thật khi những người thầy
tạm rời bục giảng, những sinh viên gác bút nghiên nắm chắc
cây súng trước hiểm họa xâm lăng.

35 năm qua, âm hưởng "những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống
Đa" vẫn luôn vang vọng.
<em>
Theo Lao Động</em>




***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140217/dao-tuan-chien-tranh-trong-mat-ai),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét