Giới thiệu Công ước Chống Tra Tấn (CAT, 1984)

<em>Công ước chống tra tấn (tên đầy đủ là Công ước
chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục - CAT, 1984) có hiệu lực từ
ngày 26/6/1987.</em>

Công ước có các nội dung cơ bản như sau:

• Điều 1 đến 16 (Phần I): các điều khoản nội dung quy
định các nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước cần áp
dụng trong pháp luật quốc gia. Đây là những nội dung quan
trọng nhất của Công ước.

• Điều 17 đến 24 (Phần II): thẩm quyền và các phương thức
hoạt động của Ủy ban chống tra tấn, cơ quan chịu trách
nhiệm giám sát việc thực thi Công ước (thông qua việc xem xét
báo cáo định kỳ của các quốc gia, nhận khiếu nại của các
nạn nhân tra tấn, điều tra tình hình thực tế...)

• Điều 25 đến 33 (Phần III): các khía cạnh kỹ thuật về
ký kết, phê chuẩn Công ước, thủ tục sửa đổi, việc bảo
lưu Công ước.

Cụ thể hơn, các điều khoản trong Phần I (chủ yếu là các
nghĩa vụ quốc gia) có nội dung cơ bản như sau:

• Điều 1: nêu một định nghĩa "tra tấn", vì mục đích của
Công ước. Mặc dù dựa trên Tuyên ngôn, định nghĩa của Công
ước đã có những thay đổi so với Tuyên ngôn.

• Điều 2: nghĩa vụ thực thi các biện pháp lập pháp, hành
chính và tư pháp hiệu quả và các biện pháp khác để ngăn
chặn hành vi tra tấn; khẳng định tính tuyệt đối của chống
tra tấn trong mọi hoàn cảnh.

• Điều 3: nghĩa vụ không được trục xuất, trả về một
quốc gia có nguy cơ sử dụng tra tấn.

• Điều 4: nghĩa vụ bảo đảm pháp luật hình sự quy định
các tội phạm về tra tấn (nghĩa vụ "hình sự hóa").

• Điều 5: nghĩa vụ xác lập thẩm quyền pháp lý phổ quát,
truy tố hoặc dẫn độ thủ phạm của tra tấn để truy cứu
tại quốc gia khác.

• Điều 6: giam giữ, điều tra ban đầu, thông báo.

• Điều 7: nghĩa vụ khởi tố hoặc dẫn độ thủ phạm, thu
thập chứng cứ, bảo đảm quyền xét xử công bằng.

• Điều 8: coi tra tấn là một tội phạm có thể dẫn độ,
căn cứ pháp lý của Công ước

• Điều 9: nghĩa vụ của các quốc gia hỗ trợ nhau trong thủ
tục tố tụng hình sự liên quan đến tra tấn.

• Điều 10: nghĩa vụ phổ biến thông tin về cấm tra tấn,
đào tạo cho các lực lượng thực thi pháp luật và những
người khác về lĩnh vực này.

• Điều 11: nghĩa vụ thường xuyên rà soát các quy định về
thẩm vấn, giam giữ nhằm chống lại tra tấn.

• Điều 12: bảo đảm điều tra nhanh chóng và khách quan các
hành vi tra tấn đã xảy ra.

• Điều 13 - 14: nạn nhân của tra tấn được bảo đảm
khiếu nại được giải quyết, bảo vệ và được bồi
thường.

• Điều 15: lời khai có được nhờ tra tấn không được sử
dụng.

• Điều 16: nghĩa vụ ngăn chặn nhân viên công quyền thực
hiện hoặc đồng lõa với các hành vi đối xử tàn ác, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục khác.

<center>* * *</center>

<h1>CÔNG ƯỚC CHỐNG TRA TẤN VÀ CÁC HÌNH THỨC TRỪNG PHẠT HAY
ĐỐI XỬ TÀN ÁC, VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC HẠ NHỤC, 1984</h1>

<strong><em>(Được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 10/12/1984 theo Nghị quyết 39/46. Có hiệu lực từ ngày
26/6/1987, theo Điều 27(1)).</em></strong>

<em>Các Quốc gia thành viên Công ước này,</em>

<em>Xét rằng, theo những nguyên tắc được tuyên bố trong Hiến
chương Liên Hợp Quốc, việc công nhận các quyền bình đẳng
và không thể chuyển nhượng của mọi thành viên trong gia đình
nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình trên
thế giới,</em>

<em>Thừa nhận rằng, những quyền đó xuất phát từ nhân phẩm
vốn có của con người,</em>

<em>Xét nghĩa vụ của các quốc gia theo Hiến chương, cụ thể
theo Điều 55, là thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung
các quyền và tự do cơ bản của con người,</em>

<em>Xét Điều 5 của Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con
người và Điều 7 của Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị, trong đó cả hai điều đều quy định rằng,
không ai phải chịu tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.</em>

<em>Cũng xét đến Tuyên bố về bảo vệ mọi người không bị
tra tấn, đối xử hay hình phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc
hạ thấp nhân phẩm, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua ngày 9/12/1975,</em>

<em>Mong muốn cuộc đấu tranh chống tra tấn và đối xử hay
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm
được hiệu quả hơn,</em>

Đã thoả thuận như sau:

<strong>PHẦN I</strong>

<strong>Điều 1. </strong>

1. Theo mục đích của Công ước này, thuật ngữ "tra tấn"
có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ
đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì
những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ
người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt
người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba
thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ
hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ
một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới
mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và khổ đau đó do một công
chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức
gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của
một công chức. Khái niệm tra tấn không bao gồm những đau
đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có
liên quan đến, các biện pháp trừng phạt hợp pháp.

2. Quy định trong điều này không làm phương hại tới bất kỳ
văn kiện quốc tế hay pháp luật quốc gia nào có hay có thể
có các điều khoản có mức độ áp dụng rộng rãi hơn.

<strong>Điều 2.</strong>

1. Mỗi Quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp lập
pháp, hành pháp, tư pháp, hoặc các biện pháp hiệu quả khác
để ngăn chặn các hành vi tra tấn trên bất cứ khu vực lãnh
thổ nào thuộc quyền tài phán của mình.

2. Không có bất kỳ hoàn cảnh ngoại lệ nào, cho dù là trong
tình trạng chiến tranh, hoặc đang bị đe doạ bởi chiến tranh,
mất ổn định chính trị trong nước hoặc bất kỳ tình trạng
khẩn cấp nào có thể được viện dẫn để biện minh cho
việc tra tấn.

3. Mệnh lệnh của quan chức hay của cơ quan có thẩm quyền
cấp trên không thể được viện dẫn để biện minh cho việc
tra tấn.

<strong>Điều 3.</strong>

1. Không một Quốc gia thành viên nào được trục xuất, hay
trả về hoặc dẫn độ một người cho một quốc gia khác, nơi
có nhiều lý do thực tế để tin rằng người đó có nguy cơ
bị tra tấn.

2. Để xác định xem có những lý do đó hay không, các nhà
chức trách có thẩm quyền phải xem xét mọi yếu tố có liên
quan, bao gồm sự tồn tại của một mô hình vi phạm các quyền
con người một cách thô bạo, trắng trợn và phổ biến ở
quốc gia liên quan, nếu có.

<strong>Điều 4.</strong>

1. Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng mọi hành vi
tra tấn đều cấu thành tội phạm theo luật hình sự của
nước mình. Điều này cũng áp dụng với những hành vi cố
gắng thực hiện việc tra tấn hoặc hành vi của bất kỳ
người nào đồng loã hoặc tham gia việc tra tấn.

2. Mỗi Quốc gia thành viên phải trừng trị những tội phạm
này bằng những hình phạt thích đáng tương ứng với tính
chất nghiêm trọng của chúng.

<strong>Điều 5.</strong>

1. Mỗi Quốc gia thành viên phải tiến hành những biện pháp
cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với những hành
vi phạm tội nêu ở Điều 4, trong các trường hợp sau:

a. Khi hành vi phạm tội được thực hiện trên bất kỳ vùng
lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của quốc gia hay trên tàu
thủy hoặc máy bay đăng ký ở quốc gia đó.

b. Khi người bị tình nghi phạm tội là công dân của quốc gia
đó.

c. Khi nạn nhân là công dân của quốc gia đó nếu quốc gia đó
thấy thích đáng.

2. Mỗi Quốc gia thành viên cũng phải tiến hành những biện
pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán của mình đối
với những hành vi phạm tội này trong trường hợp người bị
tình nghi phạm tội đang có mặt ở bất kỳ vùng lãnh thổ nào
thuộc quyền tài phán của mình và quốc gia đó không dẫn độ
người bị tình nghi theo Điều 8 đến bất kỳ quốc gia nào
nói ở khoản 1 điều này.

3. Công ước này không loại trừ bất kỳ quyền tài phán hình
sự nào được thực thi theo pháp luật quốc gia.

<strong>Điều 6.</strong>

1. Sau khi kiểm tra thông tin có được, nếu thấy rằng hoàn
cảnh yêu cầu, bất kỳ Quốc gia thành viên nào mà trên lãnh
thổ của mình người bị nghi là đã thực hiện hành vi phạm
tội nêu tại Điều 4 đang có mặt, phải bắt giam người đó
hoặc tiến hành những biện pháp pháp lý khác để bảo đảm
sự hiện diện của người đó. Việc giam giữ và các biện
pháp pháp lý khác phải tuân theo các quy định pháp luật của
quốc gia đó nhưng chỉ có thể được duy trì trong một thời
gian cần thiết để tiến hành bất kỳ thủ tục tố tụng hay
dẫn độ nào.

2. Quốc gia nêu trên phải tiến hành ngay viềc điều tra sơ bộ
sự việc.

3. Bất kỳ ai bị giam giữ theo khoản 1 điều này phải được
giúp đỡ liên hệ ngay với đại diện thích hợp gần nhất
của quốc gia mà người đó là công dân, hoặc, nếu người
đó là người không quốc tịch, với đại diện của quốc gia
nơi người đó thường trú.

4. Khi một quốc gia bắt giữ một người theo quy định tại
điều này, quốc gia đó phải thông báo ngay cho quốc gia nói
tại khoản 1 Điều 5 về việc người đó bị bắt giữ, và
hoàn cảnh đòi hỏi phải bắt giữ người đó. Quốc gia tiến
hành điều tra sơ bộ nói ở khoản 2 điều này phải nhanh
chóng thông báo kết quả điều tra của mình cho các quốc gia
nói trên và cho biết có dự định thực thi quyền tài phán hay
không.

<strong>Điều 7.</strong>

1. Quốc gia mà trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình
phát hiện người được cho là đã thực hiện hành vi phạm
tội nêu tại Điều 4, sẽ phải chuyển vụ việc lên cơ quan
thẩm quyền của quốc gia đó để truy tố, trong các trường
hợp nêu tại Điều 5, nếu quốc gia đó không dẫn độ người
bị tình nghi.

2. Những cơ quan thẩm quyền này phải quyết định tương tự
như trường hợp của bất kỳ hành vi phạm tội thông thường
nào có tính chất nghiêm trọng theo pháp luật của quốc gia
đó. Trong các trường hợp nói ở khoản 2 Điều 5, tiêu chuẩn
về chứng cứ cần thiết để truy tố và kết tội phải không
kém nghiêm ngặt hơn những tiêu chuẩn áp dụng cho các trường
hợp nói tại khoản 1 Điều 5.

3. Bất kỳ người nào đang là đối tượng của quá trình tố
tụng vì bất kỳ hành vi phạm tội nào nói tại Điều 4 phải
được bảo đảm đối xử công bằng trong mọi giai đoạn tố
tụng.

<strong>Điều 8.</strong>

1. Những hành vi phạm tội nói tại Điều 4 phải được coi là
các tội có thể dẫn độ theo bất kỳ điều ước quốc tế
về dẫn độ nào nếu có giữa các Quốc gia thành viên. Các
Quốc gia thành viên cam kết đưa những hành vi phạm tội này
vào danh mục các tội có thể dẫn độ trong các điều ước
quốc tế về dẫn độ sẽ được ký kết giữa họ với nhau.

2. Nếu một Quốc gia thành viên chỉ cho phép dẫn độ khi có
điều ước quốc tế về dẫn độ mà nhận được yêu cầu
dẫn độ của một Quốc gia thành viên khác không có điều
ước quốc tế về dẫn độ với mình thì quốc gia đó có
thể coi Công ước này là cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ
đối với những hành vi phạm tội này. Việc dẫn độ sẽ
phải tuân thủ những điều kiện khác do pháp luật của quốc
gia được yêu cầu dẫn độ quy định.

3. Các Quốc gia thành viên không đặt điều kiện dẫn độ
bằng việc có điều ước quốc tế về dẫn độ phải công
nhận những hành vi phạm tội này là tội có thể dẫn độ
giữa họ với nhau, theo những điều kiện do pháp luật của
quốc gia được yêu cầu dẫn độ quy định.

4. Những hành vi phạm tội này phải được xử lý, vì mục
đích dẫn độ giữa các Quốc gia thành viên, như thể chúng
được thực hiện không chỉ tại nơi xảy ra tội phạm, mà
cả trên lãnh thổ của các quốc gia được yêu cầu xác lập
quyền tài phán của mình theo khoản 1 Điều 5.

<strong>Điều 9.</strong>

1. Các Quốc gia thành viên phải hỗ trợ lẫn nhau một cách
tối đa về các thủ tục tố tụng hình sự áp dụng đối
với những hành vi phạm tội nói tại Điều 4, kể cả việc
cung cấp bằng chứng cần thiết mà họ có được cho việc
tiến hành tố tụng.

2. Các Quốc gia thành viên phải thực hiện nghĩa vụ của mình
theo khoản 1 điều này phù hợp với bất kỳ điều ước quốc
tế nào về tương trợ tư pháp có thể có giữa các quốc gia
này.

<strong>Điều 10.</strong>

1. Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng giáo dục và
tuyên truyền về nghiêm cấm hành động tra tấn được đưa
đầy đủ vào chương trình đào tạo các quan chức thực thi
pháp luật, các nhân viên dân sự, quân sự, y tế, công chức
và những người khác mà có thể liên quan đến việc giam giữ,
thẩm vấn hoặc đối xử với bất kỳ cá nhân nào bị bắt,
giam giữ hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào.

2. Mỗi Quốc gia thành viên phải đưa việc nghiêm cấm này vào
các quy tắc hoặc hướng dẫn được ban hành về nhiệm vụ và
chức năng của tất cả những đối tượng kể trên.

<strong>Điều 11. </strong>

Mỗi Quốc gia thành viên phải rà soát một cách có hệ thống
các quy tắc, hướng dẫn, phương pháp và thực tiễn thẩm vấn
cũng như các cơ chế giam giữ và đối xử với những người
bị bắt, giam giữ, cầm tù dưới mọi hình thức, ở bất kỳ
lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình, nhằm mục đích
ngăn chặn mọi vụ việc tra tấn.

<strong>Điều 12. </strong>

Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng các cơ quan có
thẩm quyền của mình sẽ tiến hành điều tra khẩn trương và
khách quan mỗi khi có cơ sở hợp lý để tin rằng việc tra
tấn đã xảy ra trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình.

<strong>Điều 13.</strong>

Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng bất kỳ cá nhân
nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc quyền tài
phán của mình đều có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm
quyền của nước đó và được những cơ quan này xem xét một
cách khẩn trương và khách quan. Quốc gia đó cũng phải thực
hiện các biện pháp để bảo đảm rằng người khiếu nại và
nhân chứng được bảo vệ tránh sự ngược đãi hay hăm dọa
như là hậu quả của việc khiếu nại hoặc cung cấp bằng
chứng.

<strong>Điều 14. </strong>

1. Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm trong hệ thống pháp
luật của mình rằng các nạn nhân của hành động tra tấn sẽ
được cứu chữa và có quyền khả thi được bồi thường
công bằng và thoả đáng, kể cả được cung cấp những điều
kiện để phục hồi một cách đầy đủ đến mức có thể.
Trường hợp nạn nhân chết do bị tra tấn, những người phụ
thuộc vào người đó có quyền hưởng bồi thường.

2. Không một quy định nào trong điều này ảnh hưởng tới
bất kỳ quyền được bồi thường nào của nạn nhân hay của
người khác có thể có theo pháp luật quốc gia.

<strong>Điều 15. </strong>

Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng bất kỳ phát
ngôn nào được đưa ra như là kết quả của sự tra tấn sẽ
không được sử dụng làm bằng chứng trong bất kỳ tiến
trình tố tụng nào, trừ khi để làm bằng chứng chống lại
một người bị cáo buộc là đã thực hiện hành động tra
tấn để có lời khai người đó.

<strong>Điều 16.</strong>

1. Mỗi Quốc gia thành viên cam kết ngăn ngừa trên lãnh thổ
thuộc quyền tài phán của mình những hành vi đối xử hoặc
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo và hạ thấp nhân phẩm khác
mà không giống với tra tấn như định nghĩa ở Điều 1, khi
những hành vi này do một công chức hay người nào khác hành
động với tư cách chính thức thực hiện, hoặc do xúi giục,
đồng tình hay ưng thuận. Cụ thể là những nghĩa vụ quy
định tại các Điều 10, 11, 12 và 13 sẽ được áp dụng, trong
đó các dẫn chiếu về hành động tra tấn sẽ được thay thế
bằng các dẫn chiếu về các hình thức đối xử và trừng
phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm.

2. Các quy định của Công ước này sẽ không làm phương hại
tới các quy định của bất kỳ văn kiện nào khác trong pháp
luật quốc tế hay pháp luật quốc gia mà nghiêm cấm các hành
động đối xử và trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ
thấp nhân phẩm, hoặc liên quan đến các vấn đề dẫn độ
hay trục xuất.

<strong>PHẦN II</strong>

<strong>Điều 17. </strong>

1. Thành lập một Ủy ban chống tra tấn (sau đây gọi tắt là
Ủy ban) có những chức năng được quy định dưới đây. Ủy
ban bao gồm 10 chuyên gia được thừa nhận là có đạo đức cao
và có năng lực trong lĩnh vực quyền con người, làm việc với
tư cách cá nhân. Các chuyên gia phải được các Quốc gia thành
viên bầu, có tính tới sự phân bổ công bằng về địa lý và
lợi ích của sự tham gia của những người có kinh nghiệm pháp
luật.

2. Các thành viên Ủy ban sẽ được bầu bằng bỏ phiếu kín
trên cơ sở danh sách đề cử của các Quốc gia thành viên.
Mỗi quốc gia có thể đề cử một công dân nước mình. Các
Quốc gia thành viên cần chú ý đến lợi ích của việc đề
cử những người cũng là thành viên của Ủy ban Quyền con
người được thành lập theo Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị và những người sẵn sàng làm
việc trong Ủy ban chống tra tấn.

3. Việc bầu các thành viên Ủy ban sẽ được tiến hành tại
cuộc họp toàn thể các nước thành viên tổ chức hai năm một
lần do Tổng thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập. Tại các cuộc
họp này, với điều kiện phải có sự hiện diện của ít
nhất 2/3 số Quốc gia thành viên, những người được bầu vào
Ủy ban là những ứng cử viên có số phiếu cao nhất và chiếm
đa số tuyệt đối phiếu bầu của đại diện các quốc gia có
mặt và bỏ phiếu.

4. Lần bầu cử đầu tiên tổ chức không muộn hơn sáu tháng
sau ngày Công ước này có hiệu lực. Ít nhất bốn tháng
trước ngày bầu cử, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi thư
cho các Quốc gia thành viên yêu cầu họ gửi danh sách đề cử
trong vòng ba tháng. Tổng thư ký sẽ chuẩn bị một danh sách
những người được đề cử xếp theo thứ tự trong bảng chữ
cái Latinh, có ghi rõ quốc gia đề cử, và gửi cho các Quốc gia
thành viên.

5. Các thành viên của Ủy ban được bầu với nhiệm kỳ bốn
năm. Họ có thể được bầu lại nếu được đề cử. Tuy
nhiên, nhiệm kỳ của năm thành viên trong cuộc bầu cử đầu
tiên sẽ chấm dứt sau hai năm. Ngay sau lần bầu cử đầu tiên,
tên của năm thành viên này sẽ do chủ toạ của cuộc họp nói
tại khoản 3 điều này chọn bằng rút thăm.

6. Nếu một thành viên Ủy ban chết hoặc từ chức hoặc vì
bất kỳ lý do nào khác mà không thể thực hiện nhiệm vụ
của mình, Quốc gia thành viên đã đề cử người đó sẽ bổ
nhiệm một chuyên gia khác là công dân nước mình làm việc
nốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ, với điều kiện
được sự chấp thuận của đa số các Quốc gia thành viên.
Sự chấp thuận được coi là đạt được khi có hơn một nửa
số quốc gia trả lời đồng ý trong vòng sáu tuần sau khi
được Tổng thư ký Liên Hợp Quốc thông báo về việc bổ
nhiệm đó.

7. Các Quốc gia thành viên phải chịu chi phí cho các thành viên
Ủy ban khi họ thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban.

<strong>Điều 18.</strong>

1. Ủy ban sẽ bầu các quan chức của mình với nhiệm kỳ hai
năm. Họ cũng có thể được bầu lại.

2. Ủy ban sẽ đặt ra các quy tắc về thủ tục của mình,
những quy tắc này, không kể những nội dung khác, sẽ bao gồm
những quy định sau:

a. Ủy ban sẽ chỉ họp khi có ít nhất là sáu thành viên tham
gia.

b. Các quyết định của Ủy ban phải được thông qua bằng đa
số phiếu của những thành viên có mặt.

3. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ cung cấp đầy đủ nhân sự
và phương tiện để Ủy ban thực hiện hiệu quả chức năng
của mình theo quy định của Công ước này.

4. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ triệu tập cuộc họp đầu
tiên của Ủy ban. Sau cuộc họp đầu tiên, Ủy ban sẽ họp theo
lịch trình quy định trong quy tắc về thủ tục của mình.

5. Các Quốc gia thành viên chịu các phí tổn về tổ chức các
cuộc họp của Quốc gia thành viên và của Ủy ban, kể cả
việc hoàn lại cho Liên Hợp Quốc các chi phí về nhân sự và
phương tiện mà Liên Hợp Quốc đã chi theo khoản 3 điều này.

<strong>Điều 19.</strong>

1. Các Quốc gia thành viên phải trình lên Ủy ban, qua Tổng thư
ký Liên Hợp Quốc, báo cáo về các biện pháp họ đã tiến
hành để thực hiện cam kết theo Công ước này trong vòng một
năm sau khi Công ước có hiệu lực với các Quốc gia thành viên
đó. Sau đó, các quốc gia phải trình báo cáo bổ sung bốn năm
một lần về bất kỳ biện pháp mới nào được tiến hành và
các báo cáo khác mỗi khi Ủy ban có yêu cầu.

2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các báo cáo tới
tất cả các Quốc gia thành viên.

3. Mọi báo cáo sẽ được Ủy ban xem xét, Ủy ban có thể đưa
ra nhận xét về các báo cáo nếu thấy phù hợp và gửi các
nhận xét đó cho Quốc gia thành viên liên quan. Quốc gia thành
viên đó có thể gửi ý kiến trả lời của mình cho Ủy ban.

4. Ủy ban có thể tuỳ ý quyết định đưa nhận xét của mình
theo khoản 3 điều này, cùng với những ý kiến nhận được
sau đó từ Quốc gia thành viên liên quan, vào báo cáo thường
niên của mình theo quy định tại Điều 24. Nếu Quốc gia thành
viên liên quan yêu cầu, Ủy ban cũng có thể đưa bản sao của
báo cáo được đệ trình theo khoản 1 điều này vào báo cáo
thường niên của Ủy ban.

<strong>Điều 20.</strong>

1. Nếu Ủy ban nhận được thông tin đáng tin cậy chứa đựng
những dấu hiệu có cơ sở là việc tra tấn đang được tiến
hành một cách có hệ thống trên lãnh thổ của một Quốc gia
thành viên, Ủy ban sẽ mời Quốc gia thành viên đó hợp tác
trong việc kiểm tra thông tin và vì mục đích này, đưa ra ý
kiến về những thông tin liên quan đó.

2. Xem xét mọi ý kiến mà Quốc gia thành viên liên quan có thể
đưa ra, cũng như bất kỳ thông tin liên quan nào khác có
được, Ủy ban có thể, nếu thấy cần thiết, cử một hay
nhiều ủy viên tiến hành một cuộc điều tra kín và khẩn
trương báo cáo kết quả với Ủy ban.

3. Khi tiến hành một cuộc điều tra theo khoản 2 điều này,
Ủy ban phải tìm kiếm sự hợp tác của Quốc gia thành viên
liên quan. Theo thoả thuận với Quốc gia thành viên liên quan,
cuộc điều tra có thể bao gồm một chuyến thăm viếng lãnh
thổ của quốc gia đó.

4. Sau khi xem xét kết quả điều tra do một hay nhiều thành viên
của mình đưa ra theo khoản 2 điều này, Ủy ban sẽ chuyển
kết quả điều tra này cho Quốc gia thành viên cùng những nhận
xét hay khuyến nghị mà Ủy ban cho là thích hợp về vụ việc.

5. Mọi trình tự hoạt động của Ủy ban đề cập tại các
khoản từ 1 đến 4 của điều này sẽ được giữ kín, và
tại mọi giai đoạn, Ủy ban phải tìm kiếm sự hợp tác của
Quốc gia thành viên liên quan. Sau khi những trình tự liên quan
tới một cuộc điều tra theo khoản 2 điều này kết thúc, Ủy
ban có thể, sau khi tham khảo ý kiến của Quốc gia thành viên
liên quan, quyết định đưa vào báo cáo thường niên của mình
theo Điều 24 bản tóm lược kết quả quá trình điều tra.

<strong>Điều 21.</strong>

1. Quốc gia thành viên Công ước này có thể, vào bất cứ lúc
nào, tuyên bố theo điều này rằng quốc gia đã công nhận
quyền của Ủy ban được tiếp nhận và xem xét các thông cáo
theo đó một Quốc gia thành viên khiếu nại một Quốc gia thành
viên khác không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo Công
ước này. Chỉ những thông cáo do một Quốc gia thành viên đã
tuyên bố công nhận quyền hạn của Ủy ban về việc này trình
lên mới được tiếp nhận và xem xét. Ủy ban sẽ không xem xét
bất kỳ thông cáo nào theo điều này nếu nó liên quan đến
một Quốc gia thành viên chưa có tuyên bố như vậy. Các thông
cáo được tiếp nhận theo điều này sẽ được giải quyết
theo trình tự như sau:

a. Nếu một Quốc gia thành viên cho rằng một Quốc gia thành
viên khác không thực hiện các quy định của Công ước này
thì có thể gửi một thông cáo bằng văn bản, lưu ý quốc gia
kia về vấn đề đó. Trong vòng 3 tháng sau khi nhận được
thông cáo, quốc gia nhận được thông cáo phải đưa ra lời
giải thích hoặc bất kỳ hình thức tuyên bố nào khác bằng
văn bản cho quốc gia gửi thông cáo để làm sáng tỏ vấn
đề, trong đó cần đề cập đến, trong chừng mực có thể và
thích hợp, những thủ tục trong nước cùng những biện pháp
khắc phục đã, đang hoặc sẵn sàng tiến hành để giải
quyết vấn đề.

b. Nếu vấn đề không được giải quyết một cách thỏa đáng
với cả hai Quốc gia thành viên liên quan trong vòng sáu tháng sau
khi nhận được thông cáo đầu tiên, một trong hai quốc gia đó
có quyền đưa vấn đề này ra Ủy ban bằng cách gửi thông báo
cho Ủy ban và cho quốc gia kia;

c. Ủy ban chỉ xem xét vấn đề theo điều này sau khi đã chắc
chắn rằng mọi biện pháp khắc phục trong nước đều đã
được áp dụng triệt để, phù hợp với những nguyên tắc
được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế. Quy định này
không áp dụng trong trường hợp việc tiến hành những biện
pháp khắc phục bị kéo dài một cách vô lý hoặc không có
khả năng đem lại sự cứu giúp hiệu quả cho nạn nhân của
việc vi phạm Công ước này;

d. Ủy ban sẽ họp kín khi xem xét những thông cáo theo điều
này;

e. Với các quy định tại mục (c), Ủy ban sẽ giúp đỡ các
Quốc gia thành viên liên quan giải quyết vấn đề một cách
thân thiện trên cơ sở tôn trọng các nghĩa vụ theo Công ước
này. Vì mục tiêu đó, Ủy ban có thể, nếu thích hợp, thành
lập một Ủy ban hoà giải lâm thời;

f. Khi xem xét bất kỳ vấn đề nào được chuyển đến, Ủy
ban có thể yêu cầu các Quốc gia thành viên liên quan nêu tại
mục (b) cung cấp bất kỳ thông tin liên quan nào;

g. Các Quốc gia thành viên liên quan nêu tại mục (b) sẽ có
quyền có mặt khi vấn đề được đem ra xem xét tại Ủy ban
và trình bày quan điểm bằng miệng và/hoặc bằng văn bản;

h. Trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo theo
mục (b), Ủy ban sẽ đệ trình một báo cáo:

i. Nếu đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (e),
Ủy ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn tắt về
sự việc và giải pháp đã đạt được;

ii. Nếu không đạt được một giải pháp theo quy định tại
mục (e), Ủy ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn
tắt về sự việc; các ý kiến bằng văn bản và biên bản ghi
những lời phát biểu do các Quốc gia thành viên liên quan đưa
ra sẽ được đính kèm báo cáo. Trong mọi trường hợp, báo
cáo sẽ được gửi cho các Quốc gia thành viên liên quan.

2. Quy định của điều này sẽ có hiệu lực khi có năm Quốc
gia thành viên Công ước ra tuyên bố theo khoản 1 điều này.
Những tuyên bố đó sẽ được các Quốc gia thành viên nộp
lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, và Tổng thư ký
Liên Hợp Quốc sẽ gửi các bản sao cho các Quốc gia thành viên
khác. Tuyên bố có thể được rút lại bất kỳ lúc nào bằng
việc thông báo cho Tổng thư ký. Việc rút lại tuyên bố như
vậy sẽ không cản trở việc xem xét bất kỳ vấn đề nào
nêu trong thông cáo đã được chuyển cho Ủy ban theo điều này;
không một thông cáo nào của bất kỳ Quốc gia thành viên nào
được tiếp nhận theo điều này sau khi Tổng thư ký đã nhận
được thông báo rút lại tuyên bố nói trên, trừ khi Quốc gia
thành viên liên quan đưa ra tuyên bố mới.

<strong>Điều 22.</strong>

1. Các Quốc gia thành viên Công ước này có thể vào bất cứ
lúc nào tuyên bố theo điều này rằng quốc gia đó công nhận
thẩm quyền của Ủy ban được tiếp nhận và xem xét thông cáo
từ các cá nhân hay từ đại diện của các cá nhân thuộc
quyền tài phán của quốc gia đã khiếu nại rằng họ là nạn
nhân của sự vi phạm các điều khoản của Công ước thực
hiện bởi Quốc gia thành viên đó. Ủy ban sẽ không nhận
những thông cáo liên quan tới một Quốc gia thành viên không ra
một tuyên bố như vậy.

2. Ủy ban sẽ không chấp nhận theo điều này bất kỳ thông
cáo nặc danh nào, hoặc những thông cáo bị coi là lạm dụng
quyền đệ trình những thông cáo như thế, hoặc không phù hợp
với những quy định của Công ước.

3. Phù hợp với các quy định tại khoản 2 điều này, Ủy ban
sẽ lưu ý các Quốc gia thành viên Công ước đã có tuyên bố
theo khoản 1 và bị cho là vi phạm quy định của Công ước về
bất kỳ thông cáo nào mà Ủy ban nhận được theo điều này.
Trong vòng sáu tháng, quốc gia nhận được thông cáo phải gửi
văn bản giải thích cho Ủy ban để làm sáng tỏ vấn đề và
nêu ra những giải pháp pháp lý, nếu có, mà quốc gia đã thực
hiện để giải quyết vấn đề.

4. Ủy ban sẽ xem xét những thông cáo nhận được theo điều
này dựa vào mọi thông tin có được từ các cá nhân hay đại
diện của họ và từ Quốc gia thành viên liên quan.

5. Ủy ban sẽ không xem xét bất kỳ thông cáo nào của cá nhân
theo điều này trừ khi tin chắc rằng:

a. Vấn đề đó chưa được xem xét, và không thuộc vào các
vấn đề đang được xem xét, theo các thủ tục điều tra hoặc
giải quyết quốc tế khác.

b. Cá nhân gửi thông cáo đã vận dụng hết những biện pháp
pháp lý sẵn có ở quốc gia; quy định này sẽ không áp dụng
với trường hợp việc tiến hành các giải pháp quốc gia bị
kéo dài một cách vô lý, hoặc không có khả năng đem lại sự
cứu giúp hiệu quả cho nạn nhân của việc vi phạm Công ước
này.

6. Ủy ban sẽ họp kín khi xem xét thông cáo theo điều này.

7. Ủy ban sẽ gửi ý kiến của mình tới Quốc gia thành viên
và cá nhân có liên quan.

8. Các quy định của điều này sẽ chỉ có hiệu lực khi có
ít nhất năm Quốc gia thành viên Công ước ra tuyên bố theo
khoản 1 điều này. Những quốc gia ra những tuyên bố như vậy
sẽ nộp lưu chiểu với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, Tổng thư
ký sẽ chuyển các bản sao cho các Quốc gia thành viên khác.
Tuyên bố có thể được rút lại bất kỳ lúc nào bằng cách
gửi văn bản thông báo cho Tổng thư ký. Việc rút lại tuyên
bố sẽ không làm phương hại đến việc xem xét nội dung của
những thông cáo đã được gửi tới Ủy ban theo điều này;
sẽ không một thông cáo nào của cá nhân hay đại diện cho họ
khiếu nại về một quốc gia thành viên được tiếp nhận theo
điều này sau khi Tổng thư ký đã nhận được thông báo rút
lại tuyên bố như nêu trên của Quốc gia thành viên có liên
quan, trừ khi Quốc gia thành viên đã đưa ra một tuyên bố
mới.

<strong>Điều 23. </strong>

Các ủy viên của Ủy ban và của các Ủy ban hoà giải lâm
thời được bổ nhiệm theo Điều 21, khoản 1 (e), sẽ có quyền
hưởng các điều kiện thuận lợi, các ưu đãi và miễn trừ
dành cho những chuyên gia đang thực thi nhiệm vụ của Liên Hợp
Quốc, như quy định tại các mục liên quan trong Công ước về
Đặc quyền, ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc.

Điều 24.

Ủy ban sẽ trình báo thường niên về hoạt động của mình
theo Công ước này cho các Quốc gia thành viên và cho Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc.

<strong>PHẦN III</strong>

<strong>Điều 25.</strong>

1. Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia ký.

2. Công ước này phải được phê chuẩn. Văn kiện phê chuẩn
sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

<strong>Điều 26.</strong>

Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia gia nhập.
Việc gia nhập được thực hiện bằng cách nộp lưu chiểu văn
kiện gia nhập cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

<strong>Điều 27.</strong>

1. Công ước này có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày văn
kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 20 được nộp lưu chiểu
cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

2. Đối với các quốc gia phê chuẩn hay gia nhập Công ước này
sau khi Công ước đã có hiệu lực, Công ước sẽ có hiệu
lực với quốc gia đó sau 30 ngày kể từ khi văn kiện phê
chuẩn hoặc gia nhập của quốc gia đó được lưu chiểu.

<strong>Điều 28.</strong>

1. Mỗi Quốc gia thành viên có thể, tại thời điểm ký, phê
chuẩn hoặc gia nhập Công ước này, tuyên bố quốc gia đó
không công nhận thẩm quyền của Ủy ban nói ở Điều 20.

2. Bất kỳ Quốc gia thành viên nào đã đưa ra bảo lưu theo
khoản 1 điều này, vào bất cứ lúc nào, đều có thể rút
bảo lưu bằng cách thông báo với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

<strong> Điều 29.</strong>

1. Bất kỳ Quốc gia thành viên nào của Công ước này cũng có
thể đề xuất bổ sung hay sửa đổi Công ước với Tổng thư
ký Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký sẽ thông báo về đề xuất
đó cho các Quốc gia thành viên, yêu cầu họ cho ý kiến xem có
ủng hộ việc triệu tập một hội nghị các Quốc gia thành
viên để xem xét và bỏ phiếu về đề xuất đó không. Trong
vòng bốn tháng kể từ ngày Tổng thư ký gửi thông báo cho các
Quốc gia thành viên, nếu ít nhất một phần ba số Quốc gia
thành viên ủng hộ việc triệu tập hội nghị, thì Tổng thư
ký sẽ triệu tập một hội nghị dưới sự bảo trợ của
Liên Hợp Quốc. Bất kỳ sự sửa đổi nào được đa số
Quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu thông qua tại hội
nghị sẽ được Tổng thư ký gửi cho tất cả các Quốc gia
thành viên để chấp thuận.

2. Mọi sửa đổi được thông qua theo khoản 1 điều này sẽ
có hiệu lực khi được 2/3 Quốc gia thành viên Công ước này
thông báo với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc rằng họ chấp
thuận sửa đổi đó theo trình tự pháp luật tương ứng của
họ.

3. Khi sửa đổi có hiệu lực, nó sẽ ràng buộc các Quốc gia
thành viên đã chấp thuận sửa đổi đó, các Quốc gia thành
viên khác vẫn bị ràng buộc bởi các quy định của Công ước
này và bất kỳ sửa đổi nào mà họ đã chấp thuận trước
đây.

<strong>Điều 30.</strong>

1. Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều Quốc gia thành viên liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước này mà không
thể giải quyết bằng thương lượng sẽ được đưa ra trọng
tài theo yêu cầu của một trong số các Quốc gia thành viên
đó. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ ngày yêu cầu đưa ra trọng
tài mà các bên vẫn không thể thoả thuận được về tổ
chức trọng tài, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đề nghị
đưa tranh chấp ra Toà án Công lý quốc tế, phù hợp với quy
chế của Toà.

2. Mỗi quốc gia có thể, vào lúc ký, phê chuẩn hoặc gia nhập
Công ước này, tuyên bố rằng quốc gia đó không bị ràng
buộc bởi khoản 1 điều này. Các Quốc gia thành viên khác sẽ
không bị ràng buộc bởi khoản 1 điều này đối với các
Quốc gia thành viên có tuyên bố như vậy.

3. Quốc gia thành viên đã đưa ra bảo lưu theo khoản 2 điều
này có thể tuyên bố vào bất cứ lúc nào việc rút bảo lưu
đó bằng cách thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

<strong>Điều 31.</strong>

1. Quốc gia thành viên có thể rút khỏi Công ước này bằng
cách gửi thông báo bằng văn bản cho Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc. Việc bãi ước sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ
ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được thông báo.

2. Việc bãi ước như vậy không miễn cho Quốc gia thành viên
liên quan các nghĩa vụ theo Công ước này đối với bất kỳ
hành động hoặc không hành động nào xảy ra trước ngày bãi
ước có hiệu lực, cũng như không ảnh hưởng tới việc tiếp
tục xem xét những vấn đề đang được Ủy ban xem xét trước
ngày bãi ước có hiệu lực.

3. Từ ngày tuyên bố bãi ước của một Quốc gia thành viên có
hiệu lực, Ủy ban sẽ ngừng xem xét bất kỳ một thông cáo
mới nào liên quan tới quốc gia ấy.

<strong>Điều 32. </strong>

Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các
Quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và tất cả các quốc gia
đã ký hoặc gia nhập Công ước này những vấn đề sau:

1. Việc ký, phê chuẩn và gia nhập theo Điều 25 và 26.

2. Ngày Công ước có hiệu lực theo Điều 27 và ngày những
sửa đổi có hiệu lực theo Điều 29.

3. Việc bãi ước theo Điều 31.

<strong>Điều 31.</strong>

1. Công ước này được làm bằng tiếng Ả-rập, tiếng Trung
Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha,
các văn bản đều có giá trị như nhau và sẽ được nộp lưu
chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.

2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các bản sao có
chứng thực của công ước tới tất cả các quốc gia.

Nguồn: <a
href="http://www.nhanquyen.vn/modules.php?name=News&amp;op=detailsnews&amp;mid=227&amp;mcid=3">Nhân
Quyền Việt Nam</a>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131114/gioi-thieu-cong-uoc-chong-tra-tan-cat-1984),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét