Vũ Quang Việt - Ngân hàng: ông hoàng không quần?

Vừa viết xong bài "Khủng hoảng và hệ thống tài chính tín
dụng Phân tích ứng dụng với kinh tế Mỹ và Việt Nam" để
đăng trên Thời Đại Mới (sẽ xuất bản vào giữa tháng
3/2013), tôi lại thấy quyển sách <em>The Bankers' New Clothes</em>
(Quần áo mới của các nhà ngân hàng) của hai tác giả Anat
Admati (giáo sư Đại học Stanford) và Martin Hellwig (giám đốc
Viện Max Planck về hàng hóa tập thể) do nhà xuất bản Đại
học Princeton ấn hành. Thay vì rút ra nét chính để đưa vào
bài của mình, tôi viết riêng bài này để nêu lên những phê
bình chính của hai tác giả trên về hoạt động của ngân
hàng.

Ai cũng biết là vai trò ngân hàng là thu hút tiền gửi của
khách hàng (chủ yếu là dân chúng) và để cho doanh nghiệp vay
sản xuất (đặc biệt là đầu tư) và cho dân chúng vay tiêu
dùng những món hàng lớn đặc biệt là nhà cửa. Thay vì doanh
nghiệp phải hoàn toàn dựa vào vốn của mình để phát triển
thì doanh nghiệp có thể vay vốn của rất nhiều người mà
ngân hàng tập hợp lại. Ngân hàng làm trung gian và hưởng
dịch vụ phí. Dân chúng ký gửi tiền vào ngân hàng vì tin
rằng ngân hàng có khả năng đánh giá doanh nghiệp, bằng cách
xem xét lịch sử phát triển, lý lịch hành xử của doanh
nghiệp, tiềm năng của dự án đi vay và khả năng chi trả của
doanh nghiệp rồi mới cho vay. Cũng thế ngân hàng đánh giá thu
nhập của dân cư muốn vay mua nhà, lý lịch vay mượn cũng như
khả năng chi trả của họ. Người ta bỏ tiền vào ngân hàng
vì có sự tin cậy vào khả năng đánh giá cũng như tính ngay
thẳng của nó.

Nếu những người chủ ngân hàng bỏ ra 3 đồng (gọi là vốn
tự có), thu hút tiền gửi 97 đồng và họ cho vay 100 đồng thì
như thế nếu nợ không đòi được là 4 đồng thì vốn tự có
của các ông chủ ngân hàng coi như hơn mất sạch. Nếu dân
chúng nghe tin ngân hàng có vấn đề, lũ lượt rút tiền thì
ngân hàng mất khả năng chi trả và phá sản. Người bỏ tiền
muốn rằng số tiền mình bỏ ra được nguyên vẹn. Các ngân
hàng kêu gào chính phủ cứu trợ, như qua chương trình cứu
trợ các tài sản có vấn đề (Troubled Asset Relief Program) năm
2008 mà chính phủ Mỹ phải bỏ ra 475 tỷ. Điều này khác hẳn
các công ty phi tài chính. Giá chứng khoán xuống thì doanh
nghiệp tự chịu. Doanh nghiệp phải bỏ vốn tự có rất lớn
để kinh doanh qua việc phát hành cổ phiếu, vay mượn của doanh
nghiệp ở Mỹ nói chung chỉ bằng 70% vốn tự có. Như thế theo
hai giáo sư ngân hàng Mỹ sống dựa vào bù lỗ từ thuế của
dân nhằm cứu ngân hàng khỏi phá sản vì sợ rằng sự phá
sản của chúng sẽ đưa nền kinh tế đến khủng hoảng trầm
trọng hơn.

Chỉ tính từ 1980 đã có rất nhiều cuộc khủng hoảng đã
xảy ra ở nước Mỹ và trên thế giới. Ở Mỹ có 3 khủng
hoảng lớn về ngân hàng: 1) khủng hoảng Ngân hàng Để dành
và Cho vay (Saving and Loans Banks) ở Mỹ (747 trong số 3234 nhà
băng) vì nhiều lý do trong đó có lý do chính là bịp bợm làm
tốn chính phủ Mỹ 160 tỷ (tính từ 1986-1995); 2) sự phá sản
của Long-Term Capital Management L.P. (LTCM) năm 1998; thực ra đây là
phá sản của một công ty phi ngân hàng đầu tư vào các chứng
khoán và loại phái sinh tài chính nhưng vì khoản lỗ 4.7 tỷ
sợ có ảnh hưởng trực tiếp tới ngân hàng nên Ngân hàng
Trung ương New York phải đứng ra tổ chức cứu trợ; và cuối
cùng lớn nhất là 3) sự phá sản của hệ thống tài chính mỹ
năm 2007 như đã nói đến ở trên. Trên thế giới cũng đầy
rẫy các cuộc khủng hoảng ngân hàng lớn từ Nhật (1986-2003),
Venezuela (1994), Châu Á trong đó có Nam Hàn, Thái Lan, Mã Lai,
Indonesia (1997), Nga (1998), Uruguay (2002), Argentina (1999-2002), và từ
2008 thì hàng loạt các nước bị khủng hoảng bao gồm Mỹ,
Iceland, Irland, Anh, Bỉ, Ukraine, Nga, Spain, v.v.

Theo qui định trước đây ở Mỹ, hệ số vốn đơn giản (vốn
tự có chia cho tài sản) chỉ là 5% và theo qui định mới Basel
III của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank for International
Settlements) ở Thụy sĩ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, hệ
số vốn được tăng lên là 7% (nhưng mãi đến năm 2019 mới
phải thực hiện). Các ngân hàng đều có một tiếng nói chung
là chống lại việc tăng hệ số vốn, và cho rằng như thế là
làm mất khả năng cho vay của họ và làm thiệt hại đến sự
phát triển của nền kinh tế. Họ bày ra nhiều cách như việc
đưa độ rủi ro của từng loại tài sản để tính hệ số
vốn. Cơ bản là nhằm giảm giá trị tài sản nằm ở mẫu số
để có thể tăng hệ số. Họ muốn từng loại tài sản phải
được tính theo trọng số rủi ro khi tính tổng tài sản (risk
weighted assets), vì cho rằng có tài sản không có độ rủi ro
như dự trữ ở ngân hàng trung ương, 20% rủi ro như trái
phiếu nhà nước, 50% rủi ro nếu cho vay mua nhà có thế chấp.
Với cách tính như thế, thực chất hệ số vốn trên chỉ
tương đương với 3% nếu như không tính đến độ rủi ro. Có
thể nói là các ông chủ ngân hàng bằng nhiều lập luận phức
tạp và bác học tựu chung cũng chỉ nhằm giảm tiền vốn tự
có phải bỏ ra càng ít càng tốt, và đẩy cho xã hội trả giá
cho những sai lầm của họ. Tất nhiên xã hội nào cũng biết
thế nên tìm mọi cách đặt ra luật lệ và các cơ chế kiểm
soát chặt chẽ ngân hàng. Ngược lại nhóm lợi ích ngân hàng
bằng mọi cách vận động để có càng ít kiểm soát càng tốt
qua số tiền bỏ ra ủng hộ các ứng cử viên trong các cuộc
chạy đua chức vụ vào quốc hội hay hành pháp.

Như vậy là hai tác giả này đã nêu rõ ra lý do cơ bản gây ra
sự phá sản của ngân hàng và trong nhiều trường hợp tạo ra
khủng hoảng tài chính và kinh tế kéo dài, đó là vì vốn tự
có quá thấp. Tuy nhiên, vốn tự có quá thấp không phải là
điều luôn xảy ra trong mọi thời đại. Vào thế kỷ 19, các
ngân hàng đều có vốn tự có khoảng 40-50% tổng tài sản. Rõ
ràng là nếu ngân hàng dùng vốn của người khác để làm
giầu nên họ dễ hành động bất chấp rủi ro. Nếu mất tiền
là mất tiền của người khác chứ không phải của cổ phần
viên. Đối với họ nhà nước là kẻ cứu rỗi cuối cùng. Vai
trò cứu chuộc của Ngân hàng Trung ương sau cuộc đại khủng
hoảng năm 1929 được coi là nghiễm nhiên. Càng ngân hàng lớn
thì lại càng bất chấp rủi ro vì họ nghĩ rằng nhà nước
không thể để họ chết.

Có lẽ đây là lần đầu tiên có hai nhà kinh tế nhìn lại
vấn đề về hệ số vốn như trên. Hai ông không đặt ra hệ
số đáng có. Nhưng đây là những điều đáng làm ta suy nghĩ
về giải pháp khống chế ngân hàng nhằm giảm khả năng khủng
hoảng.

Trở lại vấn đề Việt Nam, hệ số vốn hiện nay chỉ khoảng
4-6% hoặc thấp hơn và thấp xa so với hệ số 11.5% của hệ
thống Mỹ và 13% của hệ thống Philippines. Không những thế,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Trung ương cũng rất
thấp, chỉ từ 1-3% (3% áp dụng cho loại ký gửi dưới 1năm).
Tỷ lệ tiền ký gửi dự trữ này là nhằm hạn chế mức cho
vay của ngân hàng nhưng ở mặt khác có thể coi là giữ thanh
khoản để chi trả cho khách hàng nếu cần. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc ở Việt Nam rất thấp so với Trung Quốc có tỷ lệ
dự trữ là 20.5%, Hồng Kông là 18%, Brazil là 21%, và Mỹ có ba
mức là 0%, 3% và 10% tùy giá trị tài khoản ký gửi cao tới
mức nào.

Vì những dễ dãi ở Việt Nam đặc biệt là Luật Tín dụng cho
phép ngân hàng thương mại đầu tư chứng khoán, buôn vàng, kinh
doanh xây dựng, mua công ty và ngược lại cho công ty phi tài
chính mở ngân hàng đã là lý do giải thích tại sao rất nhiều
chủ ngân hàng từng là dân gần như khố rách ở Việt Nam đã
nhanh chóng trở nên giầu có vì chủ yếu họ dựa vào quan hệ
để có giấy phép lập ngân hàng và tha hồ phù phép. Nếu có
nợ xấu tới mức phá sản, họ nhìn vào vai trò của nhà
nước cứu giúp bằng đồng tiền thuế, nhưng chủ yếu là máy
in tiền của nhà nước.

2/3/2013

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130307/vu-quang-viet-ngan-hang-ong-hoang-khong-quan),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét