Sự thịnh vượng của đất nuớc: Lý thuyết của Adam Smith và thực tế tại Việt Nam (1)

<h2>Vần đề</h2>

Sự thịnh vượng của Việt Nam là một ưu tư của mọi người
Việt mà câu trả lời đơn giản và quen thuộc là dân có giàu
thì nước mới mạnh. Nhưng phải nghĩ và làm gì để đạt
mục tiêu này là một vấn đề phức tạp, vì việc tái cấu
trúc kinh tế hiện nay đang có ba khó khăn chính là định
hướng xã hội chủ nghiã, khả năng của chính quyền và sự
đồng thuận của toàn dân.

Trong chiều hướng trao đổi các luận điểm này thì phương
cách vận hành của nền kinh tế thị trường tại các nước
phương Tây có thể đem lại một khởi điểm lý thuyết nào cho
suy luận cũng là chủ đề cần tìm hiểu. Để đóng góp vào
việc thảo luận chung, tiểu luận sau đây sẽ giới thiệu sơ
lược tác phẩm <em>An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth
of Nations</em> của Adam Smith làm một lý thuyết nền tảng cho
việc so sánh với thực trạng kinh tế Việt Nam.

<h2>Lý thuyết của Adam Smith</h2>

<h2>Tác giả</h2>

Adam Smith (1723-1790) học tại các Đại học Glasgow (1737-40) và
Oxford (1740-46) và là giáo sư Luận lý và Đạo đức học tại
Đại học Glasgow (1751-63). Với hai danh tác <em>The Theory of Moral
Sentiments</em> (1759) và <em>An Inquiry into the Nature and Causes of the
Wealth of Nations</em> (1776) ông được hậu thế tôn vinh là
người khai sinh khoa học kinh tế.

<h2>Tác phẩm </h2>

The Wealth of Nations giải thích sự thịnh vượng của đất
nước bằng cách xác định mối quan hệ giửa khối lượng
hàng hoá cung ứng và mãi lực của người tiêu thụ. Mối quan
hệ này có hai yếu tố là năng suất lao động và phân công lao
động, mà cụ thể là tỷ lệ giửa những người đang làm
việc và thất nghiệp. Yếu tố thứ nhất quan trọng và dể
xác định hơn vì mức tiêu thụ của người thất nghiệp khó
kiểm chứng.

Tác phẩm ra đời và được bán sạch trong vòng sáu tháng, sau
đó được tái bản vào năm 1778, 1784, 1786 và 1789. Sách được
dịch sang tiếng Pháp (1778), Đan Mạch (1779) tiếng Ý (1779)
tiếng Đức (1794) đem lại thành công thương mại cho nhà xuất
bản. Cho đến nay sách được in lại nhiều lần và dịch
nhiều thứ tiếng khác trên thế giới và trở thành tác phẩm
kinh điển bậc nhất cho khoa học kinh tế. Sách có năm quyển
với một bố cục mạch lac.

<h2>Bố cục </h2>

<h3>Quyển một </h3>

Smith tìm hiểu nguyên nhân gia tăng năng suất mà phân công lao
động và khuynh hướng trao đổi trong xã hội là yếu tố then
chốt hơn là năng khiếu cá nhân. Mở rộng thị trường làm cho
phân công lao động phát triển hơn, nhưng nếu tiền tệ là
dụng cụ trao đối thì sự phân biệt giửa thực giá và giá
trao đổi là vấn đề cần làm rõ.

Con người sống trong xã hội lệ thuộc nhau qua phân công lao
động và trao đổi hàng hoá. Ai cũng muốn làm những gì mà
mình cho là hay nhất, nhưng nổ lực lại tiết kiệm nhất, chỉ
trao đổi khi có lợi nhất để hưởng thành quả cao nhất. Giá
trị trao đổi được đặt ra khi hai mặt hàng tương xứng nhau,
nhất là khi con người làm chủ phương tiện sản xuất và
thỉnh thoảng mới có nhu cầu để trao đổi các mặt hàng đơn
giản. Khi xã hội tiên tiến thì trao đổi có phần phức tạp
hơn, nên cần đến hai yếu tố khác để xác định.

<em>Thứ nhất</em> vì trong xã hội có giai cấp nên công nhân
không nắm tư liệu sản xuất và giá trị hàng hoá do ba yếu
tố là lao động, tư bản và đất đai tạo thành. Trao đổi
hàng hoá sẽ giúp cho doanh nghiệp giải quyết các vấn đề
tiền lương, doanh lợi và hưu bổng. <em>Thứ hai</em> là giá
trị sản xuất và trao đổi tùy thuộc vào mức độ cung và
cầu trên thị trường. Cung nhiều thì giá bán sẽ hạ và
ngược lại. Thị trường càng biến động tự do sẽ càng phát
triển cao độ. Cạnh tranh ráo riết sẽ tạo được quân bình
giữa cung và cầu và giá thị trường sẽ tiến gần đến giá
tự nhiên.

Từ những luận điểm này Smith triển khai các ý niệm về
tiền lương, doanh lợi và hưu bổng. Cơ chế thị trường tự
do sẽ đem lại giá bán thấp, lương công nhân cao và nhiều
doanh lợi cho doanh nghiệp. Quyền lợi của công nhân và người
tiêu thụ là quan trọng vì họ là thành phần đa số trong xã
hội, trong khi doanh nghiệp chỉ lo hạ lương công nhân, tăng giá
bán để tăng doanh thu.

<h3>Quyển hai </h3>

Smith lý giải mối quan hệ giửa giao lưu hàng hoá và tăng
trưởng kinh tế. Sự hình thành, phát triển và phương cách
đầu tư tư bản ảnh hưởng đến vấn đề nhân dụng hơn
khối lượng tiền tệ. Phú cường của đất nước do nhiều
yếu tố tạo thành mà mối quan hệ giửa giới lao động và
những thành phần không sản xuất là chính, nhưng các khái
niệm tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư, tư bản lưu động và
cố định, thu nhập thuần và gộp, lao động có giá trị sản
xuất và không có giá trị sản xuất cần phân biệt. Cuối
cùng, vai trò tiền tệ chỉ là phương tiện trao đổi.

Lao động có ý nghiã khi sản xuất tăng thêm giá trị cho mặt
hàng, nhờ thế có thể mua bán được. Có những hình thức lao
động không có giá trị sản xuất, nhưng cũng cần thiết thí
dụ như người phát thư, đem lại thoải mái như ca sĩ và tối
cần thiết như chánh án. Loại lao động này cũng có cái giá
của nó nhưng giá trị sử dụng lại giới hạn. Khi nào tư
bản đầu tư tạo nên doanh lợi thì lao động mới gọi là có
yếu tố sản xuất, và tư bản càng chuyển động thì tư bản
khác mới có thể được huy động.

Tùy theo phương cách đầu tư mà tư bản đem lại hiệu năng
khác nhau và cùng một khối lượng tư bản, nhưng tùy theo lĩnh
vực đầu tư lại kết quả có giá trị cách biệt. Theo Smith,
nên đầu tư vào buôn sỉ hơn là lẻ, đầu tư nhiều hơn vào
công nghiệp chế biến và nhiều nhất vào nông nghiệp. Kinh tế
nông nghiệp sinh lợi nhiều nhất vì đất đai được sử
dụng, điền chủ thu được hoa lợi và nông dân có thu hoạch.
Nhưng quan điểm này ít được quan tâm vì là một vấn đề
lịch sử: cách biệt rỏ rệt giửa thành phố và nông thôn và
ưu thế xã hội của giới thương nghiệp và nhà sản xuất
công nghiệp so với nông dân và điền chủ.

<h3>Quyển ba </h3>

Smith trình bày mối quan hệ giửa thành thị và nông thôn, dù
dị biệt nhưng cả hai bổ sung nhau và lập thành một thị
trường chung để cùng hưởng lợi. Khi đất đai được canh
tác, thủ công phát triển, thương mại thành hình thì giao
thương với các nơi khác được mở rộng. Nông nghiệp càng
phát triển thì thị dân giàu có sẽ có khuynh hướng về nông
thôn định cư và đầu tư vào nông nghiệp, vì vừa sinh lợi
và vừa sống an nhàn.

Thời phong kiến tạo một trật tự mới cho xã hội, giới
điền chủ ngự trị tại nông thôn, hưởng nhiều đặc quyền
và quan tâm khai thác canh nông, nhưng luật thừa kế còn cản
trở việc phân chia và mua bán đất đai. Lối sống thành thị
thu hút nông dân đến tìm việc vì vừa có nhiều tiền và
tiện nghi lại được hưởng nhiều tự do và luật pháp bảo
vệ. Do đó, nhiều thành phố sầm uất thành hình, sự sung túc
làm cho thị dân mua nhiều nông phẩm, thương giới đầu tư
mạnh hơn vào nông nghiệp và giúp nông thôn phát triển. Tuy
thế, bộ mặt nông thôn không thay đổi triệt để, vì các
ảnh hưởng này khó lường được.

<h3>Quyển bốn</h3>

Smith thảo luận hệ thống mậu dịch và sản xuất nông nghiệp
với hai lý thuyết là trọng thương do các thương nhân cổ vũ
và trọng nông do giới điền chủ hổ trợ. Hai lý thuyết này
đề ra mục tiêu chung là chính sách kinh tế phải nhằm làm
nâng cao lợi tức của dân chúng và tăng các khoản thu cho nhà
nước.

Thuyết trọng thương có định kiến sai lạc và gây hậu quả
tai hại. Quan điểm sai lạc vì cho rằng sự giàu có của đất
nước chỉ thuần túy là vấn đề gia tăng khối lượng tiến
tệ, đặc biệt coi trọng quý kim và thúc đẩy phát triển mậu
dịch. Chính sách cấm nhập khẩu, tăng quan thuế biểu và hổ
trợ xuất khẩu qua biện pháp trợ giá hoặc lập liên minh
xuất khẩu gây thiệt hại cho thị trường nội địa. Theo
Smith, giàu có của đất nước là do số lượng hàng được
bán ra trên thị trường, thành quả này tùy thuộc vào năng
suất lao động và khối lượng nhân công khả dụng. Giới thủ
công và thương nhân cũng được kể chung vào thành phần tạo
nên giá trị sản phẩm. Tầm vóc của thị trường do mức độ
tư bản đầu tư quyết định.

Muốn thịnh vượng, chính quyền nên tạo ra một hệ thống kinh
tế tự do, cần giới hạn nhiệm vụ vào ba mục tiêu chủ yếu
là quốc phòng, bảo vệ trật tự xã hội và tạo các cơ sở
tiện ích công cộng, nhưng không để bị các nhóm lơị ích
gây ảnh hưởng vì những chính sách phản tác dụng.

<h3>Quyển năm </h3>

Smith phân tích vai trò của nhà nước theo quan điểm kinh tế.
Về công chi nhà nước nên giới hạn vào các mục tiêu quốc
phòng, tư pháp, giáo dục và hổ trợ mậu dịch. Về công thu,
Smith phân loại các nguồn thu và đề xuất cách quản lý công
sản, đặc biệt là giải quyết nợ công.

Mỗi xã hội có một hình thức nhà nước nhất định. Dù trong
hình thức nào, nhà nước cũng phải nhận vai trò quốc phòng
và công chi, quy định mọi phân công lao động và mậu dịch.
Để xây dựng hạ tầng cơ sở nhà nước có quyền thu lệ phí
sử dụng để trang trải kinh phí và tài trợ hệ thống tiểu
học cho gia đình công nhân. Nhà nước phải điều tiết mức
quân bình cung cầu và quy định tiền lương phải tương xứng
với khả năng. Chính quyền cần dân chúng vì là người lính
trong thời chiến và là người sản xuất trong thời bình. Cụ
thể nhất là chính quyền phải đem lại giấc ngủ bình yên cho
mọi người.

Về nguyên tắc thuế vụ, Smith đề ra tiêu chí công bình và
hữu ích. Thuế phải bình đẳng (mọi người đóng thuế tuỳ
theo thu nhập), an toàn (người đóng thuế hiểu rõ các loại
thuế mình phải đóng qua luật lệ công minh), không tổn hại
(người chịu thuế không bị thiệt hại quá mức khi đóng
thuế) hiệu năng (thuế thực sự cần thiết cho công qủy, sở
thuế không cồng kềnh và tốn kém, người dân có cảm tưởng
được khích lệ đóng thuế hơn là tìm cách trốn thuế).

Nợ công là một hiện tượng phổ biến tại các nước tiên
tiến vì lý do các nhà tư bản lo thủ lợi, chính quyền gây
chiến tranh và không ai biết cách làm giảm nợ. Smith cho là các
nước châu Âu gặp phải vấn đề này và sẽ đi đến suy
thoái, về trường kỳ phải có những chính sách giảm nợ
công, nhưng trong ngắn hạn tăng thuế là giải pháp.

Với một cách hành văn trong sáng ông đem đến cho người đọc
một lối diễn giảng mới lạ về cách vận hành của nền kinh
tế thị trường mà nội dung một số luận đề chính được
tóm lược sau đây:

<h2>Nội dung </h2>

<h3>Homo oeconomicus</h3>

Tư lợi của con người là yếu tố then chốt trong các hoạt
động kinh tế. Thí dụ của Smith được hậu thế truyền tụng
là những người bán thịt, chế ruợu hay làm bánh mì không
phải chỉ có ý tốt phục vụ xã hội mà họ sản xuất vì
quyền lợi riêng mà mặc cả và trao đổi là một nghệ thuật
để thuyết phục. Người làm ra sản phẩm muốn bán giá trị
cung ứng và chứng tỏ rằng mình biết tự lo qua sản xuất
hữu ích cho người khác.

Ích kỷ là một đề tài tranh luận sôi nổi vào thế kỷ XVIII
tại Anh. Theo Smith khó giảm bớt khuynh hướng chạy theo tư lợi
của con người, nhưng nên tìm sự đồng thuận với người
khác, mà tiêu chí là sự đồng thuận của người thứ ba, ý
kiến của một người dự khán trung dung. Động cơ chính của
ích kỷ là làm cho mức độ sử dụng được tăng lên một
cách tối ưu với một phương tiện hữu hạn, nên không coi đó
là có ý xấu. Sinh lợi kinh tế sẽ đem lại phú cường cho
đất nước, nhưng không thể chỉ giải thích bằng tư lợi, vì
một người dành tiền tiết kiệm cho tuổi già, dùng tiền
đầu tư để mua nhà, giúp thân nhân hay từ thiện sẽ đem lại
những lợi ích khác nhau cho xã hội; không ai có hai trạng thái
đối nghịch khi quyết định, hoặc là do vị kỷ hoặc vị tha.
Ngược lại, theo Marx, nhà sản xuất chạy theo lợi nhuận và
tạo ra bất công.

Trong đạo đức, Smith đề ra nguyên tắc thiện cảm, con người
có khả năng tự đặt mình vào hoàn cảnh và cũng chia sẽ
những cảm xúc của người khác. Trong kinh tế cũng tương tự,
vì đó là khuynh hướng tự nhiên của con người khi biết suy
nghĩ, diễn đạt, mặc cả và thuyết phục để trao đổi
thương mại.

Kinh tế tăng trưởng không chỉ do ích kỷ, cảm thông mà còn do
cạnh tranh. Chính cạnh tranh tác động làm cho cá nhân thay đổi
thái độ tiêu thụ mà qua đó kinh tế phát triển. Ngoài cạnh
tranh giửa các nhà sản xuất thì tin tức giửa nhà cung ứng và
người tiêu thụ làm cho thị trường cạnh tranh ráo riết hơn.
Trong thực tế chính quyền không thể tạo ra một hệ thống
thông tin toàn hảo để mỗi người có cơ hội trình bày và
thuyết phục người khác về công việc hay sản phẩm của
mình. Vì thế nên một số nhà sản xuất toa rập nhau giảm giá
lương, tăng giá bán, phân chia khu vực thị trường và gây áp
lực chính quyền cấm nhập khẩu, tăng quan thuế biểu để
bảo vệ quyền lợi trước các cạnh tranh ngoại quốc. Thị
trường tự do cần một hệ thống thông tin toàn diện và cạnh
tranh triệt để giúp mọi người có quyền sử dụng quyền
của mình trong bình đẳng và tôn trọng đối tác, nhưng tự do
cạnh tranh (laissez-faire) trong kinh tế và tự do ngoại thương
(laissez-passer) là quan trọng nhất.

<h3>Laissez-faire</h3>

Smith đưa ra ba tiền đề chủ yếu: <em>Một</em> là một tình
trạng hài hoà lý tưởng tiền định cho toàn xã hội là không
tưởng, chúng ta phải chấp nhận có tranh chấp quyền lợi và
để giải quyết, nhà nước tạo ra một cơ chế bảo vệ hữu
hiệu để đem lại trật tự chung và công bình theo sự phát
triển của quy luật khách quan.

<em>Hai</em> là tự do kinh tế mới tạo điều kiện phát triển
cá nhân để làm cơ sở phát triển xã hội. Khuynh hướng chung
của các nhà tư bản là muốn đầu tư trong nước cho an toàn
hơn ở ngoại quốc, nhưng khi họ chạy theo tư lợi, thì kết
quả cuối cùng là sẽ mang lợi chung cho xã hội.

<em>Ba</em> là cơ chế thị trường không phải là một loại trò
chơi được ăn cả ngã về không, mà là cơ hội thắng thua
được phân chia không đồng đều, giá trị sử dụng tương
đối và tạo nên mức thu nhập chênh lệch. Sự phát triển
tiền lương, doanh lợi và hưu bổng là những dẫn chứng cho
vấn đề này. Quyền lợi đối nghịch giửa nhà tư bản đầu
tư và công nhân, giửa nhà sản xuất và người tiêu thụ cho
thấy luôn có xung đột xã hội.

Làm sao đem lại sự hài hoà trước những đối kháng thường
trực này? Để giải quyết, Rousseau đề nghị phải nâng cao
giáo dục nhằm tạo khả năng và ý thức chung sống; theo Marx
phải đấu tranh nhằm xoá bỏ giai cấp thù địch, xã hội sẽ
không còn tư bản và điạ chủ thống trị, công nhân sẽ
hưởng giá trị lao động trọn vẹn. Smith cho là một nguyên
tắc chung sống chỉ đạt được khi tất cả mọi người cùng
tôn trọng luật lệ trong một sân chơi tự do mà tinh thần
khách quan trong hành động và hợp tác nhằm giải quyết những
quyền lợi đối nghịch là chính. Smith tìm cách giải thích tư
lợi là động cơ thúc đẩy, nhưng không ca ngợi theo đuổi tư
lợi là lý tưởng trong đạo đức cũng như kinh tế. Smith không
cổ vũ tự do tuyệt đối theo nghiã laissez-faire, một lý tưởng
mà Mill đã đề xuất trong Principle of Political Economy, vì chỉ
có một sân chơi tự do và bàn tay vô hình điều khiển là
điều kiện tiên quyết.

<h3>Bàn tay vô hình</h3>

Không phải Smith mà Montesquieu là người đầu tiên tìm ra khái
niệm bàn tay vô hình trong tác phẩm <em>De l´esprit des lois</em>.
Montesquieu cho rằng tham vọng chính trị của từng cá nhân sẽ
tác động cho thể chế qua sức mạnh điều tiết của bàn tay
này. Từ đó Smith áp dụng lý giải này trong kinh tế và đạo
đức.

Trong kinh tế, Smith không coi bàn tay vô hình là một trật tự
siêu hình hay một cơ chế tự động, mà là một sự điều
tiết thông minh và hợp lý trong xã hội, một sự vận hành
của một cơ chế có chức năng tự tổ chức điều khiển trong
tiến trình sản xuất, đặc biệt nhất là về cung và cầu và
không cần chính quyền can thiệp. Bàn tay vô hình không có phép
lạ đem lại phúc lợi xã hội, mà cần có chính quyền tác
động làm cho hữu hiệu hơn. Smith xem nhiệm vụ chính của nhà
nước là quy định và áp dụng các quyền tự do cơ bản cho
toàn dân, bảo vệ dân chúng trước ngoại xâm qua quốc phòng,
chống những bất công xã hội bằng giám sát tư pháp và nâng
cao dân trí qua phát triển giáo dục.

Về đạo đức, ông triển khai ý niệm này trong tác phẩm
<em>The Theory of Moral Sentiments</em>. Khi cá nhân kết ước đều
phải trả bằng một giá, cả hai thoả mãn được nhu cầu của
mình, đó không phải là thiện tâm bố thí của nhà giàu, một
cơ chế không cần kiểm soát của chính quyền và quy luật thị
trường. Hiệu năng của bàn tay vô hình là sự đãi lọc qua
thời gian và là một hình thức phân phối lợi tức gián tiếp.

Dù đề cao bàn tay vô hình, nhưng ông cho là kiến thức và khả
năng của chính quyền là chủ yếu và chính sách theo đuổi
phải khách quan và thuần lý, vì mỗi quyết định đều có
hậu quả đến phân phối công bình xã hội.

<h3>Phân phối công bình </h3>

Nền kinh tế tư bản tạo cách biệt giàu nghèo và xung đột xã
hội mà các đề tài luôn tranh cải là: Phân chia phúc lợi xã
hội dựa trên trao đổi hay phân phối? Người dân có quyền
đòi hỏi chính quyền phân phối theo khả năng hay nhu cầu?
Chính quyền bảo vệ quyền tư hữu của người dân ở mức
độ nào? tương đối hay tuyệt đối?

Khi Mandeville cho là không thể giải quyết nghèo đói được
tận gốc vì là một thực tại xã hội không thể tránh thì
Smith nghĩ rằng nước giàu hơn khi đa số thành phần trong xã
hội khá hơn, cụ thể là người phát thư và công nhân lao
động vừa có thể mua hàng giá rẻ và được lương cao. Không
phải chỉ đóng góp của thiểu số nhà giàu mà đa số mới
tác động tăng trưởng.

Vần đề công bình chỉ có thể đặt ra trong khuôn khổ của
một xã hội tự do mà mỗi cá nhân hành động trong trách
nhiệm. Mỗi người không những tự do kết ước mà còn sẳn
sàng bồi thường các thiệt hại gây ra. Công bình trong phân
phối là một vấn đề nền tảng và đòi hỏi sự thông minh
trong thực hiện nhiều hơn là ý thức một nghiã vụ đaọ
đức. Luật pháp ổn cố là điều kiện để duy trì trật tự
xã hội và tinh thần đoàn kết đem lại việc chung sống hài
hoà. Từ đó, vấn đề công bình phân phối, theo nhu cầu hay
khả năng, mới đặt ra. Smith phê bình luật thừa kế thời
phong kiến gây bất công và đòi hỏi thực thi công bình nhiều
hơn trong việc phân chia gia sản. Đặc điểm của xã hội văn
minh là người làm quá nhiều mà lại hưởng quá ít, nên bất
công còn kéo dài và gây bất ổn xã hội.

Không phải lúc nào các quyết định kinh tế thuần lý cũng đem
lại công bình. Tăng lương cho công nhân làm giá thành sản
phẩm cao hơn, mặt hàng không có triển vọng xuất khẩu, đất
nước nghèo hơn, cuối cùng vấn đề công bình không giải
quyết được. Tranh luận này được Hume lý giải trước Smith.

Hume đề ra một mô hình quân bình ngoại thương mà các nước
giàu sẽ không sợ bị các nước nghèo cạnh tranh phá giá vì
tác dụng của nguyên tắc bình thông nhau. Có mối quan hệ giửa
khối lượng tiền tệ và mức độ giá cả các mặt hàng trong
một nước trong một thời kỳ nhất định. Gia tăng khối
lượng tiền tệ làm tăng giá lương, hàng sẽ khó xuất cảng
hơn, nhưng bù lại tiền nhiều sẽ có cơ hội đầu tư tại
các nước nghèo nơi mà giá nhân công và nguyên vật liệu rẻ.
Nhưng qua thời gian thì đầu tư sẽ có tác dụng là giá lương
và giá hàng tại các nước nghèo cũng đắt đỏ như nước
giàu. Không phải gia tăng khối lượng tiền tệ hay tăng lương,
mà chính phân công lao động quốc gia và quốc tế là giải
pháp. Để tiếp tục duy trì ưu thế ngoại thương, nước giàu
nên tập trung vào các phương thức sản xuất nặng về tư bản
và kỷ thuật trong khi nước nghèo tiếp tục theo đuổi các
phương thức sản xuất thâm dụng nhân công.

Smith tán đồng lập luận này và minh chứng là ba yếu tố
chính đem lại cường thịnh của đất nước là phân công lao
động, canh tân kỷ thuật và tự do cạnh tranh. Cùng một khối
lượng công nhân và một loại trang thiết bị, nếu biết sử
dụng hợp lý thì doanh nghiệp sẽ sản xuất được nhiều mặt
hàng hơn, dù lương công nhân tăng, nhưng giá bán hạ hơn, nên
bán được nhiều hơn và doanh nghiệp sẽ tăng doanh thu. Lương
công nhân cao mà mặt hàng có giá thành rẻ là một hiện
tượng nghịch lý nhưng lại là một thực tế cho những nước
giàu, có trình độ kỷ thuật cao, biết phân công lao động và
ngoại thương phát triển mạnh. Gia tăng năng suất sẽ giải
quyết vấn đề công bình trong từng doanh nghiệp và là cơ hội
thực hiện công bình xã hội trong trường kỳ. Do đó, cần rà
soát lại những giải pháp ngắn hạn chỉ phục vụ cho thương
giới và các nhóm lợi ích. Smith xác nhận là nước giàu có
thể mất đi một số ưu thế ngoại thương khi bị canh tranh
với các nước nghèo, nhưng không vì lý do là một nước giàu
mà nước khác phải nghèo, vì có quá nhiều yếu tố can thiệp,
nhưng giá trị sản phẩm là chính.

<h3>Giá trị sản phẩm</h3>

Smith phân biệt có hai loại giá cho sản phẩm là trao đổi và
sử dụng. Giá trao đổi do tình hình cung cầu trên thị trường
quyết định và giá của sản phẩm tuỳ theo thời gian và công
sức cần thiết làm ra. Hai lý thuyết này bổ sung cho nhau.

Smith lầm lẫn giửa giá trị sản phẩm và vấn đề phân phối
khi ông không quan tâm đến khả năng doanh nghiệp áp lực giảm
lương, ảnh hưởng phân phối và tăng giá bán giả tạo để
sinh lợi. Không như Smith mô tả, hoa lợi của điền chủ, doanh
lợi của doanh nghiệp và lương công nhân có tác động nhau
trong việc định giá sản phẩm. Doanh nghiệp trong thời kỳ
bộc phát không cần ép giá lương công nhân mà vẫn tăng doanh
thu vì do thoả hiệp giá bán với các doanh nghiệp khác.

Một sản phẩm là do kết hợp giửa ba yếu tố lao động,
đất đai và tư bản. Từ đó, ông phân biệt lao động sản
xuất và không sản xuất, tiêu thụ của tư nhân vả đầu tư
của doanh nghiệp. Với tất cả những hình thức đầu tư khác
nhau doanh nghiệp tạo nên giá trị. Trong khi Marx cho giá trị lao
động của công nhân là quan trọng nhất trong tiến trình sản
xuất và giá trị thặng dư chỉ do công nhân mang lại. Không
như Smith, Marx gộp chung giá trị đóng góp của điền chủ và
nhà tư bản trong các tư liệu sản xuất.

Đầu tư không phải nhằm trả lương thấp cho công nhân và mua
rẻ nguyên vật liệu mà là cạnh tranh về giá trị sản phẩm
có hiệu năng hơn. Chiến lược loại bỏ đối thủ của doanh
nghiệp nhắm hạ giá thành, nâng phẩm chất, bán giá rẻ, tăng
mức cung và tạo sức cầu mà gia tăng năng suất, canh tân kỷ
thuật và phát huy ưu thế cạnh tranh là yếu tố quyết định.
Sự thịnh vượng của đất nước cũng cần những biện pháp
tương tự, nhưng theo đuổi thuyết trọng thương không là giải
pháp lý tưởng.

(còn tiếp)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130103/su-thinh-vuong-cua-dat-nuoc-ly-thuyet-adam-smith-va-thuc-te-viet-nam-1),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét