Người Do Thái: Dân tộc nhỏ, nền văn minh lớn

Từ lâu tôi đã định viết chủ đề về người Do Thái trên
VFpress.vn. Tiếp theo bài viết về nước Nhật và nhân việc
George Soros thăm Việt Nam, hôm nay tôi xin giới thiệu về đất
nước Do Thái. Một dân tộc nhỏ nhưng tác động đến rất
lớn toàn bộ văn minh của trái đất. Từ cuộc sống, khoa
học, làm giàu… đến tư tưởng mọi thứ đều có sự tác
động của người Do Thái. Văn minh Do Thái không để lại
những kiến trúc nổi tiếng như Kim tự tháp, điện Pantheon
hoặc Vạn lý Trường thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di
sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể
sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với
văn minh toàn nhân loại.

Dường như là, mỗi khi bàn luận về sự thông minh có di
truyền không, người ta đều nêu lên dẫn chứng về giải Nobel
và người Do Thái. Và cũng như một thông lệ, hàng năm sau khi
công bố giải, người ta đều hỏi người Do Thái chiếm bao
nhiêu phần trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này
không hề nhỏ.

Ví dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011, lập tức có
một bài báo nhan đề "<em>Bà mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm
trong bảy Nobel gia là người Do Thái</em>". Đó là: Ralph Steinman
và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và Adam G. Ross
- giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman - giải Nobel về Hoá
học.

Dân tộc Do Thái là một trong những dân tộc có nền văn hoá
và lịch sử lâu đời nhất của nhân loại, ra đời cùng với
thời kỳ văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà và văn minh Hy
Lạp-La Mã thời cổ đại. Nhưng lịch sử bắt họ phải chịu
một số phận không may mắn, bị các bộ tộc và các lãnh chúa
khác xâm chiếm đất đai và xua đuổi dưới những lý do tôn
giáo. Từ đó họ phải sống tha hương, từng nhóm kéo nhau đi
khắp mọi nơi trên thế giới để duy trì sự sinh tồn, vượt
qua những định mệnh nghiệt ngã của lịch sử.

Trên 2000 năm qua, đi đến đâu họ cũng tỏ ra là một dân tộc
có sức sống dẻo dai, không bị đồng hoá và ý thức vươn
lên mãnh liệt.Trong công việc họ cần cù, kiên trì và quyết
tâm đạt những mục đích mình theo đuổi. Bởi vậy, gần như
sống ở đâu họ cũng thành công.

Sự thành đạt và khôn ngoan của họ nhiều khi bị thành kiến
và kỳ thị. Trong Thế chiến II, dưới chế độ phát xít, khi
Hitler đề cao thuyết "người Đức là một dân tộc thượng
đẳng". Hitler rất sợ sự vượt trội của người Do Thái,
nên dã bắt họ sống trong các trại tập trung, đày đoạ họ
với ý đồ để họ chết dần chết mòn trong đó.

Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ.
Họ thường là những nhà khoa học lớn, những doanh nhân lỗi
lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư tưởng uyên bác,
những chính trị gia tài giỏi…

Từ năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một
giải thưởng uy tín nhất và danh giá nhất hành tinh, tôn vinh
những người có đóng góp lớn nhất cho nhân loại, có những
phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính
nhân văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an
bình hơn, tốt đẹp hơn. Người Do Thái lập tức trở thành
một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở các nước
khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước
mới thành lập cách nay không lâu của họ là Israel.

Tính đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong
Thế chiến I và II không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các
tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả các giải, ít nhất có 181
người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng máu Do
Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi
là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại.

Trong các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do
Thái chiếm lĩnh các giải Nobel trong các lĩnh vực như sau:

- Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21%
- Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42%
- Văn chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12%
- Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27%
- Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%.

Cần lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu
(cả trong và ngoài nước) nghĩa là chưa đến 0,2% dân số thế
giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là gần 8 tỷ với
trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người
của người Do Thái so với bình quân của thế giới cao hơn
đến 11.950%. Song đó chỉ là so sánh cho vui thôi, chứ con số
này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao nhiêu điều
kiện khác nữa. Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục
năm gần đây đổ dồn về Mỹ. Song ít ai để ý, trong những
"giải Nobel mang thương hiệu Mỹ" thì người Mỹ gốc Do
Thái chiếm một phần quan trọng.

Xin nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là
người gốc Do Thái, Nobel Vật lý - 37%, Nobel Y học & Sinh lý
học - 42%, Nobel Kinh tế - 55%, Nobel Văn chương - 27%, Nobel Hoà
bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của cộng đồng Do Thái
chỉ bằng 2% của Mỹ.

Trí tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ở nam giới mà cả nữ
giới. Trong 4 ngành khoa học có 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà
gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các ông. Nếu không kể
giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các
nhà khoa học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải
chúng ta đã nói nhiều là giải Fields thì các nhà toán học
trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành tựu
suốt đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%.

Các Nobel gia người Do Thái cũng nằm trong một số "điều
đặc biệt" của giải. Chẳng hạn Elia Wiesel, người sống
sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải Nobel
Hoà bình năm 1986. Nhà Nobel cao tuổi nhất khi được trao giải
là người Balan gốc Do Thái, Leonid Hurwicz, giải Nobel kinh tế
2007 năm ông đã 90. Nobel gia sống thọ nhất là bà Rita
Levi-Montalcini, giải Nobel Sinh lý học 1936 hiện đã vượt qua
tuổi 102 hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được
nhận giải là Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà
khoa học được bình chọn là nhà khoa học vĩ đại nhất của
thế kỷ XX - Albert Einstein – cũng là người Mỹ gốc Do Thái.

<h2>Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế</h2>

Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là
dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng
có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên
mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những
thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân
tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, "ăn nhờ ở
đợ" suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu
(trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước
đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm
được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất,
tài nguyên thiên nhiên...

Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm
được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của
người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý
thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:

Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là
người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh
hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá
trình trình tiến hóa của nhân loại:

- Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra "giá trị thặng dư"
và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay
thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người
Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);

- Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín
nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức
Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong
giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ
toàn cầu;

- Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu
chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác
dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;

- 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người
Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton
Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen
thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết
của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp
dụng...

Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không
nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là
người Do Thái. Đơn cử vài người:

- Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư;
đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại
hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật
Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy)
để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận
hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II
Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy
đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ
Nhật "làm hộ" chuyện ấy.

- Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ, với tài sản cá
nhân lên tới 36 tỷ USD. Nếu được chính phủ VN cho phép thì
khả năng Sheldon Adelson sắp mở sòng bạc tại thành phố Hồ
Chí Minh.

- George Soros giàu thứ 22 ở Mỹ (19 tỷ USD) không chỉ nổi
tiếng về giàu có mà ông còn là bậc thầy về những phi vụ
đầu cơ đi vào lịch sử...

- Michael Bloomberg có tài sản riêng 22 tỷ USD, làm thị trưởng
thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng
mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng
trong giới kinh tế.

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do
Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công
nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số
doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu
bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng
đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình
của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính
Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói "Tiền nước Mỹ nằm
trong túi người Do Thái". Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông
chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.

Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên
vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh
tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu,
GDP đầu người năm 2011 khoảng 31.500 USD (nguồn web CIA.gov).
Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng
vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm
triệu người Ả Rập xung quanh...

<h2>Nguyên nhân do đâu?</h2>

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý
thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu
tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ
truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.

Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ
ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái
(Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới
ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến
dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ,
truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và
bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm
qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân
tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất
khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công
trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và
hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết
các lĩnh vực trí tuệ.

Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người
Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được
đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ
và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các
nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh
điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn
cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới
thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.

Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí
tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài
sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi
mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy
con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ
khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta
thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ
đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu
cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền
đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề.
Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng
đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ
cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng
như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.

Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền
bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo
Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm. Có lẽ sở hữu tài
sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời
sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con
người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các
quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học
cổ điển Đức từng nói: "<em>Nhân quyền nói cho tới cùng
là quyền (sở hữu) về tài sản.</em>" Chính Marx cũng nói:
Chủ nghĩa cộng sản "là sự phục hồi chế độ sở hữu
của cá nhân trên một hình thức cao hơn". Rõ ràng, chỉ khi
nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy
mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân
quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có
bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc
làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.

Triết gia Max Weber viết: "<em>Đạo Ki-tô không làm tốt bằng
đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.</em>" Quả vậy,
Chúa Jesus từng nói: "<em>Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào nước Chúa</em>" (Tân Ước, Mathew 19:24), ý
nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên
thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận
với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh
thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là
bẩn thỉu.

Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: "<em>Vàng ở
xứ này rất quý</em>" (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc,
coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người
Do Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện
ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho
vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này
"có rất nhiều súc vật, vàng bạc" (Genesis 13:2). Thượng
Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng
Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt
nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập
cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia
đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu
Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập
được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở
thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông
thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.

Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.
Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và
bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao
tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống
nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép,
gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện
pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và
cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại
– về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một
biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định
nào. Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là
bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra
tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày
nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền
dễ hơn ngành ngân hàng?).

Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến
người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết
Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh
ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca
xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền
và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch
của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm
giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho
vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống
cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị
bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30.
Người Đức có câu ngạn ngữ "<em>Chẳng con dê nào không có
râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.</em>"
Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với
người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa
bỏ chủ nghĩa Do Thái. Marx nói như vậy nghĩa là đã thừa
nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản,
một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và
làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay.
Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết
và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa.

Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn
bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người
đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài
sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm
cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng
không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp
kẻ khác... Có thể hiểu "Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài
sản của mình" nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của
mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người
nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái,
bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao
cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả
cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.

Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con
người; nói "nặng nề" vì người giàu có trách nhiệm to
lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo
mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện.
Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết
kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong
tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà
giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có
thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có
như thế.

Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa
vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ
ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai
nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia
khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định
nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu
bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay
lãi …

Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận
quyền tư hữu tài sản. Kinh Talmud viết: ai nói "<em>Của tôi
là của tôi, của anh là của anh</em>" (mine is mine and yours is
yours) thì là người bình thường (average); nói "Của tôi là
của anh, của anh là của tôi" thì là kẻ ngu ngốc; nói
"Của tôi là của anh và của anh là của anh" thì là ngoan
đạo (godly); ai nói "Của anh là của tôi và của tôi là của
tôi" là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư
hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản
của người khác.

Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ
quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu
tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải
đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi
người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác
của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là
để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của
riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá
trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự
giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt
đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá
nhân.

Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng
hạn:

- Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;

- Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1
cái;

- Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín
dụng) là mất tất cả;

- Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;

- Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo
đi;

- Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;

- Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…

So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo
Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô
là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một
trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người
Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về
vấn đề này).

Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và
tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của
đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân
loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa
bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho
dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn
năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu
hết các hoạt động của loài người.

Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác
động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn
giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái. Cuối cùng,
nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Hebrew của
phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh
Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới –
văn minh Ki-tô giáo, sau rốt trở thành nền văn minh phương Tây
rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể
nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều
đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử cực kỳ phức tạp,
lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh Hebrew, và bây giờ
đã đến lúc loài người nên sửa chữa sai lầm đó.

Nguồn: Thành viên Trần Hoàng Duy - diễn đàn VFpress.vn, blog dân
tộc do thái.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130101/nguoi-do-thai-dan-toc-nho-nen-van-minh-lon),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét