Alan Greenspan - Vàng và Tự do kinh tế

<em><strong>Bài viết được in trong thư ngỏ "Chủ nghĩa khách
quan" của Ayn Rand vào năm 1966 và được tái bản trong tác
phẩm Capitalism: The Unknown Ideal của bà vào năm 1967.</strong></em>

Dù có những quan điểm khác nhau, nhưng tất cả những người
ủng hộ vai trò của nhà nước trong một nền kinh tế (statist
[1]) đều có một đặc điểm chung, đặc điểm này đã đoàn
kết họ lại, đó là sự cự tuyệt bản vị vàng [2] tới
mức cuồng tín. Dường như họ đã nhận ra – thậm chí là
rõ rệt và tinh vi hơn so với nhóm bảo vệ chủ thuyết thị
trường tự do (laissez-faire [1]) – rằng vàng và tự do kinh tế
là hai phạm trù không thể tách rời, rằng vàng là công cụ
bổ trợ cho thị trường tự do, cái này mặc nhiên dẫn đến
cái kia và cả hai đều là điều kiện cần phải có của nhau.

Để hiểu nguồn gốc của sự cự tuyệt trên, trước hết
chúng ta cần làm rõ vai trò đặc biệt của vàng trong một xã
hội tự do.

Tiền tệ là mẫu số chung của mọi giao dịch kinh tế. Chính
nhờ vai trò là hàng hóa trao đổi trung gian trong giao dịch,
tiền được chấp nhận là một công cụ thanh toán cho hàng hóa
hoặc dịch vụ bởi tất cả chủ thể tham gia vào nền kinh tế
trao đổi, nên do đó có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn
xác định giá trị thị trường cũng như công cụ dự trữ
của cải (ví dụ tiền là phương thức để tiết kiệm).

Sự hiện diện của loại hàng hóa đặc biệt trên là điều
kiện cần thiết để hình thành một nền kinh tế có sự phân
chia lao động. Nếu không có một loại hàng hóa mang giá trị
khách quan được chấp nhận rộng rãi như tiền tệ, con người
sẽ phải phụ thuộc vào phương thức trao đổi
hàng-đổi-hàng, hoặc buộc phải tự cung tự cấp bằng tư
liệu sản xuất cá nhân và chấp nhận mất đi lợi thế không
thể tính toán được của chuyên môn hóa. Nếu con người không
có một phương thức để dự trữ của cải (như gửi tiết
kiệm chẳng hạn), hoạt động trao đổi và lên kế hoạch lâu
dài sẽ là bất khả thi.

Phương tiện trao đổi nào sẽ được tất cả các chủ thể
tham gia vào nền kinh tế chấp nhận không phải được xác
định một cách tùy tiện. Trước hết, phương tiện trao đổi
phải có độ bền cao. Trong thời kỳ sơ khai khi xã hội còn
khan hiếm của cải, lúa mì có thể được xem là phương tiện
trao đổi tồn tại đủ lâu cho quá trình trao đổi, do quá
trình đó chỉ diễn ra trong và ngay sau vụ gặt, và cũng không
có giá trị thặng dư để dự trữ. Tuy nhiên ở các xã hội
giàu có, văn minh hơn – nơi việc dữ trữ của cải đóng vai
trò quan trọng – phương tiện trao đổi phải là vật có độ
bền cao. Thông thường sẽ là kim loại, bởi chúng có tính
đồng đều và có thể phân chia được: mỗi đơn vị đều
giống hệt nhau và có thể kết hợp lẫn tạo ra bất kỳ số
lượng nào mong muốn. Ngược lại, đá quý lại không có tính
chất đồng đều và phân chia được. Quan trọng hơn, vật
được chọn làm phương tiện thanh toán phải có giá trị cao.
Khao khát của con người đối với các vật xa xỉ là không có
giới hạn, do đó, hàng hóa xa xỉ luôn được xã hội chấp
nhận rộng rãi và có nhu cầu cao. Nếu như các xã hội thiếu
thốn lương thực xem lúa mì là hàng hóa xa xỉ thì nó lại
không có nhiều giá trị trong các xã hội thịnh vượng. Bình
thường thuốc lá không được xem là tiền, nhưng trong thời
kỳ hậu thế chiến thứ Hai ở châu Âu, nó là một loại hàng
hóa xa xỉ. Cụm từ "hàng hóa xa xỉ" ám chỉ sự khan hiếm
và giá trị đơn vị cao. Chính nhờ giá trị đơn vị cao, hàng
hóa đó với số lượng ít nhưng có giá trị lớn nên dễ dàng
di chuyển. Ví dụ: một ounce vàng tương đương đến nửa tấn
gang đúc thổi.

Trong các giai đoạn đầu của nền kinh tế tiền tệ, có khá
nhiều phương tiện trao đổi được sử dụng bởi khi đó
không ít các vật liệu có thể đáp ứng điều kiện về
phương tiện trao đổi đã nói ở trên. Tuy nhiên, theo thời
gian, một trong số các loại vật liệu đó sẽ thay thế dần
các loại còn lại khi được chấp nhận ngày càng rộng rãi.
Lựa chọn về công cụ dự trữ giá trị cũng sẽ hướng đến
loại phương tiện trao đổi đang được chấp nhận rộng rãi
nhất, và theo đó càng làm phương tiện đó càng trở nên phổ
biến. Xu hướng dịch chuyển tiếp tục diễn ra cho đến khi
chỉ còn tồn tại một phương tiện trao đổi duy nhất. Việc
sử dụng duy nhất một phương tiện trao đổi cũng có lý do
tương đương vì sao nền kinh tế tiền tệ ưu việt hơn nền
kinh tế trao đổi hàng-đổi-hàng: giúp cho hoạt động giao
dịch khả thi trên quy mô rộng lớn hơn rất nhiều.

Tùy thuộc vào bối cảnh và mức độ phát triển của một
nền kinh tế, phương tiện trao đổi duy nhất đó có thể là
vàng, bạc, vỏ sò, gia súc hay thuốc lá. Trên thực tế, tất
cả đối tượng nêu trên đều đã được xem là phương tiện
trao đổi trong quá khứ. Thậm chí ở thế kỷ hiện tại, hai
trong số loại hàng hóa trung gian trao đổi lớn nhất, vàng và
bạc đã được sử dụng làm phương tiện trao đổi quốc tế
- với vàng là phương tiện chiếm áp đảo. Vàng, sở hữu giá
trị sử dụng lẫn tính thẩm mỹ cao, đồng thời là một kim
loại tương đối hiếm, nhìn chung chiếm ưu thế hơn hẳn so
với các phương tiện trao đổi còn lại. Từ đầu thế chiến
thứ nhất cho đến nay, vàng gần như được xem là phương
tiện trao đổi tiêu chuẩn duy nhất của thế giới. Tuy nhiên,
nếu toàn bộ hàng hóa và dịch vụ được chi trả bằng vàng,
các phi vụ thanh toán có giá trị lớn sẽ rất khó để thực
hiện, đồng thời điều này có thể hạn chế mức độ phân
công lao động và chuyên môn hóa của xã hội. Do đó, một
giải pháp hợp lý cho mặt bất cập của phương tiện trao
đổi này là hình thành một hệ thống ngân hàng và công cụ
tín dụng (giấy bạc ngân hàng và hạn mức giữ vàng) có vai
trò thay thế nhưng đồng thời cũng có thể chuyển đổi thành
vàng.

Một hệ thống ngân hàng tự do dựa trên vàng sẽ có khả năng
mở rộng tín dụng, và qua đó phát hành giấy bạc ngân hàng
(tiền tệ) và dự trữ vàng, dựa trên nhu cầu sản xuất của
nền kinh tế. Các cá nhân sở hữu vàng trong xã hội được
khuyến khích, thông qua lãi suất được ngân hàng chi trả, gửi
vàng vào ngân hàng (và ký séc dựa trên số vàng gửi giữ). Vì
khả năng tất cả người gửi giữ đồng loạt rút vàng của
họ ra khỏi ngân hàng vào cùng một thời điểm là rất hiếm,
ngân hàng chỉ cần giữ lại một phần trong tổng số vàng ký
gửi của khách hàng làm mức dự trữ bắt buộc. Điều này cho
phép ngân hàng cho vay vượt mức dự trữ vàng của mình (như
vậy có nghĩa ngân hàng đang nắm quyền sở hữu đối với
vàng nhiều hơn là ý nghĩa vàng giữ vai trò đảm bảo an toàn
cho mức dự trữ). Dẫu vậy, mức cho vay của ngân hàng cũng
không thể tùy tiện: ngân hàng phải cân nhắc mức này trong
mối liên hệ với lượng vàng dự trữ và "sức khỏe" các
dự án đầu tư của nó.

Khi ngân hàng cấp tín dụng cho các hoạt động kinh doanh hiệu
quả và mang lại lợi nhuận, ngân hàng sẽ nhanh chóng thu hồi
lại các khoản cho vay của mình, nhờ vậy tín dụng ngân hàng
tiếp tục tăng trưởng và luôn có sẵn ở mức an toàn. Nhưng
khi hoạt động kinh doanh không hiệu quả, ít lợi nhuận và
chậm thanh toán các khoản vay, một thời gian không lâu sau ngân
hàng nhận thấy dư nợ vượt hơn lượng vàng dự trữ. Lúc
này, ngân hàng bắt đầu điều chỉnh lại hoạt động cho vay
của nó – thông thường bằng cách tăng lãi suất cho vay. Kết
quả là nguồn vốn dành cho các hoạt động kinh doanh sẽ thu
hẹp lại, đồng thời các con nợ hiện tại buộc phải cải
thiện hiệu quả kinh doanh trước khi có thể tiếp cận thêm
nguồn vốn trong tương lai. Do đó, dưới cơ chế bản vị vàng,
hệ thống các ngân hàng tự do sẽ đóng vai trò là người bảo
đảm cho sự ổn định và phát triển cân bằng của nền kinh
tế. Một khi vàng được công nhận là phương tiện trao đổi
ở hầu hết hay toàn bộ các quốc gia trên thế giới, một hệ
thống tiêu chuẩn tự do và không bị can thiệp của vàng có
tác dụng hỗ trợ quá trình phân công lao động trên toàn cầu
và mở rộng thông thương quốc tế. Mặc dù đơn vị trao đổi
(đô-la Mỹ, bảng Anh, đồng franc Pháp, v.v…) thay đổi ở mỗi
nước, trong điều kiện tất cả đều được xác định bởi
vàng, nền kinh tế của mọi quốc gia đều vận hành như nhau
– miễn là không có rào cản nào đối với thương mại hay
sự tách nghẽn dòng lưu thông vốn. Tín dụng, lãi suất, và
giá cả có xu hướng giống nhau ở tất cả các quốc gia. Ví
dụ, nếu ngân hàng của một nước có chính sách tín dụng quá
lỏng lẻo, lãi suất ở quốc gia đó sẽ hạ, qua đó khiến
người sở hữu vàng sẽ chuyển sang ngân hàng ở quốc gia có
mức lãi suất cao hơn để gửi giữ vàng. Sự chuyển dịch này
sẽ nhanh chóng dẫn đến một tình trạng thiếu hụt vàng dự
trữ ở quốc gia có chính sách tín dụng lỏng lẻo, lúc này
buộc nó phải thắt chặt tín dụng để có thể lấy lại mức
lãi suất cao có khả năng cạnh tranh với quốc gia khác.

Thế giới vẫn chưa thành lập được một hệ thống ngân hàng
tự do đầy đủ và một cơ chế bản vị vàng ổn định. Tuy
nhiên, trước Thế chiến thứ nhất, hệ thống ngân hàng ở
Mỹ (và ở hầu hết các nơi khác trên thế giới) đều dựa
trên vàng; và mặc dù thỉnh thoảng vẫn có sự can thiệp của
nhà nước, nhìn chung ngành ngân hàng vẫn tự do nhiều hơn là
bị kiểm soát. Sau một thời gian nhất định, do tăng trưởng
tín dụng quá nhanh, dư nợ chạm mốc giới hạn của mức dự
trữ vàng, các ngân hàng buộc phải đẩy lãi suất cho vay lên
cao, tín dụng bị cắt giảm, và hệ quả là nền kinh tế
bước vào một giai đoạn khủng hoảng sâu tạm thời (so với
cuộc khủng hoảng năm 1920 và 1932, tình trạng suy thoái trước
Thế chiến thứ nhất ít nghiêm trọng hơn hẳn). Chính nhờ
mức giới hạn của lượng vàng dự trữ mà các hoạt động
mở rộng kinh doanh mất cân đối đã được kìm hãm lại
trước khi chúng trở nên trầm trọng hơn và có thể dẫn đến
một thảm họa như hậu Thế chiến thứ nhất. Giai đoạn để
các ngân hàng điều chỉnh lại hoạt động tín dụng của
chúng tương đối ngắn, do đó nền kinh tế nhanh chóng khôi
phục lại một nền tảng ổn định để tiếp tục phát

Tuy nhiên, "bài thuốc" chữa trị cũng sai như chính cách căn
bệnh được chẩn đoán: nếu sự thiếu hụt lượng vàng dự
trữ ở ngân hàng là nguyên nhân gây ra suy thoái kinh tế - theo
lập luận của các học giả kinh tế thuộc chủ thuyết can
thiệp (economic interventionists) – vậy tại sao không tìm cách
nâng mức dự trữ ở các ngân hàng lên để không còn xảy ra
tình trạng thiếu hụt? Họ cho rằng nếu các ngân hàng có thể
cấp tín dụng không giới hạn, khi đó hoạt động kinh doanh
sẽ không bao giờ trì trệ. Và thế là Hệ thống Dự trữ Liên
bang đã ra đời vào năm 1913. Hệ thống này được tạo nên
bởi 12 ngân hàng Dự trữ Liên bang vùng, trên danh nghĩa thuộc
sở hữu tư nhân nhưng thực tế do nhà nước cấp vốn, kiểm
soát và hỗ trợ. Hoạt động cung cấp tín dụng ở các ngân
hàng này trên thực tế (tuy không được quy định bằng văn
bản pháp lý) có nguồn cung ứng từ tiền thuế của nhà nước
liên bang. Về cơ bản, chúng ta vẫn sử dụng bản vị vàng; cá
nhân vẫn có thể tự do sở hữu vàng, đồng thời vàng vẫn
tiếp tục được dùng làm công cụ dự trữ tại các ngân
hàng. Nhưng mặt khác, giờ đây song song với vàng, tín dụng do
nhóm ngân hàng Dự trữ Liên bang cung cấp ("dự trữ bằng
giấy tờ có giá" – "paper reserves" ) đã trở thành nguồn
thanh toán hợp pháp cho các khách hàng gửi giữ vàng.

Khi hoạt động kinh doanh ở Hoa Kỳ thu hẹp nhẹ trong năm 1927,
Cục Dự trữ Liên bang đã tạo ra phương thức dự trữ bằng
giấy tờ có giá với hi vọng có thể tránh được một tình
trạng thiếu hụt dự trữ có thể xảy ra cho các ngân hàng. Tuy
nhiên, nghiêm trọng hơn, Cục Dự trữ Liên bang còn trợ giúp
Anh Quốc – nước vào thời điểm đó đang để mất vàng về
tay chúng ta vì Ngân hàng nước Anh nhất quyết không tăng lãi
suất theo đúng quy luật thị trường (vì điều này không có
lợi về mặt chính trị). Lập luận của những người đứng
đầu như sau: nếu Cục Dự trữ Liên bang bơm một lượng lớn
dự trữ giấy tờ có giá vào các ngân hàng ở Mỹ, lãi suất
trong nước sẽ hạ xuống một mức tương thích với mức lãi
suất ở Anh; điều này sẽ giúp nước Anh không để mất vàng
nữa, đồng thời tránh được một phen bẽ mặt chính trị vì
phải nâng mức lãi suất lên cao. Và "Cục" đã thành công;
nước Anh không còn mất vàng, nhưng ngược lại nền kinh tế
của cả thế giới đã gần như bị hủy hoại. Lượng tín
dụng thừa thãi mà Cục Dự trữ bơm vào nền kinh tế bắt
đầu tràn qua thị trường chứng khoán, để rồi tạo ra tâm
lý đầu cơ khắp nơi. Một cách muộn màng, các quan chức của
Cục Dự trữ Liên bang cố gắng giảm đi lượng dự trữ dư
thừa, cuối cùng họ cũng thành công trong việc kìm hãm làn
sóng nở rộ của hoạt động đầu cơ. Tuy nhiên mọi chuyện
đã quá trễ: đến năm 1929, bất ổn do hoạt động đầu cơ
gây ra là quá lớn đến nỗi động thái kiểm soát lượng dự
trữ như trên của Cục chỉ làm trầm trọng thêm xu hướng
cắt giảm chi tiêu và hệ quả kéo theo là niềm tin đối với
hoạt động kinh doanh bốc hơi. Kết cục, nền kinh tế Mỹ sụp
đổ hoàn toàn. Tình hình ở Anh còn nghiêm trọng hơn nữa. Thay
vì chấp nhận khắc phục hậu quả của những sai sót trước
kia, nước này bãi bỏ hoàn toàn cơ chế bản vị vàng vào năm
1931- một quyết định đã xé tan tành những hi vọng còn sót
lại và gây nên sự đổ vỡ dây chuyền của các hệ thống
ngân hàng toàn cầu. Kinh tế thế giới rơi vào cuộc Đoại Suy
thoái trong suốt những năm 1930.

Bằng một lập luận tương tư với thế hệ trước đó, một
nhà nghiên cứu tin rằng bản vị vàng chính là nguyên nhân
chính gây ra bê bối tín dụng để rồi đến lượt nó dẫn
đến cuộc Đại Suy thoái. Họ cho rằng nếu bản vị vàng
không tồn tại, khi Anh Quốc bãi bỏ việc thanh toán bằng vàng
vào năm 1931, hệ thống ngân hàng của cả thế giới đã không
bị sụp đổ như vậy (Điều mỉa mai là, kể từ năm 1913 cho
đến nay, thứ chúng ta sử dụng không chỉ có mỗi bản vị
vàng, mà đó là sự pha trộn bản vị vàng với các tiêu chuẩn
khác; thế nhưng chỉ có vàng mới đáng bị lên án mà thôi.)

Tuy nhiên, dù ở bất kỳ hình thức nào, sự cự tuyệt đối
với vàng từ số lượng các tiếng nói đang ngày một lớn
dần ủng hộ nhà nước phúc lợi đều xuất phát từ một
nguyên nhân sâu xa khó nhìn thấy hơn: đó là việc họ đã
nhận ra bản vị vàng và thâm hụt ngân sách (dấu hiệu đặc
trưng của nhà nước phúc lợi) là hai phạm trù không thể đi
đôi với nhau. Bỏ qua hết các thuật ngữ bác học, một nhà
nước phúc lợi về bản chất không khác gì một cơ chế mà
chính phủ sử dụng nhằm tịch thu của cải do các thành viên
có ích của xã hội làm ra để cung ứng cho các chương trình
phúc lợi. Một số lượng lớn của cải tịch thu đến từ
việc đánh thuế. Nhưng những người ủng hộ nhà nước phúc
lợi cũng nhanh chóng nhận ra rằng nếu muốn duy trì quyền lực
chính trị, các sắc thuế buộc phải hạn chế và do đó, lúc
này chính phủ buộc phải chi tiêu thâm hụt ngân sách lớn, như
vay tiền thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ để có
thể tài trợ cho các chương trình phúc lợi trên quy mô lớn.

Dưới sự điều chỉnh của bản vị vàng, lượng tín dụng mà
một nền kinh tế có thể cung cấp được quyết định bởi
các tài sản hữu hình của nền kinh tế đó, vì mọi công cụ
tín dụng xét cho cùng đều là tuyên bố nắm giữ tài sản
hữu hình. Tuy nhiên, trái phiếu chính phủ không được xác
định bởi tài sản hữu hình mà chúng chỉ là lời hứa sẽ
chi trả cho người nắm giữ trái phiếu bằng tiền thuế của
chính phủ, đồng thời chúng cũng không được thị trường
tài chính dễ dàng đón nhận. Chính phủ chỉ có thể bán trái
phiếu với số lượng lớn ra công chúng trong điều kiện lãi
suất của trái phiếu phải cao hơn lãi suất ngân hàng. Do đó,
khi bản vị vàng hiện diện, tình trạng thâm hụt ngân sách
được hạn chế xuống mức rất thấp. Ngược lại, việc bãi
bỏ bản vị vàng sẽ tạo điều kiện cho phía ủng hộ nhà
nước phúc lợi thông qua hệ thống ngân hàng mở rộng tín
dụng không giới hạn. Để thực hiện mục tiêu trên, họ đã
tạo ra công cụ dự trữ bằng giấy tờ có giá, mà cụ thể
là trái phiếu chính phủ. Qua nhiều thủ tục phức tạp, các
ngân hàng sẽ chấp nhận loại giấy tờ này như một tài sản
gửi giữ thay thế cho vàng.

Những người nắm giữ trái phiếu chính phủ hoặc tài khoản
gửi giữ (bank deposit) được tạo ra bởi công cụ dự trữ
bằng giấy tờ có giá tin rằng họ đang có quyền sở hữu
đối với một tài sản thực tế. Tuy nhiên, sự thật là lúc
này số lượng giấy tờ chứng minh quyền sở hữu lại vượt
hơn rất nhiều so với tài sản thực tế. Con người không thể
thao túng quy luật tự nhiên của cung và cầu. Khi nguồn cung
vốn (từ các giấy tờ sở hữu) tăng lên tương đối so với
nguồn cung các tài sản hữu hình trong nền kinh tế, giá cả
cuối cùng sẽ đội lên, khiến cho thu nhập của các thành viên
làm ra của cải trong xã hội sụt giảm giá trị so với hàng
hóa. Sau khi nền kinh tế đã cân bằng trở lại, người ta
nhận thấy rằng giá trị đã mất lúc này nằm ở lượng hàng
hóa được chính phủ mua lại thông qua chương trình phúc lợi
hoặc một số chương trình khác bằng tiền lãi thu được từ
các khoản cho vay của nhóm ngân hàng được tài trợ bởi trái
phiếu chính phủ.

Khi không có sự điều chỉnh của bản vị vàng, sẽ không có
cách nào bảo vệ thu nhập của xã hội khỏi tình trạng tịch
thu của cải từ chính phủ trong thời kỳ lạm phát, cũng như
sẽ không có một công cụ dự trữ giá trị an toàn. Giả sử
nếu có, chính phủ rồi sẽ buộc phải bãi bỏ nó như đã làm
với vàng. Đặt trường hợp nếu tất cả mọi người quyết
định chuyển đổi tài khoản gửi giữ của mình thành bạc,
đồng đỏ hay một loại hàng hóa nào khác và sau đó từ chối
chấp nhận séc thanh toán cho hàng hóa, khi ấy tài khoản gửi
giữ sẽ mất đi khả năng thanh toán, còn tín dụng ngân hàng do
chính phủ tạo ra sẽ không còn giá trị đối với hàng hóa.
Chính sách tài khóa của một nhà nước phúc lợi luôn đi đôi
với tình trạng thiếu biện pháp tự bảo vệ của các chủ
sở hữu của cải trong xã hội.

Đây chính là bí mật xấu xí của phe ủng hộ nhà nước phúc
lợi và cự tuyệt vàng. Nói một cách đơn giản, chính sách chi
tiêu thâm hụt ngân sách là một cơ chế tịch thu của cải xã
hội. Vàng chính là vật cản ngăn chặn quá trình ngấm ngầm
này, đồng thời nó cũng đóng vai trò bảo vệ cho quyền sở
hữu. Nếu hiểu được điều này, sẽ không khó để một
người nhìn ra nguyên nhân vì sao nhà nước phúc lợi lại nhất
quyết "không đội trời chung" với vàng đến thế.

________________________

<h2>Ghi chú của nhóm dịch giả</h2>

[1] "Statist" là những người theo chủ nghĩa nhà nước (<a
href="http://en.wikipedia.org/wiki/Statism">statism</a>). Những người
này ủng hộ vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, và họ
cho rằng nhà nước phải kiểm soát và có những kế hoạch
đối với nền kinh tế. Ngược lại với chủ nghĩa nhà nước
là những chủ nghĩa thị trường tự do (laissez-faire), những
người theo chủ nghĩa thị trường tự do ủng hộ một thị
trường tự điều chỉnh mà không có sự can thiệp của nhà
nước.

[2] <a
href="http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3n_v%E1%BB%8B_v%C3%A0ng">Bản
vị vàng</a> (gold standard) là hệ thống tiền tệ sử dụng
vàng làm đơn vị tiền tệ gốc, tiêu chuẩn.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130119/alan-greenspan-vang-va-tu-do-kinh-te),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét