Dương Trung Quốc - Nghĩ vào lúc Hiến pháp đang sửa đổi

<blockquote><strong>Nguyễn Quang Lập:</strong> Một bài viết hay
của bác Dương Trung Quốc. Nhưng có vẻ bác viết bài này cho
giới trí thức đọc chứ không phải viết cho lãnh đạo đọc.
Đảm bảo 100% trí thức Việt ( trí thức chứ không phải trí
ngủ) đều cho rằng sửa đổi hiến pháp lần này nên lấy
Hiến pháp 1946 làm gốc, vì thế bác DTQ không phải giải thích
cho họ hiểu. Vấn đề là làm sao để lãnh đạo sáng ra
được điều đó. Mà viết cho lãnh đạo thì không nên nói
vòng vo, cần phải nói rõ ra sửa đổi hiến pháp lần này nên
lấy Hiến pháp 1946 làm gốc vì a, b, c, d,.. may ra lãnh đạo
mới chú ý đọc để từ đó thức ngộ một điều
gì.</blockquote>

Câu chuyện Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp đang góp thêm
vào không khí của những ngày đầu tiên của năm mới dương
lịch 2013, cho dù những ngày giáp Tết âm lịch bận rộn đang
đến gần.

Bản dự thảo sửa đổi bản Hiến pháp năm 1992 đã được
công bố và việc lấy ý kiến của nhân dân trong vòng ba tháng
không chỉ được khẳng định bằng những kế hoạch triển
khai rộng khắp mà còn nhận được những thông điệp khích
lệ của những nhà lãnh đạo kêu gọi toàn dân hưởng ứng
với tinh thần phát huy dân chủ, không e ngại những ý kiến
khác biệt, thậm chí cho rằng không có "vùng cấm" khi đưa
ra chính kiến, mặc dù cũng không quên nhắc nhở phải cảnh
giác với những âm mưu hay nguy cơ không xuất phát từ thiện
chí và trách nhiệm cùng "diễn biến hoà bình" và nay còn có
thêm "tự diễn biến"…

Cơ quan soạn thảo cũng nhấn mạnh rằng, việc lấy ý kiến
nhân dân vốn đã là một "truyền thống" từng được thực
hiện ở cả 4 bản hiến pháp từ 1946, 1959, 1980 và 1992 nhằm
thể hiện một tinh thần cơ bản của Hiến pháp là "quyền
phúc quyết của nhân dân". Khi phân tích và so sánh các bản
hiến pháp đã từng được soạn thảo thì có một sự đồng
thuận rất cao khi cho rằng bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
mang tính "chuẩn mực", "kinh điển". Nhưng trên thực tế
thì văn kiện quan trọng này mới được thông qua ở kỳ họp
thứ hai của Quốc hội khoá I (9.11.1946) mà chưa được ban
hành. Các hiến pháp 1959 ,1992 thì mỗi văn bản phát huy được
chừng hai thập kỷ, còn Hiến pháp 1980 thì cũng chỉ duy trì
được 12 năm với vài lần sửa sang.

Tuy không hẳn là tiêu chí duy nhất, nhưng tính ổn định của
một quốc gia thể hiện bằng sức sống (tuổi thọ) của một
bản hiến pháp. Nước Mỹ là một trường hợp điển hình,
Hiến pháp chỉ có 7 điều mà tồn tại đã hơn hai trăm năm.
Người ta giải thích rằng, song hành với bản Hiến pháp ổn
định ấy là cả một năng lực rất thành thục trong việc
giải thích hiến pháp một cách rất chuyên nghiệp nhằm vận
dụng những nội dung mang tính nguyên lý vào những biến đổi
hết sức cụ thể của đời sống phát triển. Nói như người
phương Đông , đó là cái năng lực "dĩ bất biến ứng vạn
biến".

Vậy thì vì sao Việt Nam là một dân tộc, do nhiều hoàn cảnh
địa lý và lịch sử đã nổi tiếng là ứng biến giỏi, thích
nghi giỏi, cũng lấy cái bất biến để ứng với vạn biến mà
tồn tại đến ngày nay, vượt qua mọi thách thức mà Hiến
pháp dường như thiếu tính ổn định kể từ sau văn bản
đầu tiên?

<center><img
src="http://laodong.com.vn/Uploaded/havanthuong/2013_01_17/quoc%20hoi.jpg"
/></center>
<center><em>Bác Hồ chụp ảnh cùng các đại biểu Quốc hội
khóa I.</em></center>

Điều dễ thấy là Hiến pháp 1946 là văn kiện lần đầu tiên
trong lịch sử của dân tộc Việt Nam được soạn thảo, nó
chỉ kế thừa duy nhất là tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc
lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba
Đình Lịch sử ngày 2.9.1945 và nó được coi là thành tựu
trực tiếp của cuộc Cách mạng Tháng Tám giành độc lập với
ngoại bang và chấm dứt chế độ quân chủ đã từng tồn tại
cả ngàn năm ở trong nước. Cũng có thể nói, nó tựa như
Hiến pháp Hoa Kỳ bắt nguồn từ những tư tưởng của bản
"Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 hay Hiến pháp của nền
Cộng hoà Pháp bắt nguồn từ những nguyên lý của bản
"Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" gắn với cuộc cách
mạng lật đổ chế độ quân chủ 1789.

Nghĩ cho sâu xa mới hiểu được vì sao người đứng đầu
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng là người
thiết kế những ý tưởng đặt nền móng cho Hiến pháp nước
ta lại dẫn những tư tưởng cơ bản nhất của 2 bản tuyên
ngôn của hai quốc gia lập hiến trước chúng ta là Mỹ và Pháp
trong bản Tuyên ngôn Độc lập của mình. Vì thế, không chỉ
đến khi soạn thảo Hiến pháp thì thể chế (mô hình) chính
trị mới được lựa chọn mà ngay trong Tuyên ngôn Độc lập
đã xác định "Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành
chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà". Nói
cách khác là bản Hiến pháp 1946 chính là việc soạn thảo một
văn kiện nhằm chế định cái thể chế chính trị đã được
khẳng định bằng chính một cuộc cách mạng của toàn dân
để xác lập nền độc lập dân tộc, tạo cơ hội để nhân
dân có quyền quyết định vận mệnh của mình, thực hiện cái
điều sau này được thể hiện trong Hiến pháp là "quyền
phúc quyết của nhân dân".

Vì vậy nếu bằng con mắt của người chép sử mà sắp xếp
những sự kiện được vận động theo thời gian, người ta sẽ
nhận ra rằng chỉ sau khi giành chính quyền một thời gian rất
ngắn, người đứng đầu Chính phủ lâm thời đã đặt vấn
đề xây dựng Hiến pháp lên hàng đầu sau khi đã thành lập
Quốc hội.

Có một điều cũng đáng suy ngẫm rằng, vì sao nhà cách mạng
Hồ Chí Minh đã từng trải ở nước Nga Xôviết, rồi Công xã
Quảng Châu, học tập nhiều lý luận về chủ nghĩa cộng sản
với tư cách một chiến sĩ của Quốc tế Cộng sản, mà khi
giành được chính quyền trong tay thì không lựa chọn mô hình
Xôviết (mô hình đã từng một lần vận dụng một cách ấu
trĩ trong thời kỳ 1930-1931 ở Nghệ Tĩnh)?

Còn thể chế dân chủ cộng hoà được diễn giải bằng những
mục tiêu: Dân tộc – độc lập, dân quyền – tự do và dân
sinh – hạnh phúc lại chính là "Chủ nghĩa Tam dân" của nhà
lãnh đạo nổi tiếng Trung Hoa là Tôn Trung Sơn đã vận dụng
những thành tựu chính trị của thế giới- mà trực tiếp là
của nước Mỹ- cho yêu cầu của các nước còn được coi là
"nhược tiểu" trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, trong
đó có cả nước Trung Hoa giàu và đông, nhưng nghèo và lạc
hậu. Cái nguyên lý về một "nhà nước của dân, do dân, vì
dân" cũng bắt nguồn từ nền chính trị Mỹ và câu chữ ấy
được thể hiện lần đầu trong một bài diễn văn của Tổng
thống Hoa kỳ thứ 16 Abraham Lincohn.

Lựa chọn thể chế chính trị này và được thể hiện ngay
từ trong Cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh được viết như
sự đúc kết 30 năm đi khắp thế giới nhằm lựa chọn mô
hình cho sự phát triển đất nước (mà cứu nước chỉ là
mục tiêu ban đầu) của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
(1911-1941). Chính sự lựa chọn đúng đắn này đã tạo nên sự
đồng thuận rất nhanh chóng và mạnh mẽ trong nhân dân sau khi
đã giành được chính quyền.

Cần nhớ rằng, vào thời điểm tiến hành bầu cử Quốc hội
và dự thảo bản Hiến pháp đầu tiên, trên đất nước Việt
Nam mới độc lập không có chế độ "một đảng lãnh
đạo", thậm chí Đảng Cộng sản Đông Dương còn tuyên bố
"tự giải tán", đại diện công khai tham gia Quốc hội và
soạn thảo Hiến pháp chỉ còn có "Hội Nghiên cứu chủ nghĩa
Mác". Không đi sâu vào bản chất việc "tự giải tán"
của Đảng, nhưng một thực tế cho thấy ngay trong bối cảnh
phức tạp như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh- người lãnh đạo
cao nhất của Đảng- vẫn chủ động thành công trong việc xác
lập thể chế chính trị của đất nước. Hoàn toàn có thể
nói rằng, vị Chủ tịch Nhà nước Việt Nam độc lập còn
chủ động tạo ra hình thái "đa nguyên, đa đảng" với
việc chấp nhận "mời" 70 thành viên của các đảng phái
chính trị trước đó "tẩy chay" tham gia tổng tuyển cử vào
làm đại biểu Quốc hội.

Bàn về thể chế chính trị của Việt Nam trong hoài bão đất
nước giành được độc lập, trước Cách mạng Tháng Tám 1945
đã hình thành một nhóm trí thức tây học am hiểu luật học
và các ngành kinh tế xã hội tập hợp xung quanh tờ báo "Thanh
Nghị" để bàn về tương lai đất nước một khi giành
được độc lập. Chính nhiều nhân vật trong nhóm này đã chủ
động cộng tác và được mời cộng tác, rồi tham gia chính
phủ Hồ Chí Minh bởi đã có một sự đồng thuận rất cao về
sự lựa chọn thể chế chính trị của nước Việt Nam độc
lập.

Ngay cả Bảo Đại- ông vua cuối cùng của triều Nguyễn,
được đào tạo học vấn phương Tây- dù luyến tiếc ngai vàng
và không thể không lo sợ trước sức mạnh áp đảo của cách
mạng, nhưng cái mô hình dân chủ cộng hoà mà vị vua sau khi
thoái vị đã nhận làm công dân rồi trở thành cố vấn tối
cao Vĩnh Thuỵ bên cạnh Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Chính sự lựa chọn thể chế chính trị này đã không dẫn
đến những gì xảy ra như ở nước Pháp trong cách mạng tư
sản hay nước Nga trong cách mạng vô sản…, mà nó còn tạo
nên nền tảng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc mà
chúng ta được chứng kiến trong những trang sử gắn liền với
thể chế dân chủ – cộng hoà .

Nghiên cứu lịch sử xây dựng Hiến pháp năm 1946, chúng ta
thấy những yếu tố tạo nên giá trị bền vững đã diễn ra
sau sự lựa chọn thể chế được thể hiện trong bản Tuyên
ngôn Độc lập. Một quốc hội nhanh chóng được bầu theo
phương thức được coi là dân chủ và tiên tiến nhất đương
thời là phổ thông đầu phiếu có sự bình đẳng tuyệt đối
giữa nam và nữ trong việc bầu cử và tham gia Quốc hội, giữa
các tôn giáo, sắc tộc và tầng lớp xã hội (vào thời điểm
ấy ngay cả nhiều nước Châu Âu đã phát triển cũng chưa
đạt tới). Một quốc hội được triệu tập theo đúng những
thông lệ quốc tế: Người chủ trì phiên đầu là vị đại
biểu cao niên nhất lại là tín đồ đạo Thiên chúa- cụ Ngô
Tử Hạ, người dân có thể vào quan sát phiên họp tại khu
vực tầng cao nhất của Nhà hát Lớn Hà Nội. Một ủy ban
soạn thảo Hiến pháp được cử ra gồm toàn những trí thức,
sau đó được bổ sung nhiều nhà luật học… Những nội dung
soạn thảo trước khi triệu tập kỳ họp thứ hai được đưa
ra diễn đàn báo chí trao đổi.

Ngày nay, đọc lại biên bản tường thuật kỳ họp thứ hai
của Quốc hội khoá I kéo dài từ 28.10 đến 9.11.1946 thì phần
lớn thời gian dành để thảo luận về Hiến pháp (tổng cộng
7 ngày). Tham gia thảo luận rất sôi nổi với những gương mặt
rất tiêu biểu của giới trí thức đương thời (như Trần
Đình Tri (Việt Minh), Trần Trung Dung (Việt Nam Quốc dân Đảng),
Lê Thị Xuyến (Xã hội), Trần Huy Liệu (Mácxít), Hồ Đức
Thành (Cách mạng Đồng minh Hội), Hoàng Văn Đức (Dân chủ)…,
người ta nhận ra sự đồng thuận nhiều hơn sự bất đồng
của các đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau.

Sự bất đồng chủ yếu là chấp nhận thể chế dân chủ –
cộng hoà, nhưng với mô hình một viện hay hai viện. Hai ý
kiến đều là đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng không
tán thành một viện cho rằng dân chúng vì chưa được huấn
luyện nhiều về chính trị nên chế độ một viện chưa thích
hợp với nước ta (Trần Trung Dung), chế độ một viện là
độc tài của đa số (Phạm Gia Đỗ)… Cuối cùng, khi biểu
quyết thông qua Hiến pháp, trong số 242 đại biểu có mặt thì
chỉ có hai lá phiếu phản đối. Một của Phạm Gia Đỗ- ngoài
vấn đề không tán thành một viện- còn đề nghị bãi bỏ
kiểm duyệt, tự do xuất bản… Và người thứ hai lại là nhà
công thương nổi tiếng của thành phố Hải Phòng Nguyễn Sơn
Hà, lấy lý do trong Hiến pháp, quyền của các nhà tư bản
Việt nam không bằng quyền của các nhà tư bản Pháp và ngoại
quốc được Nhà nước Việt Nam thoả hiệp theo tinh thần của
Hiệp định Sơ bộ 6.3.1946)…

Bản Hiến pháp 1946 đã được thông qua bằng 240 phiếu thuận.

Và kết luận kỳ họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu:
"…Sau khi nước nhà mới được tự do 14 tháng, đã làm
được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Bản Hiến pháp ấy còn là một vết tích lịch sử Hiến pháp
đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa. Hiến pháp đó tuyên bố
với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền
tự do…".

Nhắc lại bản Hiến pháp đầu tiên để nói đến cái nền
tảng bền vững của một thể chế chính trị mà thực tiễn
cho thấy cho đến ngày nay, khi đã có 3 bản hiến pháp tiếp
theo ra đời vào những giai đoạn lịch sử sau đó, ngoài Hiến
pháp 1959 vẫn còn có sự tham gia của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
vẫn duy trì thể chế dân chủ – cộng hoà thì đến năm 1976,
quốc danh Việt Nam đã chuyển qua thể chế "Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa". Và bản Hiến pháp ngắn ngủi nhất trong lịch
sử ra đời 1980 phải coi là một bước lùi khi đã có khuynh
hướng Xôviết hoá theo mô hình của một quốc gia hùng mạnh
đang là đồng minh vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo
vệ và xây dựng đất nước- của một giai đoạn lịch sử
đầy khó khăn và chính cái mô hình ấy đã đổ vỡ hoàn toàn-
đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới, mà hệ quả của nó
chính là bản Hiến pháp 1992 mà giờ đây chúng ta đang tiếp
tục sửa đổi.

Một thoáng nhìn lịch sử cũng đủ thấy cái nền tảng của
Hiến pháp hiện tại hay tương lai, một khi xa rời cái nền
móng được tạo dựng từ cuộc cách mạng và bản Tuyên ngôn
Độc lập với thể chế dân chủ – cộng hoà mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lựa chọn, và cho đến nay nhiều quốc gia vẫn
chấp nhận như một mô hình tiên tiến. Hơn thế nữa, những
mục tiêu tưởng chừng rất khiêm nhường: Dân tộc, độc
lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc đến nay vẫn
không thay đổi, vì nó vẫn còn đang ở phía trước như những
thách thức lâu dài. Không hẳn là một bước "lùi để
tiến", mà chính đó là cách phát triển bền vững nhất của
một giá trị đã mang tính truyền thống.

<a
href="http://laodong.com.vn/Lao-dong-cuoi-tuan/Nghi-vao-luc-Hien-phap-dang-sua-doi/99644.bld">Theo
báo Lao Động</a>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130120/duong-trung-quoc-nghi-vao-luc-hien-phap-dang-sua-doi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét