Nguyễn Đình Chúc - Thế giới thơ ca Phạm Ngọc Thái

Tôi biết Phạm Ngọc Thái (PNT) từ thưở còn chiến tranh, cùng
là anh lính chiến ăn rừng ngủ rú qua ba mặt trận
Việt-Miên-Lào. Suốt chặng đường chinh chiến ấy Thái ham
viết nhật ký và làm thơ! Nhiều đêm nằm với nhau bên võng
giữa rừng, Thái vẫn thường hay đọc thơ cho chúng tôi nghe.
Được biết những cuốn nhật ký đó đã bị mất trong chiến
tranh, tác giả chỉ còn nhớ lại ít bài tản mạn, cũng là
một điều đáng tiếc.

Bọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi
đó, hết chiến tranh rồi kiểm lại cũng chỉ còn mươi đứa
sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng cái anh chàng
lính trận rất ham thích thơ thưở đó, nay đã trở thành một
nhà thơ có tên tuổi trong làng ngoài nước. Thái cũng đã cho
xuất bản 3 tập thơ, hay nhất là tập "Rung động trái tim" –
(Nxb Thanh niên 2009.)

Tôi kể một chút kỷ niệm xưa cũng chỉ là bộc bạch đôi
nét trước khi giới thiệu thơ anh! Phần nữa, qua những tập
thơ đã xuất bản và nhiều chùm thơ anh cho quảng bá trên
mạng - không khỏi ngỡ ngàng: tâm lý, tình cảm của Phạm
Ngọc Thái hôm nay đã khác với năm xưa ấy nhiều quá? Nếu
đọc ở mảng thơ tình ta nhận thấy một tâm hồn tha thiết
yêu nhưng hoang dã, mà phần nhiều đều là những mối tình dang
dở hoặc tan vỡ, tác giả nuối tiếc những kỷ niệm đã xa
xưa.

Thí dụ như bài "ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA", anh viết:


"<em>Ta lại bước lang thang trên phố
vắng
Đến mỗi gốc cây có vệt cũ em
ngồi
Tiếng hát xưa đưa bờ hồ gió thổi
Bóng với mình đi mãi tới ban mai...
Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến...
đã chia tay?</em>"


Còn bài "NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG":

"<em>Vết thương lòng không dễ đã
lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió
khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em
Người đàn bà ngậm cả vầng
trăng.</em>"

Mảng thơ tình này tôi sẽ nói kỹ hơn ở phần sau. Trong số
bài thơ khác ta lại thấy một cái bóng bảng lảng, quanh quất
cõi thiền của một người cập kề tuổi hoa niên. Có lẽ
không phải chỉ là vấn đề tuổi tác, còn do khách quan cuộc
sống và tâm trạng bởi thời thế đã làm thay đổi những suy
nghĩ, tình cảm và tâm hồn tác giả. Như trong tựa đề của
tập thơ "Người Đàn Bà Trắng" anh viết:

"<em>Tiếng chuông chùa bốn phía âm
vang
Mình lễ cả ba thiên toà phật
Người có vận! Thôi đừng oán
trách
Chuyện thơ văn vừa thực, vừa
chơi...</em>"

Một quan niệm rất thiền. Còn tựa đề cho tập Rung Động
Trái Tim thì tâm tư của nhà thơ lại hoà trộn trong cát bụi
cuộc đời:

"<em>Con sẻ hót mênh mông đồng
nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường
lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...</em>"

Để có thể nhận thức được một phần nào đó về thế
giới thơ Phạm Ngọc Thái, tôi tạm chia ra làm mấy tiêu đề
lớn cho tiện phân tích.

<h2>A/- SỰ KHÁI QUÁT HÀM SÚC TRONG THƠ</h2>

Tính hàm súc có thể nói bao trùm trong thơ Phạm Ngọc Thái, kể
cả những bài thơ viết dưới dạng triết lý đến nhiều bài
chảy theo dòng cảm xúc tự nhiên. Xin bắt đầu từ bài "CỬA
QUÁN"

"<em>Bà chủ quán
Bước lên xe mô-đéc
Đeo kính gọng vàng
Mấy cô gái
Ngồi ở lan can
Mặc toàn váy ngắn
Mùa thu rơi
Sau kính...
Anh thi sĩ
Hoá thằng gù
Nhà thờ - Đức Bà - Pa Ri!</em>"
(Tập "Người đàn bà trắng" )


Nó khái quát tới mức độ: Bài thơ được tạo thành từ 4
tứ thơ, mỗi tứ chỉ là một bức ảnh.

- Bức ảnh thứ nhất chụp về sự giàu có sang trọng.

- Bức thứ hai chụp về sự trẻ trung hoa mỹ, gợi cảm của
các cô gái (mô típ rất thời đại), qua đó để nói lên sự
quyến rũ, đam mê trong khát vọng con người.

- Bức thứ ba chụp về thiên nhiên trinh bạch và êm ả: Con
người còn hướng đến sự thanh tao, khoáng đạt của đất
trời.

- Để rồi tác giả rút ra triết lý, kết tất cả vào trong
bức ảnh thứ tư: Đó là tấm chân dung thảm hại của
"Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà, Pa Ri"... trong tiểu thuyết của
văn hào vĩ đại Vitor Hugo. Dựng lên cả tấn bi kịch cuộc
đời. Rằng, nếu dị hình dị tướng, nếu nghèo khổ quá thì
đến chân dung một con người cũng chỉ như một con vật!

Bốn bức ảnh ấy tự biến hoá, tác động lẫn nhau để lột
tả chủ đề tư tưởng trong tác phẩm của anh.

Tôi phân tích một bài thơ khác của tập "Rung Động Trái
Tim", bài "NỖI TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG". Bài thơ vẽ
cho chúng ta một bức tranh về những con người đi xuất khẩu
lao động ở nước ngoài:

"<em>Tôi sống âm thầm trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng, người vì cảnh
nghèo đi...</em>"

Nó cũng giống như một đoàn quân ô hợp tha phương kiếm
sống, nhiều mặt bị tha hoá... không khác gì lớp người ở
dưới đáy xã hội:

"<em>Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ
sống...</em>"


Gia đình ở trong nước thường vui mừng khi nhận được tiền
của mà người thân của họ từ nước ngoài gửi về, nhưng
không thấy được những nỗi đời ê chề, thậm chí tới mức
khốn nạn mà những người thân của họ đã gánh chịu. Ta hãy
nghe xem tác giả đã nói về cái giá mà những con người tha
phương đó phải chịu đựng thế nào?

"<em>Ai mang bán vàng mười giữa phiên chợ
đông (*)
Tôi tìm chắt những bụi vàng như anh lính
lê-dương lọc sàng từng đống rác (**)
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.</em>"
Câu 1 (*) - Tác giả sử dụng ý câu thơ của Nguyễn Duy: "Còn
chút vàng mười mang ra bán nốt" - nghĩa của hai chữ "vàng
mười" đó ý nói là thứ "vàng của lương tâm". Trong mâu
thuẫn hiện thực cuộc sống, nếu nghèo khổ quá thì có khi
đến cả tâm hồn cũng phải mang ra mà bán cho quỉ sứ! Huống
chi còn cả gia đình và những người thân trong nước đang chờ
họ. Nền tảng xã hội xuống cấp thì cá nhân làm sao có thể
giữ trong sạch được?

Câu 2 (**) - Tác giả phỏng theo tích truyện "Bông hồng vàng"
của nhà văn Nga Paustovski (Pau-Tốp-xki) Có người lính lê-dương
làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang chiến
trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái
nhỏ. Trước khi bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại
người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô con gái của ông ta
về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri! Trên đường về Pháp, cô bé
ngây thơ cứ ao ước có một bông hồng bằng vàng? "Bông hồng
vàng" chính là biểu tượng cho hạnh phúc của bé gái!

Những năm sau đó, cuộc sống xô đẩy anh lính lê-dương trở
thành một người quét rác nghèo hèn, sống trong túp lều xiêu
vẹo dưới gầm cầu của ngoại ô Paris. Tuy vậy, tâm trí của
người lính ấy vẫn mong muốn sẽ thực hiện được ước mơ
của cô bé. Ngày ngày khi quét qua các cửa hiệu kim hoàn,
người quét rác lại chắt lọc lấy những nắm bụi vàng mang
về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh ta tích
được một ít vàng, đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho
cô bé một bông hồng vàng nhỏ. Khi đó cô bé ấy đã trở
thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Paris!

Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho cô gái thì
người quét rác đã chết trong đói nghèo và khổ cực. Xác anh
nằm trên manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng...
sau đó đã bị người thợ kim hoàn đến lấy đi mất. Vậy
là, loại "vàng mười" (vàng lương tâm) mà nhà thơ Nguyễn Duy
đã phải đem ra chợ bán, với "vàng" mà người quét rác kia
lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời - nó cũng giống
như thứ vàng mà những người lao động đi kiếm khi họ ra
nước ngoài làm thuê:

"<em>Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau...</em>"


Khi mang ra thị trường thì vàng nào cùng loại mà giá chẳng
như nhau? Nếu đặt trên bàn giá của lương tâm ta cũng không
thể chê trách những con người lao động ấy, bởi những tình
cảm đó xuất phát từ lương tri của lương tri, như tác giả
thổ lộ:

"<em>Hạt muối xót tháng năm và
lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng
quên!</em>"

Ý thơ thật xót xa. Kịch tính bao nhiêu khi chính những con
người đó còn phải sống với nhau như giữa chốn chợ giời:

"<em>Giả dại ở đời thường mà
khôn lại trong mơ</em>"


Bài thơ đã được khai thác cả bề diện lẫn bề sâu, nó hay
lên vì "cái tôi" chảy trong máu tim tác giả hoà quyện với
hiện thực của cộng đồng. Chỉ hơn 20 câu thơ tác giả đã
phục lại không khác gì một pho tiểu thuyết, một bi kịch xã
hội và con người.

Thơ Phạm Ngọc Thái giàu triết lý, đặc điểm của tính
triết lý ấy là được vận từ đời sống vào thơ như
được chắt từ trong óc, nên cảm xúc vẫn mạnh mà không bị
gò ép. Thí dụ:

"<em>Em không biến thành đá để
hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương
Chi suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo
con-đường-lông-ngỗng-trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim
nhau!</em>"
(Người đàn bà trắng)

"<em>Bờ bãi đời người "Cuộc sống - Tình yêu"
Trái tim nhỏ em dựng cả Toà sen
chân phật tổ!
Ta cũng thể loài cua còng nơi bể
cả
Yêu thương nhiều hưởng đã bao
nhiêu?</em>"
(Em về biển)

"<em>Cuộc cờ ấy theo thời như
hội
Vàng đỏ trắng đen... thay sắc
luân hồi
Từ anh nhà thơ tới đứa ăn mày
Mấy ai tránh nổi trò sấp
ngửa.</em>"
(Viết sau đám xe tang)

"<em>Thế đó, em ơi! Tình qua không
trở lại
Xế chiều rồi mà máu tim chảy
mãi không thôi
Em có nghe gió hồ Tây đang thổi
Anh ở đây vẫn bên hồ Tây
mây trôi...</em>"
(Anh vẫn ở bên hồ Tây)


<h2>B/- PHẨM CHẤT VÀ TÍNH CÁCH NHÂN VĂN TÁC PHẨM</h2>

Lưu ý một chút ta sẽ thấy nổi lên một đặc điểm rất rõ:
Hầu như bài thơ nào của Thái cũng có thiên nhiên. Khi thì nó
được viết dưới các hàng cây, lúc ở bên hồ, trong các quán
xá của một chiều hoàng hôn hoặc dưới đêm trăng. Nhờ vào
cảnh thiên nhiên bỗng một ký ức xa xăm nào đó vụt tới
tạo thành cảm xúc thơ. Thiên nhiên không chỉ là chỗ dựa cho
những tình cảm vui, buồn trong đời thường tác giả, nó còn
là yếu tố quan trọng nuôi sống thơ anh. Như tác giả đã thổ
lộ:


"<em>Mai ta chết, các bạn bè
thân hữu
Bọc thiên nhiên mà đọc
điếu văn
Đại bàng vỗ cánh rợp trời
mưa gió
Trong không gian vào mãi xứ vô
biên...</em>"
(Viết dưới chân đài hoàn vũ)


Thơ anh đều bắt nguồn từ đời thường. Cái đời thường
ấy được khái quát bằng một sự trải nghiệm tương đối
sâu sắc: Con người với xã hội, cá nhân và thế giới. Nó
mang tính đời sống triết học, tính vũ trụ (tồn tại và cát
bụi), đời vừa thực lại vừa hư. Tuỳ theo cảnh tình nhào
luyện thành vóc thơ ca, ẩn chứa một thế giới bên trong rất
thấm thía.

Tôi xin nói thêm đôi nét về đời tư tác giả để bạn đọc
dễ cảm nhận khi đọc thơ anh! PNT sinh ra và lớn lên trong
thời chiến. Từ thưở còn trẻ anh đã phải rời bỏ đời
sinh viên đại học, từ giã Hà Nội để tiếp nhận cuộc
sống người lính ngoài chiến trường. Trong những năm tháng
chiến tranh ấy, chúng tôi đã có một số năm sống với nhau
trong cùng đơn vị. Sau này mỗi đứa phiêu bạt một nơi, cho
tới tận ngày kết thúc chiến tranh trở về Hà Nội mới lại
gặp nhau. Có lẽ vì tâm lý cũng đã mệt mỏi đường binh
nghiệp nên khi trở lại thành phố quê hương anh đã xin rời
khỏi quân ngũ, tiếp tục theo học đại học ngoại thương,
để sau này trở thành một cán bộ của ngành ngoại thương
quốc tế.

Tâm lý diễn biến của cuộc đời tác giả trong những năm hoà
bình trở lại đây cũng khá phức tạp. Khi anh trở về thì nhà
tan cửa nát, do bị bom B52 giặc Mỹ đánh vào phố Khâm Thiên
Hà Nội năm 1972, khi ấy gia đình anh sống ở đó. Rồi năm
tháng lại thêm sự chán nản bởi thời thế, Thái sống chẳng
khác gì một người đi ở ẩn, chỉ vui thú với gia đình, bạn
bè, sớm hôm bàu bạn văn chương. Tâm lý ấy đã được bộc
lộ trong nhiều bài:

"<em>Ta đã sống phần đời
sau chót
Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng
nhân gian
Một cuộc sống bình thường
bàu bạn
Nửa trăng hồ nửa gã hiền
nhân.</em>"
(Trên nấm mồ truyền thuyết)


Có lúc tác giả rơi vào một trạng thái cô đơn đến gai
lạnh:

"<em>Hãy vứt ta lên chiếc
giường phủ những nệm chăn màn...
làm từ những tế bào đói
khát
Ta không đói khát tình em
Mà đói khát con
người!</em>"

Hay là:
"<em>Một thứ ma người quen
hút khí đêm thay cho sữa mẹ
Chơi với hoa, với cá, với
chim</em>"
(Cô đơn)

Nhiều khi chỉ bàu bạn với trăng sao:

"<em>Ta! Anh thi sĩ của nhân
gian
Tạc thù với cả khối
sao trăng
Hồn hoa nâng cốc xin
dốc cạn
Dẫu chỉ mình thôi vẫn
mê man...</em>"
(Tối quán)


"Cõi thiền" cũng là một trong những phẩm chất nhân văn rất
căn bản của thơ Phạm Ngọc Thái. Trong mảng thơ đời của
anh, tính hiện thực xã hội, thời đại, có khi lại hàm chứa
cả những quan niệm vũ trụ đầy bí ẩn. Tôi xin phân tích cụ
thể vào một số bài thơ.

<span class="underlined-text">1 EM BÁN XOÀI</span> - Hình ảnh nhân
vật trong thơ đã được tác giả nghén thai từ những ngày sau
chiến tranh, khi anh vẫn còn là một sĩ quan trên con đường binh
nghiệp. Trong một buổi chiều tối lang thang trên bãi biển của
thành phố Nha Trang, tác giả đã gặp một cô gái, nhiều cô
gái bán xoài - để rồi mãi sau này khi nỗi lòng có nhiều
trắc ẩn, kỷ niệm bao năm tháng qua lại trở về và bài thơ
đã ra đời:

"<em>Em bán xoài đi đêm trên cát
trắng
Bãi biển chập chờn kiếp đời
các cô gái lang thang</em>"

Đó là những thân phận nổi trôi sau một cuộc chiến tranh,
những kiếp đời cát bụi. Nó nhỏ bé, côi cút trong một biển
sống đầy sóng dữ chỉ muốn nuốt chửng lấy nó. Những
người con gái thân phận lạc loài, linh hồn gần như không có
nơi bám víu:

"<em>Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám
mây qua?</em>"

Cái thế giới ấy giống như:... vòng thiên la địa võng- Mặc
dù sự tồn tại của thế giới đó phải nhờ vào vị thơm
của trái xoài và hương mát của những người con gái kia! Thế
mà:

"<em>Ai mua xoài?
Còn ai có mua em?</em>"

Hay là:

"<em>Tóc còn xanh em bán kiếp
đời trôi...</em>"


Hồn thơ nhập vào những thân phận bọt bèo để rồi cùng vô
vi trong cát bụi cuộc đời. Như thế là cái thế giới với
những đảo điên trong thế thái giống như cái túi càn khôn
bủa vây, vùi lấp đám dân lành tội nghiệp. Bài thơ được
kết thúc trong lời ru, sự cảm đồng của lòng tác giả cùng
với quê hương quanh những cô gái bán xoài:


"<em>Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió
ngàn năm</em>"

<span class="underlined-text">2) CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ</span> - Bài thơ
dung dị có giai điệu nhịp nhàng hay

"<em>Một đêm hồ nước đầy
sương gió
Người đi không rõ mặt
người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ
vắng
Em thầm thì quét lá, bên
tôi!</em>"

Trong đêm trời đất đầy sương gió tác giả đã gặp cô quét
lá, chính là người quét rác trong phố khuya. Đọc đến câu
thứ 2 ta thấy hiện thực xã hội đã hiện ra: Không phải chỉ
trời sương gió, mà đó là những con người của đời sương
gió. Lớp người đông đảo nhất xã hội, nhưng bước đi:...
không rõ mặt người - Những con người lao động nghèo khổ
"sống không còn nhân ảnh", chẳng qua cũng chỉ là những lớp
đời phù du, thân phận giống như chiếc chổi tre năm tháng
quét lê trên đường để... mòn vẹt dần đi:


"E<em>m quét lá lẫn đời
lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết
vào tim!</em>"


Cảnh đời và tác giả cứ hiu hắt ru quanh cô quét lá đưa ta
vào khoảng không gian vừa mơ hồ, êm ả, nửa thực, nửa
không, như có những giọt lệ từ trong trái tim nhà thơ rơi ra:

"<em>Em hoá thành thơ rơi
lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn
triền miên...</em>"


Tôi đi sâu để phân tích hai câu thơ hay nhất bài:

"<em>Trăng như đứa không
nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu
xưa...</em>"


Tác giả nói về xuất xứ của 2 câu thơ này: Nhìn lên vòm
trời đêm ấy xung quanh là tiếng lá cây reo, anh có cảm giác...
không phải cô quét lá cô đơn mà chính là nhà thơ cô đơn! Nó
cũng như cái bóng trăng đang lạc lõng, hiu hắt trên trời kia?
Thế là bóng trăng đã được nhân cách hoá vào thân phận con
người đang bơ vơ không nhà, không cửa. Còn hình ảnh đêm mùa
thu cô quạnh, mơ mộng và man mác buồn... gợi lên trong tâm trí
tác giả về hình tượng "con nai vàng" trong bài thơ "Tiếng
Thu" của Lưu Trọng Lư! Một sự liên tưởng nấy sinh trong
đầu óc anh: Chỉ có thi nhân "mộng và sầu" mới có thể thấy
được bóng:

"<em>Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng
khô</em>"


Còn những con người lao động nghèo khổ kia đang phải vật vã
từng ngày để kiếm miếng cơm manh áo, thì làm gì còn tâm trí
mà....mơ đến bóng nai vàng? Thế là nẩy ra cảnh ngược thơ:
Con nai vàng phải chết! Nên mới có câu:

"<em>Con nai vàng chết bóng thu
xưa...</em>"


Vậy là hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" của cố thi nhân Lưu
Trọng Lư thì bọc chứa cả thế giới trong thơ, còn hình ảnh
"con nai vàng chết"... ở bài thơ "Cô quét lá đêm hồ" của
Phạm Ngọc Thái lại để phản ảnh ý nghĩa cuộc sống và xã
hội nằm bên ngoài câu thơ. Hai câu thơ trên như gói cả thân
phận, cùng nỗi lòng của nhà thơ và cô quét lá vào trong đó!

<span class="underlined-text">3) ĐÊM KHÔNG NGỦ</span> - Một bài
thơ trăn trở về nhân tình thế sự! Đó là vào một đêm mùa
đông:

"<em>Thành phố của những
ổ chim
Âm ỉ hót phù du...
Có một con chim (con chim
đó đã phải đeo kính trắng),
cứ tối tối ra đường:
Nhặt những hạt sấu,
cánh hoa lơ đãng
Bước đi như không có
chuyện gì?</em>"


Nhưng "không có chuyện gì" nghĩa là có chuyện! Vậy tại sao nó
lại "lơ đãng"? Nghĩa là chuyện ấy nhàm rồi, chán rồi, không
còn đáng lưu tâm hay nó không muốn lưu tâm đến nữa. Hình
ảnh những "ổ chim" ở đây, tác giả lấy làm biểu tượng
để nói về chốn dân tình. Thông qua tiếng của loài chim ấy
để nói lên tâm tư tình cảm nhân gian về xã hội và thế
thái này.


"<em>Đêm không ngủ
không buồn</em>"


Cái điệp khúc tác giả nhắc đi nhắc lại để mở đầu cho
mỗi tứ thơ: nó bộc lộ một tâm trạng còn u uẩn, khuất
khúc? Vừa như lãnh đạm bàng quan với xung quanh, nhưng lại...
không ngủ được! Anh viết bài thơ này... đúng vào cái đêm
"bức tường Berlin bị đạp đổ", Đông Đức mất vào tay Tây
Đức, kéo theo là sự sụp đổ của nước Nga Xô viết cùng
hàng loạt các nước Xã Hội Chủ
Nghĩa ở Đông Âu.


Đứng trước một sự kiện lớn lao đến như thế, sự sụp
đổ của cả một hệ thống CNXH cũng có nghĩa là sự tan vỡ
của chủ nghĩa Marx làm chao đảo cả một thời đại - Ấy
vậy mà hình ảnh của cả một thành phố (như tác giả tả
trong thơ) vẫn chìm trong một không khí lạnh lẽo, như không ai
thèm đếm xỉa đến sự tan vỡ ấy:

"<em>Thành phố không
mưa
Cũng không nghe ai
khóc!</em>"

Bởi vì cái thế thời ấy đã... thoái hoá, làm cho người ta
chán quá rồi! Nó có sụp đổ đi cũng là đúng thôi, chẳng ai
hoài công mà thương tiếc nó làm gì nữa. Đây chính là thái
độ nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ! Nên "con chim đã
phải đeo kính trắng" kia mới:

"<em>Bước đi như
không có chuyện gì...</em>"

Cuối cùng tác giả dồn toàn bộ ý tưởng vào trong mấy câu
thơ sấm sét để kết bài:

"<em>Đêm không
ngủ! Phải, đêm nay mình không ngủ!
Đúng vào đêm
sụp đổ giữa cộng đồng
Chủ nghĩa Marx
hết thời. CNXH cũng suy vong...</em>"

Tác giả bỏ lửng ở đấy để cho đời tự ngẫm mà phán
xét? Thi phẩm đã bộc lộ một tình yêu quê hương tha thiết
của nhà thơ.

<span class="underlined-text">4) TRỞ VỀ</span> - Bài thơ được
viết ở nước ngoài cũng trong giai đoạn phe Xã Hội Chủ Nghĩa
bị sụp đổ đó, vào những ngày anh chuẩn bị trở về quê
hương:

"<em>Đôi cánh chim trời quạt
gió mây
Ta về non nước nước non
đây</em>"

Hay là:

"<em>Ta về bàu bạn cùng
mưa nắng
Lưu lạc người ơi gió
cuốn thôi...</em>"

Trên bàn cân thế giới khi ấy dấu ấn về thành trì Chủ
Nghĩa Xã Hội bị nghiêng ngả đã được tác giả ghi nhận
trong bài thơ:

"<em>Đông Âu bão giật
xiêu thành Marx</em>"


Và tình hình rối ren của nhân tình thế thái:

"<em>Bốn bể chân trời
lạc khói sương...</em>"

Chỉ từ một bài thơ có tính chất ngẫu hứng tự sự bản
than, đã mang ý nghĩa một phạm trù lịch sử thời đại. Bối
cảnh quê nhà khi tác giả ra đi:

"<em>Ở chốn quê nhà
bụi cát bay
Hoà bình mà tan mộng
trăng say</em>"

Nhưng vì tình yêu da diết với quê hương anh vẫn kiên quyết
trở về, trong khi rất nhiều bạn hữu của anh tìm cách ở
lại nước ngoài làm kinh tế. Theo lời tác giả nói: Anh kiên
quyết trở về quê hương còn vì sự nghiệp văn chương, đã
được anh ghi nhận trong câu kết bài:

"<em>Ta về trọn cuộc
đất cố hương
Với mộng ngàn thu gửi
nhân gian...</em>"


Có lẽ vì vậy việc Phạm Ngọc Thái trở thành một thi nhân
với bao nhiêu áng thi ca hay để lưu lại cho đời cũng chỉ là
tất nhiên thôi!

<span class="underlined-text">5) "TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG"</span>
Trong mảng thơ viết về thành phố quê hương.Bài thơ như
truyền thuyết về người vợ trẻ với đứa con thơ đang chờ
anh ở cố hương. Nơi có ngôi đền, quán báo, gốc đa bên hồ
Tây. Nơi bà Thị Lộ năm xưa đi bán chiếu gon đã gặp ông
Nguyễn Trãi. Nơi vẫn còn in dấu đại bác ở cổng thành phía
bắc Thăng Long, khi quân giặc Pháp vào đánh chiếm thủ đô,
thành Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu phải
thắt cổ để tuẫn tiết. Cái thành phố quê nghèo ấy với
những hình ảnh bình dị thân thiết:

"<em>Ôi quê
hương!
Cái phố nhỏ cứ
mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên
tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu
đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa,
bữa nào cũng vội</em>"

Và lòng nhà thơ tha thiết luôn hướng về miền cố hương ấy:

"<em>Ai biết
chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng
bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót
lòng mang sắc xanh thu!...</em>"

Hay là:

"<em>Tuyết bạc
quê người, xứ sở mưa cau
Đi đâu, đến
đâu... nhớ về phố ấy!</em>"

Tiếng hát đời thường ấy lẫn vào trong cát bụi, giống như
tiếng của người hát dạo trên sân ga, tiếng của những con
chim sẻ nhỏ nhoi trên cánh đồng mênh mông nước - nhưng đó
là những tiếng hát tha thiết và thân thương của trái tim ta.

<span class="underlined-text">6) ĐÊM TRUNG THU VÀ ĐỨA ĂN
MÀY</span>: Bài thơ nói về cái nghèo đói:

"<em>Trước đứa
ăn mày tất cả chúng ta hoá thánh!
Nó đói lòng cúi
lậy rất từ bi...</em>"

Đói khổ đẩy con người ta xuống hàng cấp thấp, đê hèn.
Đây lại chỉ là hai đứa trẻ. Đứa lớn nhỏ nhoi gầy yếu,
cõng trên lưng đứa em còm cõi:

"<em>Ăn mà từ
thưở khai sinh!</em>"


Hai em bé ăn mày ấy xuất hiện trong khung cảnh nào? Đó là
vào giữa đêm trung thu đèn hoa, trăng sáng. Một bức tranh tạo
nên sự tương phản khốc liệt, vì cảnh thê lương ấy lại
xẩy ra trong đêm hạnh phúc nhất dành cho trẻ em trên trái
đất này. Bố mẹ chúng đâu và là ai? Ta không biết! Hiện
thực thật tội nghiệp, xót xa. Phải sống lang thang xin ăn như
thế hai em bé sẽ nghĩ gì?...

Chúng hình như chưa đủ tuổi để nghĩ đến thân phận của
mình nữa:

"<em>Hai đứa ăn mày mặt
lạnh như trăng
Hoà phối cảnh vào bức
tranh xứ sở...</em>"

Màu trăng rằm tháng tám đẹp rực rỡ, màu trăng nhờn nhợt
lạnh lẽo trên mặt những em bé khiến ta rợn gai người -
Phải chăng hai màu trăng ấy hoà vào nhau làm thành màu... đất
nước? Bài thơ kết thúc bằng những mâu thuẫn không thể nào
tháo gỡ nổi trên cõi thế gian này:

"<em>Dưới gầm trời này có
phải đã muôn năm như vậy:
Kẻ cần cơm bên những
đứa cần vàng
Lũ cần tình thương sống
lẫn giống bạo tàn
Và gộp lại gọi chung
là... nhân thế!</em>"


Ta nhìn ra thế giới hôm qua, hôm nay và ngày mai: Châu Á, Âu, Phi
& Mỹ La Tinh - con người đang bị quyền lực, bom đạn chiến
tranh đè nén và chết chóc. Những người da đen đói khổ, cũng
như lớp người bần cùng sống như con vật. Nhân thế cứ như
thế, như thế mãi biết bao giờ cho hết? Thực tế đầy rẫy
những bất công dội vào thế giới quan của nhà thơ, để anh
đúc kết bài thơ như trên! Giá trị đích thực của bài thơ
là những tiếng nói như máu, tiếng nói nhân đạo từ bên
trong.

<h2>C/- ĐIỂM QUA MẢNG THƠ THIỀN & THƠ TÌNH</h2>

Như đã nói ở trên: cõi thiền là một nhân tố rất căn bản
của thế giới thơ PNT, nó chiếm số lượng bài cũng rất
đáng kể như: "Thu tĩnh, Chiều hoàng hôn, Khoảng buồn vô lý,
Một chiều cuộc đời, Với mùa xuân đang tan, Tối quán"…
v.v... Mỗi bài lại có sắc thái, hương vị riêng. Trong mảng
thơ thiền này, tôi xin chọn để phân tích một bài thơ khá
đặc biệt của anh.

<span class="underlined-text">1) MỘT GÓC HỒ TÂY</span>:

"<em>Anh đến mình anh trong
chiều muộn
Nhặt thơ tình ở một góc
hồ Tây
Ngắm mặt gương hồ vào
chập tối
Mặt trời lại ngỡ bóng
trăng soi.</em>"

Thỉnh thoảng ta bất chợt bắt gặp bóng mặt trời khuất
muộn trong cảnh chiều chập choạng. Lúc đó nó giống như bóng
trăng sáng trắng, vừa hơi viên mãn lại vừa như ảo. Tác giả
đến bên hồ một người một cảnh, trăng nước vơi đầy.
Tiếp theo không phải cái đọt mây kia lơ đễnh, mà chính là
lòng tác giả:

"<em>Lơ đễnh đọt mây
qua phớt trắng
Vừa đơn côi mà không
đơn côi!?</em>"

Hai chữ "lơ đễnh" bộc lộ trạng thái tình cảm và tâm hồn,
vừa thật da diết vừa rất chơi vơi nửa vời. Cảnh với
người hơi bảng lảng, buồn buồn mà tình vẫn đầm đìa. Sau
đó tác giả nhắc đến một cô gái nào đó, nhưng hình như
không phải là một cô hay một em nào cụ thể? Đó chỉ là
khát vọng, trong nỗi hiu hắt của một con người đang bước
tới cái tuổi hoa niên:

"<em>Thiếu vắng em
nên anh lẻ bong
Lá vàng rơi thay vào
chỗ em ngồi...</em>"

Nó không còn là cảnh hoàng hôn của trời đất nữa, mà còn
là buổi chiều của cuộc đời anh! Hình ảnh chiếc lá vàng
rơi, thay vào chỗ ngồi của người thiếu nữ xưa vừa đằm
thắm mà nuối nả, xót xa. Buồn hơn nữa khi lòng tác giả hóa
nhập trong cảnh chùa:

"<em>Mõ chùa buông thay
tiếng nói của người yêu!
Trong sân gạch sư già
quét lá
Bước người đi
thầm lặng cõi hư hao...</em>"


Phố xá mà cảnh như chiều thôn quê. Từ tâm trạng của nhà
thơ tới hình bóng hư hao, lãng quên trần thế của nhà sư kia
cũng chỉ là một. Vào đất phật lại cô đơn vì tình trai
gái, vừa phàm trần mà lòng vô vi, thực và không... đều
quyện trong một buổi chiều hồ. Để rồi cuối bài thì chính
tác giả đã ví mình với nhà sư kia:

"<em>Người quên hết!
Còn ta yêu tất cả
Trong tiếng lá bay chầm
chậm bóng ta theo...</em>"


Tâm trạng của nhà thơ cũng u hoài như những chiếc lá đang bay
đó thôi!...

Giờ tôi xin nói đến một số bài thơ tình.


<span class="underlined-text">2) KHOẢNG TRÔI TRONG LÁ</span>: Tác
giả nhớ về kỉ niệm với một thiếu nữ. Đời thường khi
tình tan vỡ chịu dày vò đau khổ hoặc xót xa, nhưng anh hay em
vẫn cứ phải tồn tại để sống! Tuy vậy, năm tháng qua đi
lá rụng hết lớp này đến lớp khác, tình yêu với người
thiếu nữ xưa luôn trở về cồn cào trong trái tim anh:

"<em>Bỗng cồn nhớ
một thời dĩ vãng
Gió vẫn trôi không
hữu hạn bến bờ
Nhưng vẫn đó: em,
anh - cuộc sống
Xa nhau rồi, tình cũ
đến bơ vơ...</em>"

Người con gái ấy giờ đây ra sao? Cuộc sống thế nào? không
ai biết! Chỉ còn lại bóng trăng trên trời cùng những làn mây
trắng trong tiếng lá cứ bay đi xa mãi. Tình yêu ấy hát trong
hư vô và trăng sao:

"<em>Bài hát năm xưa, bên anh
em đã hát
Giờ đây trong lá nẻo trời
nào?
Anh đi qua chỉ thấy toàn mây
trắng
Mặt trăng tít trên trời
Em ở tận nơi đâu?</em>"

"Khoảng trôi trong lá" là bài thơ tình tha thiết, ngôn ngữ
đọng nhưng hình ảnh vẫn lung linh, viết ra từ ký ức và trái
tim thương nhớ của nhà thơ.

<span class="underlined-text">3) TRĂNG LẶN</span>: Nói là "thơ
trăng" mà lại là một đêm không trăng. Trăng không mọc vì
trăng chán trời, không biết em có chán anh như vầng trăng kia
không? Đó chính là uẩn khúc của nỗi lòng nhà thơ.

"<em>Biển vỗ vào anh - Biển
vỗ vào em
Em hoá đá để sóng ghềnh
ôm mãi
Năm tháng, nắng mưa... đá
vẫn còn nguyên đấy!
Anh phong ba, anh nhẫn nại
suốt đời.</em>"

Tình yêu hoá thành biển cả: Nàng thành đá, chàng hoá sóng.
Tình tan vỡ nhưng sóng biển còn vỗ mãi quanh cái hòn đá ấy:

"<em>Biển hư vô cả những
khi cầm bút
Xé rách lòng cho cánh thơ
bay...</em>"

Cuối cùng tác giả lại trở về với hình ảnh vầng trăng,
nhưng đó không phải là vầng trăng của trời mà chính là...
"vầng trăng em"!

"<em>Mất một vầng
trăng lại mọc một vầng trăng
Sóng khốn khổ hôn
mãi hòn đá trắng</em>"

Nỗi đau của trái tim thơ tháng năm còn rền xiết mãi. Một
tình thơ giàu cảm xúc được tác giả xây dựng quanh hình
tượng biển và trăng.

<span class="underlined-text">4) TRONG BÓNG CÂY NGỦ ĐÊM</span>: Trái
tim nhà thơ giống như con tàu chở đầy ắp tình yêu chuyển
bánh. Con tàu ấy chạy qua những quán cô quạnh trong tiếng gió
hú, những vầng trăng chết đuối đang trôi, những làn mây lang
thang ở chân trời và những thành phố đang chìm đắm trong
đêm:

"<em>Trong bóng cây ngủ
đêm
Có một loài hoa không
ngủ
Loài hoa yêu xếp đầy
cánh hoa đau
Hương đã theo anh và con
tàu chuyển bánh
Đến vô cùng mà chẳng
biết đi đâu?</em>"

Tình yêu người thiếu nữ năm xưa như: Hồi chuông nơi thánh
đường trắng trinh /- vuốt ve trái tim đau nhói của nhà thơ.
Trái tim ấy như một loài hoa không ngủ, đó là loài hoa yêu!
Nó bay theo con tàu chuyển bánh đi mãi, đi mãi tới vô cùng:

"<em>Quán cô quạnh suốt
đời nghe gió hú
Trăng chết đuối rồi
trắng dại đang trôi
Mây lang thang dưới chân
trời bão tố
Thành phố chìm trong đêm
xa xôi.</em>"

Tình yêu vô vi như cánh chim bay xa... mang đến cho ta cả đau
khổ cùng hạnh phúc, khát vọng và tan vỡ! Những hình tượng
thi ca chứa đầy ắp hồn của nhà thơ trong đó.

<span class="underlined-text">5) LỜI HÓT CON CHIM KHÁCH</span>: Tác
giả kể: Buổi sáng anh gặp một thiếu nữ, nói dăm ba câu
chuyện xung quanh việc thơ phú văn chương... rồi người thiếu
nữ ấy bỏ đi. Trái tim nhà thơ xôn xao, anh đã dựng cái quán
trong thành phố gần bên hồ nước để viết bài thơ này.
Chuyện rằng: Có một loài tim vỡ giống như sự tan vỡ của
những cánh hoa ti-gôn, những mảnh vỡ ấy tan tác bay đi để
rồi lẫn vào trong cát bụi cuộc đời. Chỉ có một mảnh duy
nhất đã hoá thành "con chim khách":

"<em>Con tim buồn không còn
thuộc về anh
Những mảnh vụn lẫn vào
trong cát bụi
Có một mảnh hoá thành "con
chim khách"
Bay đi tìm bóng lạc giữa
vu vơ...</em>"


Con-chim-khách bay vào cõi vô vi, để tìm lại bóng hình người
thiếu nữ kia! Tình thơ đã được kết thúc rất hậu:

"<em>Chầm chậm đừng đi
người con gái của ban sơ
Anh thả xuống ốc-đảo
xanh em một mối tình nguyên thuỷ
Mốt mai lỡ đau nỗi khổ
đau của loài tim vỡ
"Con chim khách" vẫn về
để hót ru em!</em>"


Cách kết thúc này gợi cho ta nhớ bốn câu thơ kết đầy nhân
hậu, trong bài thơ tình nổi tiếng "Một chút tên tôi đối
với nàng" của thi hào Puskin:

"<em>Nhưng nếu gặp ngày buồn
đau đớn
Em thầm thì hãy gọi tên lên!
Và hãy tin còn đây một kỷ
niệm
Em vẫn còn trong một trái
tim...</em>"


Tình cảm chớm nở trong trái tim nhà thơ chân thành và trong mát
như con suối ban mai, hoang dã mà thanh khiết.

<span class="underlined-text">6) TIẾNG RÚC CHIM ĐÊM</span>: Vào
một đêm mưa gió nằm trong nhà nghe thấy tiếng rúc của một
con chim trong bụi cây. Cùng với những tích chuyện cổ ở dân
gian, đã giúp tác giả liên tưởng tới câu chuyện tình của
đôi chim:

"<em>Chim gọi đàn - Anh
gọi tên em
Năm tháng, nắng mưa, non
ngàn, bão tố
Có lẽ nào em không về
nữa
Để hồn anh hoang mạc bơ
vơ...</em>"


Thế là chuyện "tình chim" trở thành chuyện "tình người"! Lòng
tác giả cũng run rẩy như con chim kia và hồi ức về một mối
tình cũ lại gợi về? Cái đêm đó không hiểu vì sao con chim
mái không về... hay nó đã bỏ đi theo người tình khác? Con chim
trống cứ gọi, gọi mãi trong vô vọng. Cùng nỗi lòng đó
đứng trên thềm nhớ của không gian mênh mông, nhà thơ đã
nhớ về em:
"<em>Đã xa rồi! Mùa dĩ
vãng trăng mơ...
Đời vui vẻ cuốn theo dòng
gió bụi</em>"

Đó là tiếng run rẩy của con chim trống cất lên trong vòm xanh.
Tiếng của nó còn vọng mãi vào năm tháng xa xôi, vô cùng vô
tận kia:


"<em>Con chim đêm run rẩy
bóng xanh già
Anh bổi hổi một thời qua
vọng lại...</em>"

Cũng chính là tiếng lòng của nhà thơ vọng gọi người yêu!...
Nỗi thơ như lời thủ thỉ của một đôi "trống mái", mang ý
nghĩa nhân bản sâu sắc trong tình yêu và sự sống con người.

<span class="underlined-text">7) TRÚC HỒ ĐÊM</span>: Cuộc đời:
có khi người ta nhận ra sự tồn tại, hạnh phúc của mình...
lại chỉ từ tiếng kêu của những con chão chuộc? Bài thơ thi
vị, chứa chất tình đời này đã nẩy nở trong đêm "Trúc
Hồ động". Từ mở đầu đến kết thúc bài thơ tác giả
cũng chỉ lắng trong cái tiếng chão chuộc ở hồ đêm ấy:

"<em>Đêm nghe Trúc Hồ
động
Tiếng chão chuộc vọng
đưa
Chợt lòng anh thổn thức
Chuyện ngày xưa ngày
xưa...</em>"

Tác giả hồi tưởng lại những kỷ niệm và lòng anh trào lên
tha thiết:

"<em>Tình yêu như cơn mưa
Thấm sũng đời bãi cát
Hồn thiếu nữ ngây thơ
Một chân trời tím
sắc...</em>"


Ý nghĩa của tình thơ nói: niềm vui sướng, lẽ sống thường
tình của con người chính là những tình cảm thân thương rất
gần gũi với cuộc đời. Một bài thơ 05 chữ, tình thơ bình
dị nhưng da diết máu tim và rất đáng yêu!

Thơ tình của Phạm Ngọc Thái nhiều vô kể, sâu sắc và không
ít tình thơ đã đạt được tầm vóc là những thi phẩm hay!
Còn rất nhiều bài thơ hay và được yêu thích của anh, mà tôi
lại chưa thể bình được ở đây như: "Người đàn bà
trắng, Đêm nay trời lại không mưa, Thời áo trắng, Em về
biển, Anh vẫn ở bên hồ Tây, Trước núi Mỹ Nhân" … v.v. -
Thơ anh chứa đầy ắp nỗi tình ở thế giới bên trong, phần
lớn là thơ tự do hiện đại. Nhưng tác giả rất coi trọng
tính nhạc và giọng điệu, nên thơ đọc cuốn hút, truyền
cảm, sinh động... lay động lòng người. Có thể nói thế
giới thơ ca Phạm Ngọc Thái như một bàu trời mênh mông sâu
thẳm... được chảy ra từ trong máu tim và cuộc đời, càng
đọc kỹ, đọc sâu càng thấm thía và hay!

Nguyễn Đình Chúc
Đô thành Thăng Long - 2012

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12909), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét