Nguồn gốc của Quyền lực, Thịnh vượng và Nghèo khó

...Cái gì giải thích những sự khác biệt lớn này về nghèo
khó và thịnh vượng và các hình mẫu tăng trưởng? Vì sao các
quốc gia Tây Âu và các nhánh thuộc địa của chúng đầy
người định cư Âu châu bắt đầu tăng trưởng trong thế kỷ
mười chín, hầu như không nhìn lại? Cái gì giải thích sự
xếp hạng dai dẳng về bất bình đẳng ở bên trong châu Mỹ?
Vì sao các quốc gia Phi châu hạ-Sahara và Trung Đông đã không
đạt kiểu tăng trưởng thấy ở Tây Âu, trong khi phần lớn
Đông Á đã trải nghiệm tốc độ tăng trưởng kinh tế quá
nhanh dễ gây tai nạn?

Người ta có thể nghĩ là, sự thực rằng sự bất bình đẳng
thế giới là hết sức lớn và hợp logic và có các hình mẫu
được vẽ sắc nét như vậy, thì có nghĩa rằng nó có một
sự giải thích được chấp nhận rộng rãi. Không phải vậy.
Hầu hết các giả thuyết mà các nhà khoa học xã hội đã đề
xuất cho nguồn gốc của sự nghèo khó và thịnh vượng đơn
giản không hoạt động và không giải thích được tình hình
một cách thuyết phục.

<strong>GIẢ THUYẾT ĐỊA LÝ</strong>

Một lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về các nguyên nhân
của sự bất bình đẳng thế giới là giả thuyết địa lý,
mà nó cho rằng sự cách biệt [divide] lớn giữa các nước giàu
và nghèo được tạo ra bởi những khác biệt địa lý. Nhiều
nước nghèo, chẳng hạn như các nước ở châu Phi, Trung Mỹ,
và Nam Á, nằm ở vùng nhiệt đới giữa Hạ chí tuyến [Bắc
chí tuyến: vĩ độ 23° 26' 22" bắc] và Đông chí tuyến [Nam chí
tuyến: vĩ độ 23° 26' 22" nam]. Ngược lại, các nước giàu có
xu hướng ở các vùng ôn đới. Sự tập trung mang tính địa lý
này của nghèo khó và thịnh vượng mang lại sự quyến rũ nông
cạn cho giả thuyết địa lý, mà là điểm xuất phát của các
lý thuyết và quan điểm của nhiều nhà khoa học xã hội và
học giả uyên thâm tương tự. Nhưng điều này không làm cho nó
ít sai hơn.
<img src="http://vanhoanghean.com.vn/media/images/image009(1).png" />
Ngay từ cuối thế kỷ mười tám, nhà triết học chính trị
Pháp vĩ đại Montesquieu đã lưu ý đến sự tập trung mang tính
địa lý của thịnh vượng và nghèo khó, và đã đề xuất
một sự giải thích cho nó. Ông cho rằng ở các vùng khí hậu
nhiệt đới người dân có xu hướng lười biếng và thiếu
tính tò mò. Như một hệ quả, họ không làm việc siêng năng
và không đổi mới, và đấy là lý do vì sao họ nghèo.
Montesquieu cũng đã suy đoán rằng những người lười có xu
hướng bị cai trị bởi những kẻ bạo chúa, gợi ý rằng vị
trí nhiệt đới có thể giải thích không chỉ sự nghèo khó mà
cả một số hiện tượng chính trị gắn với thất bại kinh
tế, như chế độ độc tài.

Lý thuyết rằng các nước nóng bức là nghèo một cách cố
hữu, tuy mâu thuẫn với sự tiến bộ kinh tế nhanh gần đây
của các nước như Singapore, Malaysia, Botswana, vẫn được biện
hộ một cách mạnh mẽ bởi một số người, như nhà kinh tế
học Jeffrey Sachs. Phiên bản hiện đại của quan điểm này
nhấn mạnh không phải đến các ảnh hưởng trực tiếp của
khí hậu lên các nỗ lực làm việc hay quá trình tư duy, mà
đến hai lý lẽ bổ sung: thứ nhất, các bệnh nhiệt đới,
nhất là sốt rét, có các hậu quả rất có hại cho sức khỏe
và vì thế cho năng suất lao động; và thứ hai, đất nhiệt
đới không cho phép nền nông nghiệp sinh lời. Kết luận, tuy
vậy, cũng thế: các vùng khí hậu ôn đới có lợi thế tương
đối hơn các vùng nhiệt đới và nửa nhiệt đới.

Sự bất bình đẳng thế giới, tuy vậy, không thể được
giải thích bằng khí hậu hay bệnh tật, hay bất cứ phiên bản
nào của giả thuyết địa lý. Hãy chỉ nghĩ về Nogales. Cái
tách hai phần ra không phải là khí hậu, địa lý, hay môi
trường bệnh tật, mà là biên giới Hoa Kỳ-Mexico.

Nếu giả thuyết địa lý không thể giải thích nổi những
khác biệt giữa bắc và nam Nogales, hay Bắc và Nam Hàn, hay Đông
và Tây Đức trước khi bức Tường Berlin sụp đổ, liệu nó
vẫn có thể là một lý thuyết hữu ích cho việc giải thích
những khác biệt giữa Bắc và Nam Mỹ? Giữa châu Âu và châu
Phi? Hoàn toàn không.

Lịch sử minh họa rằng không có mối quan hệ đơn giản hay
lâu dài giữa khí hậu hay địa lý và thành công kinh tế. Thí
dụ, không đúng rằng vùng nhiệt đới đã luôn luôn nghèo hơn
các vùng ôn đới. Như chúng ta đã thấy ở chương trước, vào
thời Columbus chinh phục châu Mỹ, các vùng nam Hạ Chí Tuyến và
bắc Đông Chí Tuyến, mà hiện nay bao gồm Mexico, Trung Mỹ, Peru
và Bolivia, đã có hai nền văn minh lớn, văn minh Aztec và Inca.
Các đế chế này đã tập trung và phức tạp về mặt chính
trị, đã xây dựng đường sá, và đã cung cấp cứu trợ nạn
đói. Những người Aztec đã có cả tiền lẫn chữ viết, và
những người Inca, cho dù họ thiếu cả hai công nghệ then chốt
này, đã ghi lại các lượng thông tin khổng lồ trên các dây
được thắt nút, gọi là các quipu. Ngược lại hoàn toàn, trong
thời của những người Aztec và Inca, các vùng phía bắc và
phía nam của vùng người Aztec và Inca sinh sống, mà ngày nay bao
gồm Hoa Kỳ, Canada, Argentina, và Chile, đã hầu như chỉ có các
nền văn minh Thời Đồ Đá thiếu các công nghệ này. Vùng
nhiệt đới ở châu Mỹ như thế đã giàu hơn các vùng ôn
đới rất nhiều, gợi ý rằng "sự thực hiển nhiên" về
sự nghèo khó nhiệt đới đã không hiển nhiên và cũng chẳng
là một sự thực. Thay vào đó, sự giàu có lớn hơn ở Hoa Kỳ
và Canada thể hiện một sự đảo ngược hoàn toàn của sự
phát đạt tương đối với cái đã có ở đó khi những người
Âu châu đến.

Sự đảo ngược này rõ ràng đã chẳng liên quan gì đến địa
lý và, như chúng ta đã thấy rồi, có liên quan gì đó với
cách các vùng này bị thuộc địa hóa. Sự đảo ngược này
đã không giới hạn ở châu Mỹ. Người dân ở Nam Á, nhất là
ở tiểu lục địa Ấn Độ, và ở Trung Quốc đã thịnh
vượng hơn những người ở nhiều phần khác của châu Á, và
chắc chắn hơn những người đã sống ở Australia và New
Zealand. Điều này, cũng đã đảo ngược, với Nam Hàn, Singapore,
Nhật Bản nổi lên như các quốc gia giàu nhất ở châu Á, và
Australia và New Zealand vượt hầu như tất cả châu Á về mặt
thịnh vượng. Ngay cả bên trong châu Phi hạ-Sahara cũng đã có
một sự đảo ngược tương tự. Gần đây hơn, trước lúc
bắt đầu của sự tiếp xúc Âu châu mạnh mẽ với châu Phi,
vùng nam châu Phi đã là vùng được định cư thưa thớt nhất
và chẳng hề có các nhà nước phát triển với bất cứ sự
kiểm soát nào đối với lãnh thổ của họ. Thế nhưng Nam Phi
bây giờ là một trong các quốc gia thịnh vượng nhất ở châu
Phi hạ-Sahara. Lui xa hơn trong lịch sử, chúng ta lại thấy
nhiều thịnh vượng ở các vùng nhiệt đới; một số nền văn
minh tiền-hiện đại, như Angkor ở Campuchia hiện đại,
Vijayanagara ở nam Ấn Độ, và Aksum ở Ethiopia, đã hưng thịnh
trong các vùng nhiệt đới, như các nền văn minh đại Lưu vực
sông Indus ở Mohenjo Daro và Hapara, ở Pakistan hiện đại, đã
hưng thịnh. Như thế lịch sử để lại ít sự nghi ngờ rằng
không có mối quan hệ đơn giản giữa một địa điểm nhiệt
đới và thành công kinh tế.

Các bệnh nhiệt đới rõ ràng gây ra nhiều đau khổ và tỷ lệ
tử vong cao ở châu Phi, nhưng chúng không phải là lý do khiến
châu Phi nghèo. Bệnh tật phần lớn là hậu quả của nghèo khó
và của các chính phủ không có khả năng hay không muốn đảm
trách các biện pháp y tế công cộng cần thiết để xóa bỏ
chúng. Nước Anh trong thế kỷ mười chín cũng đã là một nơi
rất hại cho sức khỏe, nhưng chính phủ đã đầu tư dần dần
vào nước sạch, vào xử lý thích hợp chất thải và nước
thải, và, cuối cùng, vào một ngành chăm sóc sức khỏe hiệu
quả. Sức khỏe và ước tính tuổi thọ được cải thiện đã
không là nguyên nhân của thành công kinh tế của nước Anh, mà
là một trong những thành quả của những thay đổi chính trị
và kinh tế trước đó. Cũng đúng thế với Nogales, Arizona.

Phần khác của giả thuyết địa lý là, các vùng nhiệt đới
là nghèo bởi vì nền nông nghiệp nhiệt đới là không sinh
lợi một cách cố hữu. Đất nhiệt đới mỏng và không có
khả năng duy trì các chất dinh dưỡng, người ta lập luận, và
nhấn mạnh đất này bị xói mòn nhanh thế nào bởi mưa xối.
Chắc chắn có giá trị nào đó trong lý lẽ này, nhưng như
chúng ta sẽ chứng tỏ, yếu tố quyết định chính vì sao năng
suất nông nghiệp – sản lượng nông nghiệp trên một mẫu –
lại hết sức thấp ở nhiều nước nghèo, đặc biệt ở châu
Phi hạ-Sahara, ít liên quan đến chất lượng đất. Đúng hơn,
nó là một hậu quả của cấu trúc quyền sở hữu đất và
các khuyến khích mà được các chính phủ và các thể chế
tạo ra cho các nông dân sống dưới chúng. Chúng ta cũng sẽ
chứng tỏ rằng sự bất bình đẳng thế giới không thể
được giải thích bằng những khác biệt về năng suất nông
nghiệp. Sự bất bình đẳng to lớn của thế giới hiện đại,
mà đã nổi lên trong thế kỷ mười chín, đã là do sự phổ
biến không đều của các công nghệ công nghiệp và sự sản
xuất chế tác gây ra. Nó đã không được gây ra bởi sự khác
biệt về thành tích nông nghiệp.

Một phiên bản khác có ảnh hưởng của giả thuyết địa lý
đã được thúc đẩy bởi nhà sinh thái học và sinh học tiến
hóa Jared Diamond. Ông cho rằng những nguồn gốc của sự bất
bình đẳng giữa các lục địa vào lúc đầu của thời kỳ
hiện đại, năm trăm năm trước, đã dựa vào các nguồn lực
lịch sử khác nhau về các loài thực vật và động vật, mà
sau đó đã ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp. Ở một
số nơi, như vùng Lưỡi liềm Màu mỡ ở Trung Đông hiện
đại, đã có nhiều loài mà con người đã có thể thuần hóa.
Ở những nơi khác, như châu Mỹ, đã không có. Có nhiều loài
có khả năng được thuần hóa đã khiến cho rất hấp dẫn
đối với các xã hội để chuyển từ cách sống săn bắt-hái
lượm sang cách sống canh tác [chăn nuôi trồng trọt]. Như một
hệ quả, việc canh tác đã phát triển sớm hơn ở vùng Lưỡi
liềm Màu mỡ so với ở châu Mỹ. Mật độ dân số tăng lên,
cho phép sự chuyên môn hóa lao động, thương mại, và đô thị
hóa, và sự phát triển chính trị. Một cách quyết định, ở
những nơi canh tác nông nghiệp chiếm ưu thế, đổi mới công
nghệ đã diễn ra nhanh hơn các phần khác của thế giới rất
nhiều. Như thế, theo Diamond, sự sẵn có khác nhau của các loài
thực vật và động vật đã tạo ra những cường độ canh tác
chênh lệch, mà đã dẫn đến các con đường khác nhau của thay
đổi công nghệ và sự thịnh vượng khắp các lục địa khác
nhau.

Mặc dù luận đề của Diamod là một cách tiếp cận mạnh mẽ
đến câu đố, mà ông chú tâm vào, nó không thể được mở
rộng để giải thích sự bất bình đẳng thế giới hiện
đại. Thí dụ, Diamond cho rằng người Tây Ban Nha đã có thể
thống trị các nền văn minh của châu Mỹ bởi vì họ đã có
lịch sử canh tác dài hơn và vì thế có công nghệ ưu việt
hơn. Nhưng bây giờ chúng ta phải giải thích vì sao những
người Mexic và Peru sống trên lãnh thổ trước kia của người
Aztec và Inca lại nghèo. Trong khi có sự tiếp cận đến lúa
mỳ, lúa mạch, và ngựa đã có thể khiến cho những người
Tây Ban Nha giàu hơn những người Inca, khoảng cách thu nhập
giữa họ đã không rất lớn. Thu nhập trung bình của một
người Tây Ban Nha đã có lẽ ít hơn hai lần thu nhập trung bình
của một công dân trong Đế chế Inca. Luận đề của Diamond
ngụ ý rằng một khi những người Inca được tiếp xúc với
tất cả các loài và các công nghệ sinh ra từ đó mà bản thân
họ đã không có khả năng phát triển, thì họ phải nhanh chóng
đạt được mức sống của người Tây Ban Nha. Thế nhưng cái
xảy ra đã hoàn toàn không như vậy. Ngược lại, trong các thế
kỷ mười chín và hai mươi, một khoảng cách lớn hơn nhiều
về thu nhập giữa Tây Ban Nha và Peru đã nổi lên. Ngày nay một
người Tây Ban Nha trung bình giàu hơn người Peru trung bình hơn
sáu lần. Khoảng cách này về thu nhập gắn mật thiết với
sự phổ biến không đều của các công nghệ công nghiệp hiện
đại, nhưng việc này ít liên quan hoặc đến tiềm năng thuần
hóa thực vật và động vật hay đến những khác biệt năng
suất nông nghiệp giữa Tây Ban Nha và Peru. Trong khi Tây Ban Nha,
mặc dù với một độ trễ, đã chấp nhận và làm theo các
công nghệ sức hơi nước, đường sắt, điện, cơ khí hóa, và
sản xuất ở nhà máy, Peru đã không, hay nhiều nhất đã làm
vậy rất chậm chạp và không hoàn hảo. Khoảng cách công nghệ
này ngày nay vẫn còn và tự tái tạo trên một quy mô lớn hơn
khi các công nghệ mới, đặc biệt các công nghệ liên quan
đến công nghệ thông tin, cấp nhiên liệu thêm cho sự tăng
trưởng ở nhiều quốc gia phát triển và một số quốc gia
đang phát triển. Luận đề của Diamond không nói cho chúng ta vì
sao những công nghệ cốt yếu này không lan truyền và làm ngang
bằng thu nhập trên thế giới và không giải thích được vì
sao nửa phía bắc của Nogales lại giàu hơn rất nhiều nửa sinh
đôi của nó nằm ngay ở phía nam hàng rào, mặc dù cả hai đã
là phần của cùng nền văn minh năm trăm năm trước.

Câu chuyện của Nogales làm nổi bật một vấn đề lớn khác
trong thích nghi luận đề của Diamond: như chúng ta đã thấy, dù
những hạn chế của các đế chế Inca và Aztec vào năm 1532 đã
thế nào, không nghi ngờ gì Peru và Mexico đã giàu hơn các phần
của châu Mỹ mà đã trở thành Hoa Kỳ và Canada. Bắc Mỹ đã
trở nên thịnh vượng hơn chính xác là bởi vì nó đã nhiệt
tình chấp nhận các công nghệ và những tiến bộ của Cách
mạng Công nghiệp. Dân cư trở nên có giáo dục, đường sắt
trải khắp các Bình nguyên Lớn, hoàn toàn ngược lại với cái
đã xảy ra ở Nam Mỹ. Điều này không thể được giải thích
bằng vạch ra những nguồn lực địa lý chênh lệch của Bắc
và Nam Mỹ, mà, có lẽ, đã ưu đãi Nam Mỹ.

Sự bất bình đẳng trong thế giới hiện đại chủ yếu là
kết quả của sự truyền bá không đều và sự chấp nhận các
công nghệ, và luận đề của Diamond có bao gồm các lý lẽ quan
trọng về mặt này. Thí dụ, ông biện luận, đi theo nhà sử
học William McNeil, rằng sự định hướng [theo chiều] đông-tây
của đại lục Á-Âu đã cho phép cây trồng, động vật, và
đổi mới lan từ vùng Lưỡi liềm Màu mỡ vào Tây Âu, trong khi
sự định hướng bắc-nam của châu Mỹ giải thích vì sao các
hệ thống chữ viết, mà được tạo ra ở Mexico, đã không lan
tới vùng Andes hay tới Bắc Mỹ. Thế nhưng sự định hướng
của các lục địa không thể cung cấp một giải thích cho sự
bất bình đẳng thế giới ngày nay. Hãy xem xét châu Phi. Tuy Sa
mạc Sahara đã có tỏ ra là một rào cản đáng kể cho sự vận
chuyển hàng hóa và ý tưởng từ phương bắc đến châu Phi
hạ-Sahara, rào cản này đã không phải là không thể vượt qua.
Những người Bồ Đào Nha, và sau đó là những người Âu châu
khác, đã đi thuyền quanh bờ biển và đã loại bỏ những khác
biệt về kiến thức vào thời khi các khoảng cách thu nhập đã
là rất nhỏ so với các khoảng cách ngày nay. Kể từ đó, châu
Phi đã không bắt kịp châu Âu; ngược lại bây giờ có một
khoảng cách thu nhập lớn hơn rất nhiều giữa hầu hết các
nước Phi châu và các nước Âu châu.

Cũng phải là rõ, rằng lý lẽ của Diamond, mà là về bất bình
đẳng lục địa, đã không được trang bị tốt để giải
thích sự khác nhau bên trong các lục địa – một phần quan
trọng của sự bất bình đẳng thế giới hiện đại. Thí dụ,
trong khi sự định hướng của khối đất Á-Âu đã có thể
giải thích nước Anh đã xoay xở thế nào để hưởng lợi từ
những đổi mới của Trung Đông mà không phải sáng chế lại
chúng, nó không giải thích vì sao Cách mạng Công nghiệp đã
xảy ra ở nước Anh hơn là, chẳng hạn, ở Moldova. Ngoài ra,
như bản thân Diamond đã chỉ ra, Trung Quốc và Ấn Độ đã
hưởng lợi rất nhiều từ các bộ rất phong phú của các
động vật và thực vật, và từ sự định hướng của đại
lục Á-Âu. Nhưng hầu hết những người nghèo của thế giới
ngày nay là ở hai nước đó.

Thực ra, cách tốt nhất để thấy phạm vi của luận đề của
Diamond là bằng chính các biến số giải thích của riêng ông.
Bản đồ 4 cho thấy số liệu về phân bố của Sus scrofa –
Lợn rừng, tổ tiên của lợn hiện đại, và của bò rừng,
tổ tiên của bò hiện đại. Cả hai loài đã phân bố rộng ở
đại lục Á-Âu và thậm chí ở Bắc Phi. Bản đồ 5 cho thấy
phân bố của một số tổ tiên hoang dại của các cây trồng
đã được thuần hóa hiện nay, như Oryza sativa, tổ tiên của
lúa được trồng ở châu Á, và tổ tiên của lúa mỳ và lúa
mạch. Nó chứng tỏ rằng tổ tiên hoang dã của lúa đã phân
bố rộng khắp nam và đông nam Á, trong khi tổ tiên của lúa
mỳ và lúa mạch đã phân bố dọc theo một cung dài kéo từ
Levant, qua Iran và đến Afghanistan và cụm "stan" (Turkmenistan,
Tajikistan, và Krgyzistan). Các loài cổ này có mặt ở phần lớn
đại lục Á-Âu. Nhưng sự phân bố rộng của chúng gợi ý
rằng sự bất bình đẳng bên trong đại lục Á-Âu không thể
được giải thích bằng một lý thuyết đựa vào mức độ tác
động của các loài.

Giả thuyết địa lý không chỉ không hữu ích cho việc giải
thích nguồn gốc của sự thịnh vượng suốt lịch sử, và đa
phần là sai trong sự nhấn mạnh của nó, mà cũng không có khả
năng giải thích thế đất (tình hình đặc trưng) mà chúng ta
đã bắt đầu chương này với. Người ta có thể biện hộ
rằng bất cứ hình mẫu bền bỉ nào, ví dụ như thứ bậc thu
nhập ở bên trong châu Mỹ hay những khác biệt sắc nét và
trải dài gữa châu Âu và Trung Đông, có thể được giải
thích bởi địa lý không thay đổi. Nhưng điều này không phải
vậy. Chúng ta đã thấy rồi, rằng các hình mẫu bên trong châu
Mỹ là cực kỳ ít có khả năng được thúc đẩy bởi các
yếu tố địa lý. Trước 1492, các nền văn minh ở thung lũng
trung tâm của Mexico, Trung Mỹ, và vùng Andes đã có công nghệ
và mức sống cao hơn Bắc Mỹ hay các nơi chẳng hạn như
Argentina và Chile. Trong khi địa lý vẫn như thế, các thể chế
do các nhà thuộc địa Âu châu áp đặt đã tạo ra một "sự
đảo ngược vận may". Địa lý cũng không chắc giải thích
được sự nghèo khó của Trung Đông vì các lý do tương tự.
Rốt cuộc, Trung Đông đã dẫn đầu thế giới trong Cách mạng
Đồ đá Mới, và các thành phố đầu tiên được xây dựng ở
nơi nay là Iraq hiện đại. Sắt đã được nấu lần đầu tiên
ở Thổ Nhĩ Kỳ, và vào cuối thời Trung Cổ, Trung Đông đã
năng động về mặt công nghệ. Đã không phải địa lý của
Trung Đông là cái đã khiến cho Cách mạng Đồ Đá Mới hưng
thịnh ở phần đó của thế giới, như chúng ta sẽ thấy ở
chương 5, và, lại lần nữa, không phải địa lý là cái làm
cho Trung Đông nghèo. Thay vào đó, đã chính là sự bành trướng
và sự củng cố của Đế chế Ottoman, và chính là di sản thể
chế của đế chế này là cái giữ Trung Đông nghèo hiện nay.
<img src="http://vanhoanghean.com.vn/media/images/image011.png" />
Cuối cùng, các yếu tố địa lý là không hữu ích cho việc
giải thích không chỉ những khác biệt mà chúng ta thấy khắp
các phần khác nhau của thế giới, mà cũng chẳng giúp ích cho
việc giải thích vì sao các quốc gia như Nhật Bản hay Trung
Quốc lại trì trệ trong các thời kỳ dài và rồi bắt đầu
một quá trình tăng trưởng nhanh. Chúng ta cần một lý thuyết
khác, tốt hơn.

<strong>GIẢ THUYẾT VĂN HÓA</strong>

Lý thuyết được chấp nhận rộng rãi thứ hai, giả thuyết
văn hóa, liên kết thịnh vượng với văn hóa. Giả thuyết văn
hóa, cũng giống như giả thuyết địa lý, có một dòng giống
lỗi lạc, truy nguyên chí ít về đến Max Weber, nhà xã hội
học Đức vĩ đại, người cho rằng Cải cách Kháng cách[1]
(Protestant Reformation) và đạo đức Kháng cách (Protestant ethic)
mà nó khích lệ đã đóng vai trò then chốt trong tạo thuận
lợi cho sự thăng tiến của xã hội công nghiệp hiện đại ở
Tây Âu. Giả thuyết văn hóa không còn chỉ dựa vào tôn giáo,
mà nhấn mạnh cả các loại khác của niềm tin, giá trị, và
đạo đức nữa.

Mặc dù là không đúng đắn về mặt chính trị để diễn
đạt công khai, nhiều người vẫn cho rằng những người châu
Phi nghèo bởi vì họ thiếu một đạo lý làm việc tốt, vẫn
tin vào phù thủy và ma thuật, hoặc kháng cự các công nghệ
phương Tây. Nhiều người cũng tin rằng Mỹ Latin sẽ chẳng bao
giờ giàu bởi vì người dân của nó hoang toàng và túng quẫn,
và bởi vì họ có thiên hướng văn hóa "Iberian" hay
"mañana" nào đó.[2] Tất nhiên, nhiều người một thời đã
tin rằng văn hóa Trung Quốc hay các giá trị khổng giáo là
không thân thiện với tăng trưởng kinh tế, mặc dù ngày nay
người ta om sòm nói về tầm quan trọng của văn hóa làm việc
Trung Hoa như động cơ tăng trưởng ở Trung Quốc, Hồng Kông,
và Singapore.

Giả thuyết văn hóa có hữu ích cho việc hiểu sự bất bình
đẳng thế giới? Có và không. Có, theo nghĩa rằng các chuẩn
mực xã hội, mà có liên quan đến văn hóa, là có ý nghĩa và
khó thay đổi, và đôi khi chúng cũng ủng hộ các khác biệt
thể chế, mà đấy [sự khác biệt thể chế] là sự giải
thích của cuốn sách này cho sự bất bình đẳng thế giới.
Nhưng thường là không, bởi vì các khía cạnh đó của văn hóa
thường được nhấn mạnh – tôn giáo, đạo đức dân tộc,
các giá trị Phi châu hay Latin – đúng là không quan trọng cho
việc hiểu về làm thế nào chúng ta lại tới đây và vì sao
sự bất bình đẳng thế giới lại dai dẳng. Các khía cạnh
khác, thí dụ như mức độ mà người dân tin cậy lẫn nhau
hoặc có khả năng hợp tác, là quan trọng nhưng chủ yếu chúng
là kết quả của các thể chế, chứ không phải là nguyên nhân
độc lập.

Hãy quay lại với Nogales. Như chúng ta đã nhắc tới sớm hơn,
nhiều khía cạnh văn hóa là như nhau ở phía bắc và phía nam
hàng rào. Tuy nhiên, có thể có một số khác biệt rõ rệt về
các thông lệ, chuẩn mực, và giá trị, mặc dù đấy không
phải là những nguyên nhân mà là những kết quả của các con
đường phát triển khác nhau của hai nơi. Thí dụ, trong các
cuộc điều tra những người Mexic thường nói rằng họ tin
cậy những người khác ít hơn các công dân Hoa Kỳ nói họ tin
những người khác. Nhưng không phải là một sự ngạc nhiên
rằng những người Mexic thiếu sự tin cậy khi chính phủ của
họ không thể loại bỏ các cartel ma túy hay cung cấp một hệ
thống pháp lý hoạt động không thiên vị. Cũng đúng như thế
với Bắc và Nam Hàn, khi chúng ta thảo luận ở chương tiếp
theo. Niền Nam là một trong các nước giàu nhất trên thế
giới, trong khi miền Bắc vật lộn với nạn đói định kỳ và
sự nghèo khó khốn khổ. Trong khi "văn hóa" là rất khác nhau
giữ miền Nam và miền Bắc hiện nay, nó đã không đóng vai trò
gì trong gây ra vận may kinh tế khác nhau của hai nửa quốc gia
này. Bán đảo Triều Tiên đã có một giai đoạn dài của lịch
sử chung. Trước Chiến tranh Triều Tiên và sự chia cắt ở vĩ
tuyến 38, nó đã có một mức độ đồng đều chưa từng có
về các mặt ngôn ngữ, sắc tộc, và văn hóa. Hệt như ở
Nogales, cái có ý nghĩa là đường biên giới. Về phía bắc là
một chế độ khác, áp đặt các thể chế khác, tạo ra các
khuyến khích khác. Bất cứ sự khác biệt nào về văn hóa
giữa nam và bắc của đường biên giới cắt ngang qua hai nửa
Nogales hay hai miền Triều Tiên như thế không phải là một
nguyên nhân của những khác biệt về sự thịnh vượng, mà,
đúng hơn, là một hậu quả.

Còn về châu Phi và văn hóa Phi châu thì sao? Về mặt lịch sử,
châu Phi hạ-Sahara đã nghèo hơn hầu hết các phần khác của
thế giới, và các nền văn minh cổ của nó đã không phát
triển bánh xe, chữ viết (trừ Ethiopia và Somalia), hay [cái] cày.
Mặc dù các công nghệ này đã không được sử dụng rộng rãi
cho đến khi sự thực dân hóa Âu châu chính thức đến vào
cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi, các xã hội
Phi châu biết về chúng sớm hơn nhiều. Những người Âu châu
đã bắt đầu đi thuyền quanh bờ tây vào cuối thế kỷ thứ
mười lăm, và những người Á châu đã liên tục đi thuyền
đến Đông Phi sớm hơn nhiều.

Chúng ta có thể hiểu vì sao những công nghệ này đã không
được chấp nhận từ lịch sử của Vương quốc Kongo ở cửa
sông Congo, mà đã trao tên của nó cho Cộng hòa Dân chủ Congo
hiện đại. Bản đồ 6 cho thấy Kongo đã ở đâu cùng với
một nhà nước trung phi quan trọng khác, Vương quốc Kuba, mà
chúng ta sẽ thảo luận muộn hơn trong cuốn sách.



Kongo đã tiếp xúc mạnh mẽ với người Bồ Đào Nha sau khi
thủy thủ Diogo Cão đến thăm nó lần đầu tiên vào năm 1483.
Tại thời đó, Kongo đã là một chính thể được tập trung cao
độ theo các tiêu chuẩn Phi châu, mà thủ đô của nó, Mbanza,
đã có dân số sáu mươi ngàn người, làm cho nó có cùng quy mô
như thủ đô Bồ Đào Nha, Lisbon, và lớn hơn London, có dân số
khoảng năm mươi ngàn vào năm 1500. Vua Kongo, Nzinga a Nkuwu, đã
cải đạo sang Công giáo (Catholicism) và đã đổi tên thành João
I. Muộn hơn tên của Mbanza được đổi thành São Salvador. Nhờ
những người Bồ Đào Nha, những người Kongo đã học về bánh
xe và cái cày, và người Bồ Đào Nha thậm chí đã cổ vũ sự
chấp nhận chúng với các phái đoàn công cán nông nghiệp vào
năm 1491 và 1512. Nhưng tất cả những sáng kiến này đã thất
bại. Ấy thế mà, những người Kongo đã hoàn toàn không phải
không thích các công nghệ hiện đại nói chung. Họ đã rất
nhanh để chấp nhận một đổi mới sáng tạo phương Tây đáng
kính: súng. Họ đã dùng công cụ mới và hùng mạnh này để
đáp lại các khuyến khích thị trường: để bắt và xuất
khẩu nô lệ. Chẳng hề có dấu hiệu nào ở đây rằng các
giá trị hay văn hóa Phi châu đã ngăn cản sự chấp nhận các
công nghệ và thói quen mới. Khi những tiếp xúc của họ với
những người Âu châu sâu thêm, những người Kongo đã chấp
nhận các thói quen phương Tây khác: biết đọc biết viết,
phong cách ăn mặc, kiểu mẫu nhà cửa. Trong thế kỷ mười
chín, nhiều xã hội Phi châu cũng đã tận dụng các cơ hội
kinh tế tăng lên do Cách mạng Công nghiệp tạo ra bằng cách
thay đổi các hình mẫu sản xuất của họ. Ở Tây Phi đã có
sự phát triển kinh tế nhanh dựa trên xuất khẩu dầu cọ và
lạc; khắp miền nam châu Phi, những người Phi châu đã phát
triển xuất khẩu cho các vùng công nghiệp và khai mỏ đang mở
rộng nhanh chóng của Rand ở Nam Phi. Thế nhưng những thử
nghiệm kinh tế đầy hứa hẹn này đã bị xóa sạch không
phải bởi văn hóa Phi châu hay bởi sự bất tài của những
người dân thường Phi châu để hành động vì lợi ích riêng
của họ, mà đầu tiên bởi chủ nghĩa thực dân Âu châu và sau
đó bởi các chính phủ Phi châu sau độc lập.

Lý do thực sự của việc những người Kongo không chấp nhận
công nghệ ưu việt bởi vì họ đã không có khuyến khích nào
để làm vậy. Họ đã đối mặt với một rủi ro cao về tất
cả sản lượng của họ bị chiếm đoạt hay bị đánh thuế
bởi nhà vua có mọi quyền lực, dẫu cho ngài đã có cải đạo
sang Công giáo hay không. Thực ra, đã không chỉ là tài sản
của họ không an toàn. Sự tồn tại tiếp tục của họ được
giữ bằng một sợi chỉ. Nhiều trong số họ đã bị bắt và
bị bán làm nô lệ – một môi trường hầu như không khích
lệ đầu tư để làm tăng năng suất dài hạn. Nhà vua cũng đã
chẳng có các khuyến khích để làm cho việc chấp nhận [công
nghệ] cày trên quy mô lớn hay gia tăng năng suất nông nghiệp
thành ưu tiên chính của ngài; xuất khẩu nô lệ đã sinh lợi
hơn rất nhiều.

Đã có thể đúng ngày nay rằng những người Phi châu tin cậy
lẫn nhau ít hơn người dân ở những phần khác của thế
giới. Nhưng đấy là một kết quả của một lịch sử dài
của các thể chế mà đã làm xói mòn các quyền con người và
quyền tài sản ở châu Phi. Khả năng bị bắt và bị bán như
một nô lệ, không nghi ngờ gì đã ảnh hưởng đến mức độ
mà những người Phi châu tin vào nhau về mặt lịch sử.

Về đạo đức Protestant của Max Weber thì sao? Mặc dù có thể
đúng rằng các nước hầu thết theo Protestant, ví dụ như Hà
Lan và Anh, đã là những thành công kinh tế đầu tiên của kỷ
nguyên hiện đại, có ít quan hệ giữa tôn giáo và thành công
kinh tế. Pháp, nước hầu hết theo Công giáo, đã mau chóng bắt
chước thành tích kinh tế của người Hà Lan và người Anh trong
thế kỷ mười chín, và ngày nay Italy cũng thịnh vượng như
bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia này. Nhìn xa hơn sang
phương đông, bạn sẽ thấy rằng chẳng có nền kinh tế nào
trong các nền kinh tế thành công của Đông Á có bất cứ quan
hệ gì với bất cứ hình thức Kitô giáo (Christian) nào, cho nên
cũng chẳng có mấy sự ủng hộ cho một mối quan hệ đặc
biệt giữa phong trào Protestant và thành công kinh tế cả ở đó
nữa.

Hãy quay sang vùng ưa thích đối với những người say mê giả
thuyết văn hóa: Trung Đông. Các nước Trung Đông chủ yếu theo
đạo Hồi, và các nước không sản xuất dầu trong số đó là
rất nghèo, như chúng ta đã nhắc tới. Các nước sản xuất
dầu giàu hơn, nhưng của cải trời cho này đã làm chẳng bao
nhiêu để tạo ra các nền kinh tế hiện đại đa dạng ở Saudi
Arabia hay Kuwait. Chẳng phải những sự thực này cho thấy một
cách thuyết phục rằng tôn giáo có ý nghĩa? Mặc dù có vẻ
hợp lý, lý lẽ này cũng chẳng đúng. Đúng, các nước Syria và
Ai Cập là nghèo, và dân cư của chúng chủ yếu theo đạo Hồi.
Nhưng các nước này cũng khác một cách có hệ thống theo
những cách khác mà quan trọng hơn nhiều đối với sự thịnh
vượng. Trước hết, tất cả chúng đã là các tỉnh của Đế
chế Ottoman, mà đã định hình một cách nặng nề và bất lợi
cách chúng đã phát triển. Sau khi sự cai trị Ottoman sụp đổ,
Trung Đông đã bị gộp vào các đế chế thuộc địa Anh và
Pháp, mà, lại lần nữa, làm còi cọc những khả năng của
chúng. Sau khi độc lập, chúng đã hầu như đi theo thế giới
thuộc địa trước đó bằng cách phát triển các chế độ
chính trị thứ bậc, chuyên quyền với số ít các thể chế
chính trị và kinh tế mà, như chúng ta sẽ biện luận, là cốt
yếu cho việc tạo ra thành công kinh tế. Con đường phát triển
này đã được tạo dựng chủ yếu bởi lịch sử của sự cai
trị Ottoman và Âu châu. Quan hệ giữa Hồi giáo và nghèo khó ở
Trung Đông phần lớn là giả.

Vai trò của các sự kiện lịch sử này, hơn là các yếu tố
văn hóa, trong định hình quỹ đạo kinh tế của Trung Đông
cũng được thấy trong sự thực rằng các phần của Trung Đông
mà tạm thời thoát khỏi được ảnh hưởng của Đế chế
Ottoman và các cường quốc Âu châu, như Ai Cập giữa 1805 và
1848 dưới thời Muhammad Ali, đã có thể bắt đầu tiến lên con
đường thay đổi kinh tế nhanh. Muhammad Ali đã chiếm quyền
tiếp sau sự rút lui của các lực lượng Pháp đã chiếm đóng
Ai Cập dưới thời Napoleon Bonaparte. Khai thác sự yếu ớt của
ảnh hưởng Ottoman lên lãnh thổ Ai Cập lúc đó, ông đã có
thể lập ra triều đại riêng của mình, mà, dưới hình thức
này hay hình thức khác, đã có thể cai trị cho đến Cách mạng
Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Nasser năm 1952. Các cuộc cải
cách của Muhammad Ali, mặc dù cưỡng bức, đã mang lại sự
tăng trưởng cho Ai Cập khi bộ máy nhà nước, quân đội, hệ
thống thuế đã được hiện đại hóa và đã có tăng trưởng
trong nông nghiệp và công nghiệp. Tuy nhiên, quá trình hiện
đại hóa và tăng trưởng này đã kết thúc sau cái chết của
Ali, vì Ai Cập đã rơi vào ảnh hưởng của châu Âu.

Nhưng có lẽ đấy là cách sai để nghĩ về văn hóa. Có thể
các yếu tố văn hóa mà có ý nghĩa lại không gắn với tôn
giáo mà đúng hơn gắn với "các văn hóa dân tộc" cá biệt.
Có lẽ ảnh hưởng của văn hóa Anh là cái quan trọng và giải
thích vì sao các nước như Hoa Kỳ, Canada, và Australia thịnh
vượng đến vậy? Mặc dù ý tưởng này ban đầu nghe có vẻ
hấp dẫn, nó cũng chẳng có hiệu lực. Đúng, Hoa Kỳ và Canada
đã là các thuộc địa của Anh, nhưng Sierra Leone và Nigeria cũng
thế. Sự biến động về thịnh vượng bên trong các thuộc
địa trước kia của Anh cũng lớn như sự biến động thịnh
vượng trên toàn thế giới. Di sản Anh không phải là lý do cho
thành công của Bắc Mỹ.

Còn có một phiên bản nữa của giả thuyết văn hóa: có lẽ
không phải là Anh đối lại không Anh là cái có ý nghĩa, mà là
Âu châu đối lại không Âu châu. Có thể chăng là, những
người Âu châu giỏi hơn vì lý do nào đó bởi vì đạo đức
làm việc, cách nhìn về cuộc sống, các giá trị Do Thái-Kitô
giáo, hay di sản La Mã của họ? Đúng là dân cư của Tây Âu và
Bắc Mỹ, những phần thịnh vượng nhất của thế giới, chủ
yếu là những người có nguồn gốc Âu châu. Có lẽ di sản
văn hóa Âu châu ưu việt hơn là cái nằm ở gốc của sự
thịnh vượng – và là nơi ẩn náu cuối cùng của giả thuyết
văn hóa. Chao ôi, phiên bản này của giả thuyết văn hóa cũng
có ít khả năng giải thích như các phiên bản khác. Phần lớn
hơn của dân cư ở Argentina và Uruguay, so với dân cư Hoa Kỳ và
Canada, là những người có gốc Âu châu, nhưng thành tích kinh
tế của Argentina và Uruguay có nhiều điểm đáng chê. Nhật
Bản và Singapore đã chẳng bao giờ có nhiều hơn một nhúm cư
dân gốc Âu châu, thế nhưng họ thịnh vượng như nhiều phần
của Tây Âu.

Trung Quốc, bất chấp nhiều thiếu sót trong hệ thống kinh tế
và chính trị của nó, đã là quốc gia tăng trưởng nhanh nhất
của ba thập kỷ vừa qua. Sự nghèo khó của Trung Quốc cho
đến cái chết của Mao Trạch Đông đã chẳng liên quan gì
đến văn hóa Trung Hoa; nó đã là do cung cách tai họa mà Mao đã
tổ chức nền kinh tế và điều hành chính trị. Trong các năm
1950, Mao đã thúc đẩy phong trào Đại Nhảy Vọt, một chính
sách công nghiệp hóa quyết liệt mà đã dẫn tới chết đói
hàng loạt và nạn đói. Trong các năm 1960, ông đã tuyên truyền
Cách mạng Văn hóa, mà đã dẫn đến sự đàn áp hàng loạt
trí thức và những người có học – bất cứ ai mà lòng trung
thành với đảng bị nghi ngờ. Việc này, một lần nữa, lại
đã dẫn đến khủng bố và một sự lãng phí khổng lồ tài
năng và nguồn lực của xã hội. Cũng thế, tăng trưởng hiện
thời của Trung Quốc chẳng có liên quan gì đến các giá trị
Trung Hoa hay đến những thay đổi về văn hóa Trung Hoa; nó là
kết quả của một quá trình biến đổi kinh tế được tháo
xích bởi những cải cách được thực hiện bởi Đặng Tiểu
Bình và các đồng minh của ông, người, sau cái chết của Mao
Trạch Đông, đã dần dần từ bỏ các chính sách và các thể
chế kinh tế xã hội chủ nghĩa, đầu tiên trong nông nghiệp và
sau đó trong công nghiệp.

Hệt như giả thuyết địa lý, giả thuyết văn hóa cũng vô ích
cho sự giải thích các khía cạnh khác của địa hình địa
thế [tình hình] xung quanh chúng ta ngày nay. Tất nhiên, có những
khác biệt về lòng tin, thái độ văn hóa, và các giá trị
giữa Hoa Kỳ và Mỹ Latin, nhưng hệt như những khác biệt giữa
Nogales, Arizona, và Nogales, Sonora, hoặc giữa Bắc và Nam Hàn,
những khác biệt này là hệ quả của các thể chế và lịch
sử thể chế khác nhau của hai nơi. Các yếu tố văn hóa mà
nhấn mạnh văn hóa "Hispanic" hay "Latin" đã đúc Đế chế
Tây Ban Nha bằng khuôn không thể giải thích những sự khác
biệt bên trong châu Mỹ Latin – thí dụ, vì sao Argentina và Chile
thịnh vượng hơn Peru và Bolivia. Các loại khác của các lý lẽ
văn hóa – chẳng hạn, những loại nhấn mạnh văn hóa bản
địa đương đại – cũng hoạt động tồi ngang thế. Argentina
và Chile có ít dân bản địa so với Peru và Bolivia. Mặc dù
điều này đúng, văn hóa bản địa với tư cách một sự giải
thích cũng chẳng có hiệu lực. Colombia, Ecuador, và Peru có mức
sống tương tự nhau, nhưng ngày nay Columbia có rất ít người
bản địa, trong khi Ecuador, và Peru có nhiều. Cuối cùng, các
thái độ văn hóa, mà nói chung là chậm để thay đổi, bản
thân chúng không chắc giải thích được sự tăng trưởng kỳ
diệu ở Đông Á và Trung Quốc. Mặc dù các thể chế tồn tại
dai dẳng, trong những hoàn cảnh nhất định chúng cũng thay
đổi nhanh chóng, như chúng ta sẽ thấy.

<strong>GIẢ THUYẾT DỐT NÁT</strong>

Lý thuyết được ưa chuộng cuối cùng về vì sao một số
quốc gia nghèo và một số giàu là giả thuyết dốt nát, mà nó
khẳng định rằng sự bất bình đẳng thế giới tồn tại
bởi vì chúng ta hay những kẻ cai trị chúng ta không biết làm
thế nào để biến các nước nghèo thành giàu. Ý tưởng này
là ý tưởng của hầu hết các nhà kinh tế học, những người
nhận được sự gợi ý từ định nghĩa nổi tiếng do nhà kinh
tế học Anh Lionel Robins đề xuất năm 1935 rằng "kinh tế học
là môn khoa học nghiên cứu hành vi con người như một mối quan
hệ giữa các mục đích và các phương tiện khan hiếm mà có
những cách sử dụng khả dĩ khác".

Sau đó chỉ là một bước nhỏ để kết luận rằng khoa học
kinh tế phải tập trung vào cách sử dụng tốt nhất các
phương tiện khan hiếm để thỏa mãn các mục đích xã hội.
Thực vậy, kết quả lý thuyết nổi tiếng nhất trong kinh tế
học, cái được gọi là Định lý Phúc lợi Thứ nhất, nhận
diện hoàn cảnh mà dưới đó sự phân bổ nguồn lực trong
một "nền kinh tế thị trường" là đáng mong mỏi về mặt
xã hội nhìn từ quan điểm kinh tế. Một nền kinh tế thị
trường là một sự trừu tượng hóa mà có ý định nắm bắt
một hoàn cảnh trong đó tất cả các cá nhân và các hãng có
thể sản xuất, mua, và bán một cách tự do bất cứ sản phẩm
hay dịch vụ nào mà họ muốn. Khi các hoàn cảnh này không
hiện diện thì có một "khiếm khuyết thị trường – market
failure – hay thất bại thị trường". Những khiếm khuyết
như vậy tạo cơ sở cho một lý thuyết về sự bất bình
đẳng thế giới, vì các khiếm khuyết thị trường càng không
được giải quyết, thì một nước càng có khả năng là nghèo.
Giả thuyết dốt nát xác nhận rằng các nước nghèo là nghèo
bởi vì chúng có nhiều khiếm khuyết thị trường và bởi vì
các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính sách không
biết làm thế nào để thoát khỏi chúng và đã chú ý đến
lời khuyên sai trong quá khứ. Các nước giàu là giàu bởi vì
họ đã hình dung ra các chính sách tốt hơn và đã thành công
loại bỏ các khiếm khuyết này.

Giả thuyết dốt nát có thể giải thích sự bất bình đẳng
thế giới? Có thể chăng rằng các nước Phi châu nghèo hơn
phần còn lại của thế giới là bởi vì các nhà lãnh đạo
của họ có xu hướng có cùng các quan điểm sai lầm về làm
thế nào để vận hành các nước của họ, dẫn đến sự
nghèo khó ở đó, trong khi các nhà lãnh đạo Tây Âu có hiểu
biết tốt hơn hay được khuyên bảo tốt hơn, mà giải thích
thành công tương đối của họ? Trong khi có các thí dụ nổi
tiếng về các nhà lãnh đạo chọn làm theo các chính sách tai
hại bởi vì họ đã hiểu lầm các hậu quả của những chính
sách đó, sự dốt nát có thể giải thích một phần nhỏ của
sự bất bình đẳng thế giới.

Xét theo bề ngoài, sự sa sút kinh tế kéo dài, mà đã bắt
đầu ngay ở Ghana sau khi độc lập khỏi Anh, đã do sự dốt
nát gây ra. Nhà kinh tế học Anh Tony Killick, khi đó hoạt động
với tư cách một cố vấn cho chính phủ Kwame Nkrumah đã ghi
lại rất chi tiết nhiều vấn đề. Các chính sách của Nkrumah
đã tập trung vào phát triển công nghiệp nhà nước, mà đã
hóa ra là rất không hiệu quả. Killick nhớ lại:

Nhà máy giày … mà phải gắn với nhà máy thịt ở miền Bắc
qua việc vận chuyển da xuống miền Nam (suốt một khoảng cách
trên 500 dặm) đến một nhà máy thuộc da (bây giờ bị bỏ
hoang); đã phải chở da thuộc ngược lại bằng xe tải đến
nhà máy giày ở Kumasi, ở giữa nước và cách nhà máy thuộc da
khoảng 200 dặm về phía bắc. Vì thị trường giày chính là ở
vùng đô thị Accra, nên sau đó giày phải được vận chuyển
thêm 200 dặm quay lại miền Nam.

Killick bình luận một cách hơi giảm bớt rằng đấy đã là
một hoạt động kinh doanh "mà khả năng sinh lời của nó bị
xói mòn bởi sự lựa chọn địa điểm tồi". Nhà máy giày
chỉ là một trong nhiều dự án như vậy, thêm vào là nhà máy
đóng hộp xoài được đặt tại vùng của Ghana mà đã không
trồng xoài và sản lượng của nó đã nhiều hơn cầu của
toàn thế giới đối với sản phẩm đó. Dòng vô tận này của
những việc triển khai phi lý về mặt kinh tế đã không được
gây ra bở sự thực rằng Nkrumah và các cố vấn của ông đã
kém hiểu biết hay đã dốt nát về các chính sách kinh tế
đúng. Họ đã có những cố vấn như Killick và đã thậm chí
được tư vấn bởi kinh tế gia được giải Nobel, Sir Arthur
Lewis, những người đã biết các chính sách này là không tốt.
Cái đã khiến các chính sách kinh tế có hình thức ấy là sự
thực rằng Nkrumah đã cần phải sử dụng chúng để mua sự
ủng hộ chính trị và để duy trì chế độ phi dân chủ của
ông. Thành tích gây thất vọng của Ghana sau độc lập không
thể, và vô số các trường hợp khác về quản lý kinh tế sai
rành rành cũng chẳng thể, đơn giản đổ lỗi cho sự ngu dốt.
Rốt cuộc, nếu giả như sự ngu dốt là vấn đề, thì các nhà
lãnh đạo có thiện chí sẽ nhanh chóng học được các loại
chính sách nào làm tăng thu nhập và phúc lợi của các công dân
của họ, và sẽ hướng theo các chính sách đó.

Hãy xem xét những con đường khác nhau của Hoa Kỳ và Mexico. Quy
sự khác biệt này cho sự dốt nát của các lãnh đạo của hai
quốc gia, nhiều nhất, là có vẻ hết sức không hợp lý. Đã
không phải là những sự khác biệt về hiểu biết hay về ý
định giữa John Smith và Cortés là cái đã gieo hạt phân kỳ
trong giai đoạn thuộc địa, và đã không phải là những sự
khác biệt về hiểu biết giữa các tổng thống Hoa Kỳ muộn
hơn, như Teddy Roosevelt hay Woodrow Wilson, và Porfirio Díaz là cái
đã khiến cho Mexico chọn các thể chế kinh tế làm giàu cho
elite gây tổn hại cho phần còn lại của xã hội vào cuối
thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, trong khi
Roosevelt và Wilson thì đã làm ngược lại. Đúng hơn, đã là
những khác biệt về các ràng buộc thể chế mà các tổng
thống và elite của hai nước đã phải đối mặt. Tương tự,
các nhà lãnh đạo của các quốc gia Phi châu, các quốc gia
sống khổ cực dưới các quyền tài sản và các thể chế kinh
tế không an toàn, bần cùng hóa phần lớn dân cư của họ, đã
không cho phép điều này xảy ra bởi vì họ đã nghĩ nó là
nền kinh tế tốt; họ đã làm như vậy bởi vì họ đã có
thể không bị trừng phạt và làm giàu cho bản thân họ gây
tổn hại cho những người còn lại, hay bởi vì họ đã nghĩ
là quan điểm chính trị tốt, một cách để bản thân họ bám
lấy quyền lực bằng cách mua sự ủng hộ của các nhóm cốt
yếu hay elite.

Kinh nghiệm của thủ tướng Ghana trong năm 1971, Kofi Busia, minh
họa giả thuyết ngu dốt có thể gây lạc lối đến thế nào.
Busia đã đối mặt với một khủng hoảng kinh tế nguy hiểm.
Sau khi lên nắm quyền năm 1969, giống như Nkrumah trước ông,
ông đã theo đuổi các chính sách kinh tế mở rộng không bền
vững và duy trì những sự kiểm soát giá khác nhau thông qua các
hội đồng marketing và đã định tỷ giá hối đoái cao. Mặc
dù Busia đã là một định thủ của Nkrumah, và đã lãnh đạo
một phong trào dân chủ, ông đã phải đối mặt với nhiều
ràng buộc chính trị cũng như thế. Như với Nkrumah, các chính
sách kinh tế của ông đã được chấp nhận không phải bởi
vì ông đã "dốt nát" và đã tin rằng những chính sách này
là chính sách kinh tế tốt hay là một cách lý tưởng để phát
triển đất nước. Các chính sách này đã được chọn bởi vì
chúng đã tốt về mặt chính trị, cho phép Busia chuyển nguồn
lực cho các nhóm hùng mạnh về mặt chính trị, thí dụ ở các
vùng đô thị, những người cần phải được cảm thấy hài
lòng. Những việc kiểm soát giá đã vắt ngành nông nghiệp,
cung cấp thực phẩm rẻ cho các cử tri đô thị và tạo thu
nhập để tài trợ cho chi tiêu của chính phủ. Nhưng những
kiểm soát này đã là không bền vững. Ghana mau chóng đã bị
một loạt khủng hoảng về cán cân thanh toán và thiếu hụt
ngoại hối. Đối mặt với những thế lưỡng nan này, ngày
27-12-1971, Busia đã ký một thỏa thuận với Quỹ Tiền tệ
Quốc tế, IMF, mà bao gồm một sự phá giá ồ ạt đồng nội
tệ.

IMF, Ngân hàng Thế giới, và toàn bộ cộng đồng quốc tế đã
gây áp lực lên Busia để thực thi những cải cách chứa trong
thỏa thuận. Mặc dù các thể chế quốc tế đã sung sướng
không ý thức được, nhưng Busia biết rõ ông đang lao vào một
cuộc đánh bạc chính trị khổng lồ. Hệ quả ngay lập tức
của việc phá giá đồng tiền đã là bạo loạn và bất mãn
ở Accra, thủ đô Ghana, mà đã lên đến mức không thể kiểm
soát nổi cho đến khi Busia bị lật đổ bởi quân đội, lãnh
đạo bởi Trung Tá Acheampong, người đã lập tức đảo ngược
việc phá giá.

Giả thuyết dốt nát khác các giả thuyết địa lý và văn hóa
ở chỗ nó đến dễ dàng với một gợi ý về "giải
quyết" vấn đề nghèo khó như thế nào: nếu sự dốt nát
đã đưa chúng ta đến đây, thì các nhà cai trị và các nhà
hoạch định chính sách được giác ngộ và có hiểu biết sẽ
có thể đưa chúng ta ra khỏi và chúng ta phải có khả năng
"sắp đặt-engineer" sự thịnh vượng quanh thế giới bằng
cách cung cấp lời khuyên đúng và thuyết phục các nhà chính
trị về nền kinh tế tốt là gì. Thế nhưng kinh nghiệm của
Busia nhấn mạnh sự thực rằng trở ngại chính đối với
việc chấp nhận các chính sách mà sẽ làm giảm những khiếm
khuyết thị trường và khích lệ tăng trưởng kinh tế không
phải là sự vô minh, sự dốt nát của các nhà chính trị mà
là các khuyến khích (incentive) và các ràng buộc (constraint) họ
đối mặt từ các thể chế chính trị và kinh tế trong các xã
hội của họ.

Mặc dù giả thuyết dốt nát vẫn ngự trị cao nhất giữa hầu
hết các nhà kinh tế học và trong giới làm chính sách phương
Tây – mà, hầu như loại trừ tất cả những thứ khác, chỉ
chú tâm vào làm thế nào để sắp đặt, lập kế hoạch sự
thịnh vượng – nó chỉ là một giả thuyết khác không có
hiệu lực. Nó không giải thích được các nguồn gốc của
thịnh vượng quanh thế giới và cũng chẳng giải thích được
tình hình (thế đất) quanh chúng ta – thí dụ, vì sao một số
quốc gia, chẳng hạn Mexico và Peru, chứ không phải Hoa Kỳ hay
Anh, đã chấp nhận các thể chế và các chính sách bần cùng
hóa đa số công dân của họ, hay vì sao hầu như toàn bộ châu
Phi hạ-Sahara và hầu hết Trung Mỹ lại nghèo hơn Tây Âu hay
Đônng Á rất nhiều.

Khi các quốc gia phá vỡ để vượt ra khỏi các hình mẫu thể
chế ép buộc họ nghèo và tìm được cách để bắt đầu
bước lên con đường tăng trưởng kinh tế, việc này không
phải bởi vì các nhà lãnh đạo dốt nát của họ đột nhiên
trở nên có hiểu biết tốt hơn hay ít tự-tư tự lợi hơn
hoặc đã nhận được lời khuyên từ các nhà kinh tế học
giỏi hơn. Thí dụ, Trung Quốc là một trong những nước đã
chuyển từ các chính sách kinh tế gây ra nghèo khó và sự chết
đói của hàng triệu người sang các chính sách khích lệ tăng
trưởng kinh tế. Nhưng, như muộn hơn chúng ta sẽ thảo luận
chi tiết hơn nhiều, điều này đã không xảy ra bởi vì Đảng
Cộng Sản Trung Quốc cuối cùng đã hiểu rằng sở hữu tập
thể về đất nông nghiệp và công nghiệp đã tạo ra các
khuyến khích khủng khiếp. Thay vào đó, Đặng Tiểu Bình và
các đồng minh của ông, những người đã không kém tư lợi
hơn các đối thủ của họ mà là những người có các lợi
ích và các mục tiêu chính trị khác, đã đánh bại các đối
thủ hùng mạnh của họ trong Đảng Cộng Sản và đã chỉ huy
một cuộc cách mạng chính trị loại xoàng, thay đổi triệt
để ban lãnh đạo và đường hướng của đảng. Các cuộc
cải cách kinh tế của họ, mà đã tạo ra các khuyến khích
thị trường trong nông nghiệp và sau đó trong công nghiệp, đã
tất yếu xảy đến từ cách mạng chính trị này. Chính chính
trị là cái đã quyết định sự chuyển từ chủ nghĩa cộng
sản sang các khuyến khích thị trường ở Trung Quốc, chứ
không phải lời khuyên tốt hơn hoặc một sự hiểu đúng hơn
về nền kinh tế hoạt động thế nào.
<img src="http://vanhoanghean.com.vn/media/images/image013.png" />
CHÚNG TA SẼ CHỨNG TỎ rằng để hiểu sự bất bình đẳng
thế giới chúng ta phải hiểu vì sao một số xã hội lại
được tổ chức theo những cách rất không hiệu quả và không
đáng mong mỏi về mặt xã hội. Các quốc gia đôi khi có tìm
được cách để chấp nhận các thể chế hiệu quả và đạt
sự thịnh vượng, nhưng chao ôi, đấy là những trường hợp
hiếm hoi. Hầu hết các nhà kinh tế học và các nhà hoạch
định chính sách đã tập trung vào "getting it right – hiểu
đúng, làm đúng", trong khi cái thực sự cần đến là một
sự giải thích vì sao các quốc gia nghèo lại "get it wrong –
hiểu sai, làm sai". Làm sai phần lớn không phải là về sự
dốt nát hay văn hóa. Như chúng ta sẽ chứng tỏ, các nước
nghèo là nghèo bởi vì những người có quyền lực đưa ra
những lựa chọn mà chúng tạo ra nghèo khó. Họ làm sai không
phải bởi sự sai lầm hay sự ngu dốt mà là cố ý, có chủ
tâm. Để hiểu điều này, bạn phải vượt quá kinh tế học
và lời khuyên chuyên gia về cái tốt nhất để làm và, thay
vào đó, nghiên cứu các quyết định thực sự được đưa ra
như thế nào, ai sai khiến đưa ra chúng, và vì sao những người
quyết định để làm cái họ làm. Đây là việc nghiên cứu
về chính trị học và các quá trình chính trị. Theo truyền
thống kinh tế học đã bỏ qua chính trị học, nhưng việc
hiểu chính trị học là cốt yếu cho việc hiểu sự bất bình
đẳng thế giới. Với tư cách một nhà kinh tế học Abba Lerner
đã nhận xét trong các năm 1970, "Kinh tế học đã nhận
được danh hiệu Nữ hoàng của các Khoa học Xã hội bằng cách
chọn các vấn đề chính trị đã được giải quyết như lĩnh
vực của mình".

Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng việc đạt sự thịnh vượng phụ
thuộc vào việc giải [quyết] một số vấn đề chính trị cơ
bản. Chính xác bởi vì kinh tế học đã giả thiết rằng các
vấn đề chính trị đã được giải mà nó đã không có khả
năng tìm ra một lời giải thích thuyết phục cho sự bất bình
đẳng thế giới. Việc giải thích sự bất bình đẳng thế
giới vẫn cần đến kinh tế học để hiểu các loại khác nhau
của các chính sách và những dàn xếp xã hội ảnh hưởng thế
nào đến các khuyến khích và hành vi kinh tế. Nhưng nó cũng
cần chính trị học.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12897), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét