Lạm phát vì đâu?

<center><img
src="http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=175780&Width=400"
/></center>
<center><em>Tăng cung tiền suốt một thời gian dài đã đẩy lạm
phát tăng cao (Ảnh minh họa: Đại Dương).</em></center>

TP - Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh-Giám đốc nghiên cứu Chương
trình giảng dạy kinh tế Fulbright phân tích bản chất và những
căn bệnh của nền kinh tế xung quanh câu chuyện lạm phát và
lãi suất ngân hàng.

<h2>Hệ quả của những điều bất bình thường</h2>

<div class="boxright220"><img
src="http://www.tienphong.vn/ImageHandler.ashx?ThumbnailID=175779&Width=400"
/><div class="textholder">TS Vũ Thành Tự Anh.</div></div>
<em>Lạm phát, giá cả tăng và doanh nghiệp (DN) cần nhiều vốn
để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi đó
nguồn vốn lại bị siết khiến DN gặp không ít khó khăn, ông
nhìn nhận thế nào?</em>

Chúng ta nên có cái nhìn dài hạn, không thể cứ thấy giá tăng
thì Nhà nước bơm tiền ra để DN có vốn. Vấn đề là, đằng
sau hiện tượng tăng giá có nhiều nguyên nhân, trong đó có 2
nguyên nhân chính.

Thứ nhất, trong thời gian dài, cung tiền tăng rất nhanh, cụ
thể trong suốt 15 năm trở lại đây, tăng trưởng tín dụng
luôn ở mức trên 30%/năm. Thứ hai, trong khi cung tiền tăng như
vậy nhưng tăng trưởng GDP lại không tương xứng, tăng trưởng
trung bình 7%/năm và thời gian gần đây chưa đến con số đó.

<span class="underlined-text">Sự mất cân đối đó dứt khoát phải
gây ra lạm phát, nhập siêu</span>. Khi lạm phát cao, Chính phủ
buộc phải giảm bớt cung tiền, tín dụng. Về bản chất là
sửa lại cái lỗi trong suốt mười mấy năm qua, đặc biệt
từ năm 2007 trở lại đây.

<em>Nếu lạm phát tiếp tục tăng, thì lãi suất cũng tăng theo,
cho nên dù Nhà nước có dùng biện pháp hành chính để khống
chế giảm lãi suất thì doanh nghiệp, ngân hàng cũng sẽ tìm
cách đục thủng trần lãi suất theo quy luật thị trường?</em>

Khi làm điều đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã áp dụng biện
pháp hành chính để nén lãi suất xuống và tránh cuộc chạy
đua lãi suất của các ngân hàng thương mại (NHTM).

Nhưng biện pháp đó vi phạm quy luật cung cầu của thị
trường tín dụng. Thực tế này cũng làm cho DN và các NHTM lách
trần tín dụng bằng nhiều cách và chưa chắc lãi suất áp
đặt của NHNN đã phát huy tác dụng, nhưng lại chắc chắn
tạo ra một loạt những méo mó trong hệ thống, và cụ thể là
trên thị trường tín dụng.

<em>Khi lãi suất cho vay lẫn lãi suất huy động đều cao, ông
có cho rằng, đó là nền kinh tế chứa đựng nhiều điều bất
thường?</em>

Chắc chắn là bất bình thường, và đó là <span
class="underlined-text">hệ quả của một thời gian dài bất bình
thường.</span> Nền kinh tế trước kia tăng trưởng 7- 8% thì
mọi người nghĩ rằng tăng trưởng tín dụng như thế là ổn,
nhưng nó giống như là người uống rượu nhiều quá, bệnh
tích lũy lại và đến lúc bùng phát thì mới vỡ ra rằng,
việc chúng ta làm từ trước đến giờ là tích lũy bệnh.

Bất bình thường đó như một căn bệnh được tích tụ trong
nhiều năm. Thứ hai, lãi suất cao, 16-18%, đã làm tăng chi phí
kinh doanh của DN, và khi phải cạnh tranh với các đối thủ
quốc tế mà họ chỉ phải trả lãi suất 5%-6% thì đó là sự
bất lợi của DN Việt Nam.

Thứ ba, điều rất quan trọng mà người ta ít khi nói tới, đó
là tính bất định. Vấn đề của DN hiện nay là không biết
được ngày mai sẽ lên hay xuống, tình trạng thị trường sẽ
như thế nào, những rủi ro về mặt thị trường quá lớn,
lớn hơn rất nhiều so với chi phí trả cho việc lãi suất
tăng.

<h2>Ách tắc thanh khoản</h2>

<em>Tính thanh khoản của các ngân hàng kém là do sự yếu kém
của chính ngân hàng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng lại bắt DN
và người dân gánh chịu yếu kém của mình?</em>

Hiện tại, lượng tiền trong các ngân hàng đang bị ứ đọng
chứ không phải thiếu. Nhìn vào thanh khoản của các ngân hàng
thì biết số lượng tiền gửi tăng và ngày càng nhiều, trong
khi giải ngân thấp hơn so với trước.

Có người nói lượng tiền hiện nay dồi dào, tôi thì cho rằng
nó bị ách tắc chứ không phải dồi dào.

Tại sao như thế? Một phần do lãi suất cao nên ngân hàng khó
cho vay, ngay cả khi muốn cho vay cũng không tìm được khách hàng
an toàn để cho vay, bởi rủi ro trên thị trường, tức tính
bất định như tôi vừa nói quá lớn.

Khi cho một DN vừa và nhỏ vay, ngân hàng không dám chắc thu
hồi được vốn nên phải cộng thêm vào đấy một phần bù
cho rủi ro. Mặt bằng lãi suất cao, cộng với rủi ro cao làm
cho lãi suất cao thêm một tầng nữa.

Nếu không làm giảm bớt những rủi ro đấy thì sẽ không có
cơ sở để giảm lãi suất và DN sẽ không vay để đầu tư
mở rộng sản xuất. Khi ngân hàng ứ đọng tiền, họ tìm
đầu ra bằng việc mua trái phiếu, tín phiếu của Chính phủ,
lãi suất 10-11%, tuy thấp hơn lãi suất cho vay nhưng bù lại
không phải chịu rủi ro, vì đấy là tài sản do Chính phủ
bảo đảm.

Bên cạnh đó, lãnh đạo các ngân hàng nhìn thấy khoảng 4, 5
tháng nữa lạm phát có thể sẽ trở về mức 7-8%, nên mua ở
thời điểm này 10-11% là tốt quá rồi. Họ đặt tiền tại
chỗ và chẳng phải làm gì nhưng vẫn có lợi nhuận. Đấy
chính là vấn đề của hệ thống ngân hàng hiện nay.

<em>Theo ông, điều đó sẽ dẫn đến những hệ lụy gì?</em>

Hệ lụy đầu tiên là dòng vốn không được khơi thông, nó
vẫn bị ứ đọng, chỉ chuyển từ ứ đọng trong két của
ngân hàng sang ứ đọng trong trái phiếu hoặc tín phiếu mà
ngân hàng đang sở hữu. Vốn đó không đến được với các
DN.

Thứ hai, khi NHNN và Chính phủ vẫn tiếp tục huy động trái
phiếu và tín phiếu thì các NHTM vẫn tìm thấy đường ra nên
không có động lực, không có khuyến khích nào để buộc họ
phải cho DN vay, tức là Nhà nước đang chèn lấn khu vực tư
nhân, khu vực nhà nước đang chèn lấn khu vực DN.

Như thế làm sao DN có vốn để đầu tư sản xuất. Nếu NHNN
và Chính phủ không phát hành trái phiếu, tín phiếu nhiều thì
lượng ứ đọng của ngân hàng sẽ phải tìm đường ra là DN
hoặc người tiêu dùng. Giờ Nhà nước hút tiền vào rồi thì
ngân hàng ung dung tự tại hưởng lãi suất 3-4%.

<em>Làm thế nào để ngân hàng vừa không ứ đọng, vừa phục
vụ các đối tượng có nhu cầu vốn một cách hiệu quả, thưa
ông?</em>

Cần tiếp tục giảm lãi suất song hành với kiềm chế lạm
phát. Nếu xu thế như hiện nay thì đến tháng 6 năm nay lạm
phát so với cùng kỳ năm ngoái sẽ giảm xuống mức 8-9%, là
mức ổn định, lành mạnh đối với nền kinh tế đang phát
triển như Việt Nam.

Điều đó cũng có nghĩa là NHNN tiếp tục giảm thêm lãi suất,
không phải chỉ ở mức 12% như hiện nay mà có thể xuống 9-10%
vào khoảng tháng 6 này. Khi lãi suất huy động giảm còn 10% thì
đó là cơ sở để giảm lãi suất cho vay.

Lãi suất cho vay cao không phải vì lãi suất huy động cao mà vì
rủi ro quá lớn, vậy thì Nhà nước phải giảm rủi ro xuống
bằng cách ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó làm giảm bớt
những rủi ro có tính thị trường và DN có thể đầu tư, mở
rộng sản xuất.

Khi người tiêu dùng thấy không bị xói mòn giá trị vì lạm
phát thì có thể bỏ tiền ra tiêu dùng. Đấy là lúc cả bên
cung và bên cầu có niềm tin lớn hơn vào triển vọng kinh tế
và sẽ thúc đẩy nền kinh tế đi lên.

Thứ ba, Nhà nước có thể nghĩ đến những biện pháp ngắn
hạn, như giảm thuế, miễn thuế cho DN và đừng chồng thêm
các loại phí vì sẽ làm giảm chi tiêu của người dân khiến
nền kinh tế đi sâu hơn vào đình trệ.

<h2>Những tín hiệu lạc quan</h2>

<em>Theo ông, các cơ quan điều hành đã làm được gì để ổn
định nền kinh tế vĩ mô?</em>

Nhìn vào các chỉ số hiện nay, tôi thấy NHNN làm được 2
việc. Việc thứ nhất là có một lộ trình giảm lãi suất
rất mạch lạc, Thống đốc nói rất rõ và thực hiện đúng
những gì ông ấy nói là mỗi quý giảm 1%.

Thông điệp như thế là rõ ràng và tạo niềm tin cho thị
trường. Thứ hai, với chính sách thắt chặt chính sách tiền
tệ thì trên thực tế lạm phát giảm.

NHNN chưa làm được là việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Cho đến nay, chưa có dấu hiệu gì cụ thể của việc tái cơ
cấu, thậm chí tôi còn nhìn thấy trong đấy một số dấu
hiệu chưa tích cực.

Cụ thể là 3 ngân hàng sáp nhập lại với nhau (hồi cuối năm
2011) là có cùng một chủ.

Lỗi của họ là phá tan tài sản của người gửi tiền, tạo
ra rủi ro cho hệ thống nhưng họ không những không bị mất
vốn hoặc bị phạt mà lại còn được thưởng bằng cách
được nhà nước bơm tiền vào, được Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV) hỗ trợ thanh khoản. <span
class="underlined-text">Đó là cái không công bằng.</span>

<em>Ông đánh giá thế nào về tình hình lạm phát trong thời
gian tới?</em>

Nhìn một cách tổng quan, tôi không thấy có những nhân tố
đột biến để làm cho lạm phát thay đổi trong một, hai quý
tới, đặc biệt trong quý II-2012. Tôi tin là vào quý III năm nay
lạm phát chỉ còn dao động 7%-8%.

Xu thế lạm phát giảm đều đặn cho đến quý III năm nay.
Việc giảm một cách ổn định như thế thì chính sách lãi
suất cần điều chỉnh một cách tương thích.

<em>Cảm ơn ông.</em>


<em><strong>Đại Dương thực hiện</strong></em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12405), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét