Đã 37 năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn thống nhất.
Quãng thời gian này chỉ vào khoảng 1% của lịch sử dân tộc
Việt Nam nhưng lại là khoảng thời gian hòa bình có nhiều
biến chuyển nhất. Trong vòng 10 năm đầu, cả đất nước đã
thử nghiệm mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, loay hoay
tìm cách hoàn thiện nó, nhưng cuối cùng đã phải thừa nhận
đó là một mô hình sai lầm vào năm 1986.
Hơn 20 năm qua, chúng ta dường như đã chấp nhận cơ chế thị
trường nhưng vẫn loay hoay đi tìm những nguyên lý quản trị
quốc gia để tương thích với cơ chế này. Lịch sử là quá
khứ. Nhưng lịch sử chính là nơi để mỗi cá nhân, mỗi dân
tộc soi xét nhằm rút ra những bài học, những nguyên lý định
hướng cho sự phát triển của mình trong tương lai. Đối với
tôi, ba nguyên lý dưới đây là những nguyên lý cơ bản nhất
để xây dựng một hệ thống quản trị quốc gia thịn vượng
và hiệu quả.
<h2>Nguyên lý 1: xây dựng và bảo vệ cơ chế thị trường</h2>
Ngày nay khi nói đến cơ chế thị trường hiếm ai còn phủ
nhận vai trò của nó trong việc tạo ra của cải vật chất. Tuy
nhiên, người ta lại thường nhắc đến những khuyết tật
của nó, xem thị trường là nguyên nhân gây ra những thói hư
tật xấu trong xã hội, và do đó, là đối tượng mà nhà
nước cần phải khống chế, kiểm soát để giảm thiểu những
thói hư tật xấu đó.
Nhưng thực tế Việt Nam cho thấy một bức tranh hoàn toàn
ngược lại. Bất cứ chỗ nào thị trường xác lập được
chỗ đứng của mình, ở đấy đức hạnh và hành xử văn minh
được vun trồng và phát triển.
Chúng ta đều biết nền tảng quan trọng nhất của cơ chế
thị trường là việc công nhận và bảo vệ quyền sở hữu
tài sản của cá nhân. Ở những nơi mà quyền sở hữu tài
sản được xác lập rõ ràng và minh bạch nhất, chẳng hạn
các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, thì những
người đứng đầu doanh nghiệp luôn tỏ ra là những cá nhân
sống có trách nhiệm với nhân viên, với cộng đồng, và với
gia đình của mình. Những hành động thiếu văn minh, như việc
tổ chức đám cưới linh đình của gia đình bà chủ công ty
Bianfishco trong thời gian vừa qua, đã phải trả một giá rất
đắt, khiến cho doanh nghiệp của mình suýt rơi vào tình trạng
phá sản.
Có nhiều người cho rằng đạo đức ở nông thôn Việt Nam bị
xuống cấp vì cơ chế thị trường. Thực sự thì không phải
như vậy. Tài sản lớn nhất của người nông dân là ruộng
đất. Nhưng khi vấn đề sở hữu đất đai ở Việt Nam còn
chưa rõ ràng thì thị trường vẫn còn xa mới được thiết
lập ở các vùng quê. Ở những khu vực nông thôn mà đất đai
bổng dưng trở nên có giá trị, các hành vi lừa lọc và chiếm
đoạt sẽ bị kích thích. Và những đồng tiền có được một
cách dễ dàng khiến những người nông dân chân chất trước
đây bị cuốn vào lối sống "trưởng giả học làm sang".
Điều tương tự cũng xảy ra ở cơ quan công quyền, khi mà thị
trường chưa thực sự lớn mạnh, chưa tạo đủ sức ép khiến
quan chức nhà nước buộc phải phục vụ xã hội thay vì quản
lý xã hội, thì còn xa các quan chức nhà nước mới thực hiện
công khai tài sản. Khác với những người chủ doanh nghiệp có
tài sản công khai, buộc họ phải sống có đạo đức hơn, sự
mập mờ về nguồn gốc tài sản quan chức khiến cho một bộ
phận không nhỏ trong số họ ngày càng "suy thoái đạo
đức".
<h2>Nguyên lý 2: xác lập bình đẳng hình thức</h2>
Con người ta vốn sinh ra đã có sự khác biệt về chất
(substantive). Thể tạng của mọi người về cơ bản khác nhau;
chủng tộc, nơi sinh sống khác nhau v.v. cũng khiến cho mỗi
người có những điểm riêng biệt mà người khác không có.
Việc công nhận quyền sở hữu trong nền kinh tế thị trường
càng khiến cho mỗi cá nhân khi lớn lên được hưởng những
gia tài thừa kế lớn bé khác nhau. Tuy khác nhau về chất nhưng
về hình thức (formal) thì tất cả các cá nhân đều bình
đẳng theo nghĩa họ đều là con người. Hàm ý rất rõ ràng
của nguyên lý bình đẳng hình thức này là tất cả các cá
nhân dù khác nhau về chất nhưng đều cần phải được đối
xử ngang bằng nhau, tức có cơ hội thành công ngang nhau trong
mọi cuộc đua tranh trong xã hội.
Nguyên lý tưởng chừng như hiển nhiên đó lại không được
chúng ta nhìn nhận đúng mức trong những năm vừa qua. Đã có
một thời chúng ta quản lý nhà nước theo kiểu cố gắng làm
cho mọi người giống nhau về chất, từ ăn mặc cho đến
thưởng thức văn hoá, nghệ thuật. Tuy hiện nay nhà nước đã
cho phép các cá nhân/chủ thể được tự do hơn nhiều trong
việc thể hiện sự khác biệt của mình nhưng dường như đó
chỉ là do sức ép của thị trường hơn là chủ động của
chính quyền trong việc áp dụng nguyên lý bình đẳng hình
thức. Chúng ta có thể bắt gặp nhiều hình thức cấm đoán
mang tính hành chính, từ cách ăn mặc của ca sĩ, như không
được mặc áo xẻ ngực quá nhiều, cho đến hoạt động kinh
doanh của tổ chức tín dụng, như áp trần lãi suất huy động.
Những cấm đoán có tính cào bằng này, dù ở bất kỳ lĩnh
vực nào, cũng chỉ gây cản trở những người tham gia phát huy
được những tố chất khác biệt ẩn chứa trong mỗi người
để tạo ra nhiều giá trị hơn chính bản thân họ và cho xã
hội.
Nguyên lý bình đẳng hình thức đòi hỏi chính quyền phải
tập trung xây dựng và bảo vệ luật pháp không nhằm đáp ứng
nhu cầu hay ước muốn của những người cụ thể nào. Đó
phải là những qui tắc lâu dài để giúp mọi người trong xã
hội có thể dự đoán hành vi của những người khác mà họ
sẽ phải cộng tác hay cạnh tranh. Nguyên lý bình đẳng hình
thức cũng đòi hỏi chính quyền phải giới hạn hành động
của mình trong những khuôn khổ pháp lý để người dân có
thể dự đoán được các hành vi của những người nhân danh
chính quyền. Như thế, nguyên lý bình đẳng hình thức chính là
nền tảng để xây dựng một nhà nước pháp trị cho Việt Nam.
<h2>Nguyên lý 3: Thúc đẩy đa dạng hoá</h2>
Phát triển là quá trình đa dạng hoá. Điều này không chỉ
đúng ở muôn loài mà còn đúng ở tron g xã hội loài người.
Một quốc gia phát triển là một quốc gia không những chỉ
tràn ngập các chủng loại hàng hoá khác nhau mà còn phong phú
về các hệ tư tưởng và các loại hình văn hoá, nghệ thuật.
Việt Nam có lẽ là một trong số ít các quốc gia được thừa
hưởng sẵn một nền tảng đa dạng phong phú, từ đa dạng về
các dân tộc và tôn giáo cho đến đa dạng về khí hậu và
địa hình. Tuy nhiên, các chính sách của chúng ta trong những
năm qua ít nhắc đến yếu tố đa dạng hoá. Ở khắp các vùng
miền, chúng ta đều thấy những chủng loại hàng hoá tương
tự nhau, những công trình kiến trúc hiện đại từa tựa nhau,
những cách thức tổ chức văn hoá, những lễ hội hao hao
giống nhau, những mô hình tổ chức xã hội giống hệt nhau v.v.
Trong thời đại toàn cầu hoá, việc thiếu vắng các nét khác
biệt sẽ có thể khiến chúng ta bị thua thiệt hoặc thất bại
trong mọi lĩnh vực, thậm chí bị tiêu diệt hoặc "tan
chảy", nhập vào các đối thủ khác.
Nguyên lý đa dạng hoá đòi hỏi chính quyền không những phải
cho phép mà còn phải có những cơ chế khuyến khích các cá
nhân và tổ chức tự chủ quyết định theo đuổi những con
đường riêng của mình. Muốn vậy, từ khâu giáo dục, kinh
doanh cho đến sinh hoạt cộng đồng và thậm chí chính quyền
địa phương cũng cần được quyền đưa những nét khác biệt,
từ nội dung cho đến cách thức tổ chức, vào trong địa
phương hoặc vùng miền của mình. Chỉ có như vậy chúng ta
mới có thể nuôi dưỡng được những thế hệ trẻ không
những chỉ kế thừa mà còn sáng tạo thêm được nhiều nét
độc đáo mới của Việt Nam trong thời đại toàn cầu hoá
ngày càng diễn ra sâu rộng.
<em>Đinh Tuấn Minh
Bài viết kỷ niệm 30.4. Đăng trên SGTT</em>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12455), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét