Yun Sun - Dư luận xã hội ở Trung Quốc định hình chính sách đối ngoại hay ngược lại?

Những năm gần đây "dư luận xã hội" đã được chính
thức công nhận như một sức mạnh có ảnh hưởng lên chính
sách đối ngoại của Trung Quốc. Ví dụ như các nhà phân tích
trong và ngoài nước cho rằng thái độ quyết đoán của Bắc
Kinh trong các mối quan hệ quốc tế là phản ứng của chính
phủ trước chủ nghĩa dân tộc đang dâng cao trong nước. Lý
lẽ của số đông các nhà phân tích nằm ở luận điểm cho
rằng sự biểu lộ của chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa ngày càng
ồn ào và thường xuyên hơn đã buộc Bắc Kinh hoặc phải
đứng lên chống lại "những thế lực thù địch bên ngoài"
hoặc là sẽ tự đánh mất tính chính danh trong con mắt người
dân của mình.

Rất nhiều ví dụ phong phú về động thái này đã được ghi
nhận, chẳng hạn như sự đáp trả không thỏa hiệp của chính
phủ đối với việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan, tranh cãi
với Nhật Bản về lãnh hải quanh đảo Điếu Ngư hay còn gọi
là Senkaku và gần đây nhất là hành vi "gây hấn" chống
lại các quốc gia ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở vùng biển
Nam Trung Hoa (Biển Đông – ND). Có vẻ như thường xuyên hơn
trước, đặc biệt trong các cuộc hội đàm riêng tư, lãnh
đạo Trung Quốc và các học giả dường như đang chơi con bài
"dư luận xã hội" để thanh minh cho các động thái không
được nhiều người ửng hộ trong chính sách đối ngoại.

Lập luận kiểu này thoạt nhìn có vẻ hợp lý. Dư luận xã
hội hay cái mà vẫn được hiểu là nguyện vọng của đa số
hay ít nhất cũng là thành phần cốt yếu của xã hội có thể
là yếu tố quyết định rất mạnh mẽ chính sách ngoại giao
của quốc gia. Ở các nước dân chủ chính phủ phải tôn
trọng dư luận xã hội, bởi lẽ nếu làm sai đi, cái giá phải
trả về mặt chính trị sẽ rất đắt.. Tuy vậy, trong một
đất nước như Trung Quốc, nơi mà chính phủ có những phương
tiện mang tính then chốt để có thể định hình dư luận xã
hội trong khi quần chúng lại bị hạn chế sở hữu các phương
tiện để thể hiện quan điểm chính trị của mình thì cũng
cần phải thận trọng nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách
đối ngoại và dư luận xã hội để xác định mức độ mà
dư luận xã hội có ảnh hưởng tới các quyết định đối
ngoại, hoặc ngược lại chính phủ đã quyết đoán, ít ra thì
cũng định hình chính sách đối ngoại để thúc đẩy đường
lối chính trị đã được hoạch định.

Về các vấn đề chính sách đối ngoại, quần chúng Trung Quốc
hoàn toàn dựa vào truyền thông chính thống để lấy thông tin
hàng ngày, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và chính phủ đóng vai
trò trung tâm trong việc quyết định thông tin nào sẽ đưa ra
cho công chúng. Ban tuyên huấn của Đảng Cộng Sản là trung tâm
chính trị để giám sát tư tưởng và kiểm duyệt tin tức. Ban
này có gần như toàn quyền quyết định về việc quần chúng
sẽ đọc và xem gì thông qua việc kiểm soát các nguồn thông
tin, ví dụ như Tân Hoa xã và Đài truyền hình Trung ương Trung
Quốc (CCTV). Liên quan tới những vấn đề đối ngoại hiện nay
có liên quan tới Trung Quốc, Bộ Ngoại giao và Tân Hoa xã cùng
phối hợp quyết nội dung và giọng điệu của các bản tin
để làm sao chúng đi đúng đường lối chính thống. Về các
vấn đề chính sách đối ngoại quan trọng, chẳng hạn như
những lĩnh vực quốc tế then chốt hoặc các chuyến đi của
lãnh đạo cao cấp Trung Quốc, các cơ sở truyền thông trong
nước được yêu cầu phải sử dụng các nội dung chính thức
và đường lối chỉ đạo từ Tân Hoa xã. Ví dụ như vào tháng
1/2011 chính phủ đã một mực yêu cầu "toàn bộ hệ thống
truyền thông trên cả nước phải sử dụng các báo cáo của
Tân Hoa xã về sự nổi dậy ở Ai Cập. Tuyệt đối cấm dịch
các bản tin nước ngoài" (1). Trong một vài trường hợp
đặc biệt nhạy cảm, chẳng hạn như việc rắc rối trên
Biển Đông (nguyên văn biển Nam Trung Hoa – ND) ngay cả chính
Tân Hoa xã cũng được yêu cầu chỉ được sử dụng những
báo cáo nhận thẳng từ Quốc vụ viện (State Council – ND).

Đối với đa số các vấn đề về chính sách đối ngoại,
đường lối ngoại giao hiện nay của Trung Quốc đóng vai trò
như văn bản chỉ đạo cho các hoạt động truyền thông. Ví
dụ như các bản tin của truyền thông Trung Quốc về sự bất
ổn bên trong Libya và Syria trong năm 2011 rất ít đề cập tới
"thành tích" của chính quyền toàn trị, sự vi phạm nhân
quyền hay nạn tham nhũng. Thay vào đó, theo đúng các nguyên tắc
ngoại giao Trung Quốc, truyền thông Trung Quốc chủ yếu dành
thời lượng để nêu bật các khía cạnh tiêu cực của tình
trạng bất ổn và mối hiểm nguy phát sinh khi nước ngoài can
thiệp. Các bản tin Trung Quốc về vụ khiêu khích của Bắc
Triều Tiên năm 2010 lại cho một dẫn chứng khác. Nhằm tạo
dựng dư luận xã hội trong nước về một Bắc Triều Tiên
hữu nghị theo đúng chính sách của Trung Quốc về bán đảo
Triều Tiên, truyền thông Trung Quốc khi đưa tin về vụ đắm
tàu Hàn Quốc Cheonan xảy ra vào tháng 3/2010 đã chỉ hoàn toàn
nhắm vào " tính không kiểm chứng được" của những bằng
chứng, vật chứng do cuộc điều tra quốc tế về vụ việc
này đưa ra, đồng thời lại chú trọng tới những yếu tố
khác không chỉ ra Bắc Triều Tiên là thủ phạm. Các báo cáo
về vụ pháo kích lên đảo Yeonpyong vào tháng 11/2010 lại chỉ
nêu sự kiện chủ yếu là "một cuộc đọ pháo" giữa Bắc
và Nam Hàn mà lỗi là do Hoa Kỳ và Hàn Quốc châm ngòi leo thang
gây căng thẳng. Ở Trung Quốc có ít người lại cho rằng Bắc
Triều Tiên phải chịu trách nhiệm về vụ pháo kích đã gây ra
những thiệt hại cho dân thường Hàn Quốc. Trong những trường
hợp này, cách đưa tin của truyền thông đã được đường
lối chính trị quyết trước nhằm mục đích định hướng dư
luận xã hội.

Các nguồn thông tin khác như Internet hay những tổ chức truyền
thông thương mại cũng được đặt dưới sự giám sát chặt
chẽ của chính phủ. Thực tế là môi trường Internet ở Trung
Quốc thuộc diện bị hạn chế bậc nhất thế giới. Những cơ
quan chính phủ khác nhau bao gồm bộ công an, văn phòng thông tin
thuộc ủy ban nhà nước và tổ chức mới thành lập mang tên
văn phòng giám sát thông tin Internet nhà nước cùng thực hiện
trọng trách điều hành Internet ở Trung Quốc. Mặc dù các cư
dân mạng ở Trung Quốc hiểu biết về công nghệ và thường
xuyên sử dụng các server proxy để truy cập các trang web bên
ngoài " Vạn lý Trường thành tường lửa" Trung Quốc, nhưng
chính phủ luôn thích ứng rất nhanh nên đã phong tỏa hữu
hiệu các nhà cung cấp dịch vụ giúp nở rộ của mạng cá
nhân ảo (Virtual Private Network- VPN) ví dụ như Witopia. (tất
nhiên nhiều người sử dụng Internet ở Trung Quốc đã vượt
tường lửa không nhằm mục đích tìm kiếm các thông tin bằng
tiếng Anh về các vấn đề đối ngoại mà thường xuyên hơn
là chỉ để sử dụng các trang mạng xã hội như Facebook và
Youtube.)

Truyền thông thương mại cũng không nằm ngoài sự kiểm duyệt
và các ranh giới được đặt ra bởi hệ thống tuyên truyền
mặc dù được hưởng chút ít quyền hành nhiều hơn truyền
thông nhà nước thế nhưng cũng không có hoàn toàn tự do quyết
định nội dung và giọng điệu của mình. Một ví dụ là cuộc
phỏng vấn Tổng thống Obama do tờ Tuần báo Phương Nam thực
hiện trong chuyến thăm Trung Quốc của ông vào tháng 11/2009. Ban
tuyên huấn đã không chỉ soi xét tỷ mỷ và biên tập lại bài
báo mà còn gây áp lực lên Tuần báo Phương Nam buộc phải rút
nó từ trang nhất để chỉ được đăng tải trên trang hai trong
lần xuất bản cuối cùng. Hơn thế nữa, ban này còn chỉ thị
cấm truyền thông trong nước đăng lại bài báo đó dưới mọi
hình thức nhằm kiểm soát hiệu quả việc lan truyền rộng rãi
nội dung của cuộc phỏng vấn.(2)

Ý kiến của cộng đồng mạng ở Trung Quốc thường được
nhận biết bởi những người quan sát, bao gồm cả một số
nhà nghiên cứu nghiêm túc và được đánh giá là chỉ số then
chốt của dư luận xã hội về các chính sách đối ngoại. Tuy
nhiên,cũng giống như việc xuất bản trong hệ thống truyền
thông có tổ chức, ý kiến được thể hiện trên Internet bởi
các cá nhân cư dân mạng cũng bị chính phủ can thiệp và
điều tiết.

Mức kiểm soát thứ nhất đó là chỉ thị của chính phủ
đối với các trang web nhằm giám sát nội dung các bài viết
đưa lên mạng, các diễn đàn, blog và micro-blog để sao không
có những thông tin" có vấn đề". Mức kiểm soát thứ hai
là "lực lượng cảnh sát Internet" thuộc bộ công an giám
sát nội dung các bài đưa lên mạng mà có thể truy cập được
ở Trung Quốc để thường xuyên gỡ bỏ hoặc ngăn chặn những
thông tin bị cho là nguy hiểm và không phù hợp. Sau đó là mức
thứ ba, các thành viên "50 xu của đảng" hay những cư dân
mạng được chính phủ chi tiền để đưa lên mạng những ý
kiến ủng hộ chính quyền, hay tích cực thảo luận nhằm
định hướng dư luận theo cách có lợi cho chính phủ.

Trong cấu trúc đó, đa số các cuộc thảo luận trên Internet ở
Trung Quốc được soi xét kỹ lưỡng, đa phần được thông qua
trước đó bởi chính phủ - kể cả những lời bình có tính
chất kích động và phê phán mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa
đối với các chính sách đối ngoại. Một khi muốn, chính phủ
đã có thể định hướng và gây ảnh hưởng lên nội dung của
các cuộc tranh luận trong hàng ngũ cư dân mạng nhằm hạ giọng
tình cảm dân tộc chủ nghĩa. Có một thực tế là chính phủ
trong nhiều trường hợp không cần nêu lên vấn đề về năng
lực thực hiện mà chỉ quan tâm đến các ý định của mình
mà thôi.

Một ví dụ là việc Bắc Kinh đối phó với tuyên bố của Hoa
Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan và Tổng thống Obama gặp Đức
Đạt Lai Lạt Ma đầu năm 2010. Cả hai quyết định đã được
truyền đạt tới Bắc Kinh mấy tháng trước đó khi Tổng
thống Obama thăm Trung Quốc vào cuối năm 2009. Khi các quyết
định này được công bố chính thức, Bắc Kinh đã đáp trả
lại một cách dữ tợn. Những tuyên bố chính thức lỗ mãng
đã được vỗ tay hoan hô vang dội bởi quần chúng bị kích
động và trong một vài trường hợp quá khích đã có lời kêu
gọi cấm vận các công ty Hoa Kỳ, thậm chí đối đầu quân
sự với Mỹ.

Tuy nhiên, Bắc Kinh đã chọn một con đường khác để đối
phó với quyết định của Obama nhằm ngăn chặn tổn thương
nghiêm trọng trong quan hệ song phương giữa hai quốc gia. Theo
Alan Romberg (nhà nghiên cứu có tên tuổi về Đài Loan – ND) thì
"tuy chính phủ CHND Trung Hoa biết rằng việc bán vũ khí sẽ
xảy ra và Đức Đạt lai Lạt ma sẽ tới thăm Nhà Trắng nhưng
vẫn có thể tuyên bố sự phản đối mang tính nguyên tắc của
mình trong khi định hướng dư luận quần chúng một cách ít
gây gổ và sinh sự hơn. Điều này có thể hậu thuẫn cho sự
ủng hộ mà Mỹ đã đưa ra về việc hòa giải giữa hai bên eo
biển (đôi khi làm cho Đài Loan thấy bất an) và khẳng định
lại việc Mỹ công nhận vùng Tây tạng là một phần của Trung
Quốc.(3)

Thế nhưng thực tế Trung Quốc không hành động như vậy đã
cho thấy một số điều. Bắc Kinh thích thú với cảm giác
được thổi phồng về sức mạnh kể từ khi xảy ra cuộc
khủng hoảng tài chính quốc tế và không cảm thấy cần phải
kiềm chế lại trong khi Washington lại thách thức những lợi
ích cốt lõi của Trung Quốc ở Đài Loan và Tây Tạng (4). Trung
Quốc nhìn nhận dư luận xã hội như một công cụ hữu hiệu
để cho Washington thấy rằng nhân dân Trung Quốc tức giận như
thế nào và hậu quả kéo theo sau sẽ nghiêm trọng ra sao (5).
Bắc Kinh có thể có lý khi nói rằng họ buộc phải hành động
như vậy để đáp ứng tình cảm của quần chúng trong nước,
thế nhưng tình cảm đó ít ra thì cũng chỉ là một phần của
cái mà chính phủ đã tạo dựng ra từ đầu. Dư luận xã hội
mang tính chất công cụ hơn là tính tự nhiên và nguyên trạng
vốn có của nó trong trường hợp này.

Một ví dụ khác là Bắc Kinh đối phó với tình cảm chống
Nhật sau vụ va chạm giữa tàu đánh cá Trung Quốc với hai tàu
hàng Nhật bản vào tháng 10/2010 trên biển Đông Trung Hoa nơi mà
Trung Quốc và Nhật còn có tranh chấp. Sau khi viên thuyền
trưởng Trung Quốc bị bắt giữ và giam giữ ở Nhật, Bắc Kinh
đã lên mặt trả đũa Tokyo để gây áp lực đòi thả viên
thuyền trưởng. Từ việc hoãn cuộc đối thoại cấp bộ
trưởng cho tới ngưng xuất khẩu đất hiếm sang Nhật, Bắc
Kinh đã gứi đí một thông điệp kiên quyết và mang tính áp
đặt. Ngay sau đó, các cuộc biểu tình đông người chống
Nhật đã nổ ra trên nhiều thành phố ở Trung Quốc. Dư luận
xã hội chống Nhật đã đạt một kỷ lục cao trong lịch sử
cận đại, có tác dụng bổ sung và củng cố cho quan điểm dữ
dằn của chính phủ. Một vài nhà phân tích Trung Quốc còn bình
luận rằng "chính phủ của chúng ta phải trả lời hoặc là
tính chính danh của nó sẽ bị thách thức"(6).

Tuy vậy, sự kiện các cuộc biểu tình chống Nhật được phép
tổ chức ít ra đã cho thấy một sự thỏa thuận ngầm với
chính phủ khi thấy cần xả van an toàn cho sự tức giận của
tình cảm dân tộc bị dồn nén. Theo Shi Yinnhong, một học giả
danh tiếng về quan hệ quốc tế tại đại học Nhân dân thì
"nếu như chính phủ chủ ý phản đối hoặc kiên quyết không
muốn các cuộc biểu tình thì đã chẳng có gì xảy ra"(7).

Ngay cả khi nếu các cuộc biểu tình được vận động hoặc
nổ ra một cách tự phát trong quần chúng thì chính phủ vẫn
luôn có các phương cách hiệu quả để quản lý chúng. Trong
các cuộc biểu tình chống Nhật tương tự nhưng có quy mô lớn
hơn nổ ra vào mùa xuân năm 2005, khi cảm thấy sự phản đối
đông người đã đi quá tầm kiểm soát, chính phủ liền huy
động các nguồn lực để chấm dứt chúng. Bộ công an đưa ra
bản tuyên bố ngày 21/4/2005 cấm quần chúng tham gia vào các
cuộc biểu tình sau này.(tuyên bố này đã được phát trên
sóng của đài truyền hình quốc gia CCTV News Link). Các tin nhắn
và lời kêu gọi tiếp tục các cuộc biểu tình chống Nhật
trên mạng di động và Internet đã bị chặn. Hành động của
chính phủ đã không gây nên phản ứng dữ dội từ phía nhân
dân và tình cảm chống Nhật đã được làm cho lắng xuống
một cách hiệu quả trong vòng có một tuần.

Trong một đất nước mà thiếu vắng truyền thông tự do thì ý
kiến độc lập của quần chúng hiển nhiên chỉ là chuyện
hoang đường. Bởi lẽ ở Trung Quốc thông tin mà quảng đại
quần chúng nhận được và các cuộc thảo luận sau đó đều
được quyết định trước, được tô vẽ và định hướng
bởi chính quyền các cấp cho nên rất khó để khẳng định
rằng tình cảm phát sinh của công chúng không phải là một
phần sản phẩm do chính phủ tạo ra.

Cũng giống như đối với mọi chính phủ, kêu gọi lòng yêu
nước luôn là cách dễ dàng nhất để lấy điểm trước công
chúng. Điều này lại đặc biệt đúng với Trung Quốc, nơi mà
đa phần xã hội còn mang vết thương tâm lý do nhiều thế kỷ
trước đây bị ngoại bang đô hộ. Một phần nữa cũng còn do
thiếu vắng sự tái khẳng định có tính định kỳ tính chính
danh của những người được nhân dân ủy quyền lãnh đạo
thông qua các cuộc bầu cử, cho nên chính phủ luôn cần phải
có nhiều phương cách tái khẳng định tính chính danh của mình
trong con mắt quần chúng.

Động thái này có thể mang lại hiệu quả bên ngoài : kích
động dư luận xã hội trong nước sẽ giúp cho Bắc Kinh củng
cố quan điểm chính trị mạnh mẽ trên trường quốc tế và
là đòn bẩy trong đàm phán để buộc các chính phủ nước
ngoài phải nhượng bộ. Bởi vậy, mối quan hệ nhân quả theo
mọi cách đánh giá cần được nghiên cứu kỹ càng khi cho
rằng dư luận xã hội là động lực của chính sách đối
ngoại Trung Quốc.

<em>Yun Sun là cộng tác viên của Trung tâm Bắc Á, viện
Brookings, Washington.</em>

<strong>Nguồn:</strong> Chinese Public Opinion: Shaping China's Foreign
Policy, or Shaped by It?

Brookings Northeast Asia Commentary | Number 55, December 2011

<h2>Tài liệu tham khảo</h2>


[1] Peter Ford, "Why a nervous China aims to shield citizens from Egypt
news," The Christian Science Monitor, February 1, 2011,
http://www.csmonitor.com/World/Asia-Pacific/2011/0201/Why-a-nervous-China-aims-to-shield-citizens-from-Egypt-news;
accessed December 13, 2011.

[2] "Zhongguo – Datan Renquan Meiti Ziyou – Aobama Dianming 'Nanfang
Zhoumo' Zhuanfang," Xingzhou Ribao (Sin Chew Daily), November 19, 2009,
http://www.sinchew.com.my/node/139106; accessed December 13, 2011.

[3] Alan Romberg, "2010: The Winter of PRC Discontent," China Leadership
Monitor, No. 31 (Winter 2010), Hoover Institution,
http://media.hoover.org/sites/default/files/documents/CLM31AR.pdf; accessed
December 10, 2011.

[4] Interview with Chinese analysts, Beijing, February, 2010.

[5] "The U.S. arms sales to Taiwan is a serious interference of China's
internal affairs… deeply hurt the feeling of Chinese people," Deng
Haijian, "Meiguo Duitai Junshou Cubao Shanghai Zhongguo Liyi",Zhongguo
Wang (China.com.cn), January 31, 2010,
http://www.china.com.cn/news/comment/2010-01/31/content_19338083.htm;
accessed December 13, 2011.

[6] Interviews with Chinese analysts, Beijing, October 2010.

[7] "China allows rowdy anti-Japanese protests," Associate Press,
October 18, 2010,
http://www.foxnews.com/world/2010/10/18/china-allows-rowdy-anti-japanese-protests/;
accessed December 13, 2011.

<em>Dịch giả gửi cho viet-studies ngày 19-12-11</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10998), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét