Lữ Giang - Hoa Kỳ tiết lộ vụ Hoàng Sa

<div class="special_quote">"...Hoa Kỳ từ chối tiếp tế xăng cho
các phi công VNCH để tác chiến ở Hoàng Sa và nói rất rõ lý
do tại sao Hoa Kỳ không thể làm như vậy. Ðiều này chứng tỏ
Hoa Kỳ không còn muốn dính líu gì đến miền Nam Việt Nam
nữa..."</div>


Chính phủ Hoa Kỳ đã cho tiết lộ hai tài liệu mật liên quan
đến quan điểm của Hoa Kỳ về Hoàng Sa và Trường Sa, đó là
biên bản hai cuộc họp về vấn đề Ðông Dương ngày 25/1/1974
và ngày 31/1/1974 do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ trì.

Trước khi trình bày về tài liệu này, để độc giả có thể
nắm được vấn đề một cách dễ dàng, chúng tôi xin nói qua
về tương quan lực lượng giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) và quân đội Trung Quốc khi biến cố Hoàng Sa xảy ra và
lý do tại sao Hoa Kỳ từ chối không yểm trợ cho Hải Quân và
Không Quân VNCH chống lại Trung Quốc.

<h2>Tương quan lực lượng</h2>

Tính đến năm 1975 Hải Quân VNCH có quân số lên tới 39.000
người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5
vùng Duyên Hải, hai vùng Sông Ngòi và một hạm đội Tuần
Duyên với 83 chiến hạm đủ loại. Những chiến hạm có thể
chiến đấu trên biển gồm các loại sau đây: 2 khu trục hạm,
7 tuần dương hạm, 8 hộ tống hạm, 9 tàu đổ bộ và 4 tàu
trợ chiến. Với lực lượng như thế, Quân Lực VNCH không thể
huy động để chống lại được quân Trung Quốc trên biển hay
sao?

Sở dĩ QL/VNCH không thể chống lại Trung Quốc vì các lý do sau
đây:

1. Quân đội Trung Quốc vượt trội hơn Quân Lực VNCH về cả
hải quân lẫn không quân. Trong trận Hoàng Sa, lực lượng hai
bên chênh lệch một cách rõ rệt: Trung Quốc đã sử dụng một
lực lượng Hải Quân hùng hậu gồm hơn 16 chiếc đủ loại,
từ tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến hai 2 chiến hạm
loại Hainan 281 và 282, 2 chiến hạm loại Jiangnan 27 và 274 và 4
phi tiển đỉnh Komar mang số 133, 137, 139, 145. Trong khi đó, lúc
đầu HQ/VNCH chỉ có tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16.
Những ngày tiếp theo VNCH mới tăng cường thêm các chiến hạm
HQ 4, HQ 5 và HQ 10.

2. Trung Quốc đã huy động cả hải lục không quân để áp
đảo, trong khi VNCH không thể huy động không quân vì Hoa Kỳ
từ chối giúp đỡ (chúng tôi sẽ nói sau).

3. Vì quyết chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc đã hoạch định một
kế hoạch hành quân chu đáo: khi lâm trận, họ đã áp dụng
chiến thuật "cài răng lược" khiến HQ/VNCH không thể xoay trở
được khiến bị trúng kế địch.

Tuy các chiến hạm Trung Quốc chỉ trang bị đại bác 100 ly (3.9
in.) hay đại bác 85 ly (3.5 in), còn chiến hạm HQ 16 của VNCH có
đại bác 127 và HQ 10 có đại bác 76,2, nhưng Trung Quốc áp
dụng chiến thuật bám sát các chiến hạm của VNCH trong khoảng
cách gần, nên đại bác của HQ/VNCH không sử dụng được.

Cho dù cuộc chiến xảy ra ở tầm xa, HQ/VNCH cũng không thể
thắng được vì khi thực hiện "Việt Nam hóa" chiến tranh theo
đúng lịch trình của kế hoạch "Accelerated Turnover to the
Vietnamese" (ACTOV), Hoa Kỳ có giao cho VNCH một số chiến hạm
nhưng họ đã gỡ đi các giàn phóng phi đạn được trang bị
trên đó, trong khi nhiều chiến hạm Trung Quớc có trang bị giàn
phóng phi đạn và được không quân yểm trợ.

<h2>Tóm lược các diễn biến</h2>

Các bài viết về trận đánh Hoàng Sa có quá nhiều với những
cách nhìn khác nhau, chúng tôi chỉ xin ghi lại các nét chính.

Trong cuốn hồi ký "Can trường trong chiến bại", phó đề đốc
Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân Vùng I Duyên Hải, người
chỉ huy trận đánh Hoàng Sa, kể lại rằng ngày 15/1/1974, trung
tá Lê Văn Thự, hạm trưởng tuần dương hạm Lý Thường Kiệt
HQ 16 được lệnh đưa địa phương quân và nhân viên khí
tượng ra Hoàng Sa thay toán ngoài đó đã hết nhiệm kỳ. Có hai
sĩ quan công binh đi theo để sửa cầu tàu. Ông Jerry Scott,
thuộc văn phòng Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Ðà Nẵng, cũng xin
cho một viên chức Mỹ là Gerald Kosh đi theo để biết Hoàng Sa.
Nhưng khi người nhái của VNCH đổ bộ lên các đảo Duncan và
Drummond thì đụng ngay một toán quân Trung Quốc ở trên đó.

Ngày 17-1, chiến hạm HQ 16 báo cáo hai tàu đánh cá của Trung
Quốc không tuân lệnh ra khỏi lãnh hải VNCH. Sau đó, lại có
thêm hai tàu Trung Quốc chở quân tới gần đảo và đã có
nhiều cờ Trung Quốc trên bờ. Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài
Gòn đã phái thêm khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 do trung tá
Vũ Hữu San ra tăng cường. Sau đó hai chiến hạm Trần Bình
Trọng HQ 5 và Nhật Tảo HQ 10 cũng được gởi ra Hoàng Sa.
Chiều 18-1, các chiến hạm của hai bên chạy kế ngang nhau và
chỉa súng vào nhau.

Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã liên lạc với Bộ Tư
Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn xin cho biết có đơn vị nào của
Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ ở trong vùng hay không. Tin tức xác
nhận các chiến hạm Hoa Kỳ đang ở rất gần các chiến hạm
VNCH.

Lúc 10 giờ ngày 19/1/1974, đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy chiến
thuật (OTC) tại mặt trận, đang ở trên soái hạm Trần Bình
Trọng HQ 5, báo cáo các chiến hạm hai bên đang ở vị trí quá
gần nhau trong thế "cài răng lược". Toán đổ bộ của chiến
hạm HQ 16 được lệnh trở ra chiến hạm. Khi toán đổ bộ
đang dùng thuyền cao su chèo ra khơi thì trận chiến bùng nổ.

Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải được tùy viên quân
sự Hoa Kỳ cạnh Hải Quân Vùng I cho biết có khoảng 17 chiến
hạm Trung Quốc và 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa. Ông ta
cũng cho biết các phản lực cơ chiên đấu của Trung Quốc sắp
cất cánh từ đảo Hải Nam để tấn công các chiến hạm của
VNCH tại Hoàng Sa.

Trận hải chiến chỉ kéo dài trong hơn 30 phút. Các chiến hạm
VNCH không đuổi theo các chiến hạm Trung Quốc và các chiến
hạm Trung Quốc cũng không đuổi theo các chiến hạm VNCH. Không
chiến hạm nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ tiến vào nơi
có cuộc giao tranh.

Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10 bị bắn chìm, thiếu tá Ngụy
Văn Thà với 24 quân nhân khác bị tử thương, 26 người mất
tích, 23 thủy thủ trôi dạt được tàu của hãng Shell vớt.

Hai khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Trần Bình Trọng HQ 5
bị hư hại, mỗi chiến hạm có hai chiến sĩ bị tử thương.

<center><img
src="http://danluan.org/files/u1/sub02/tranchien_hoangsa_hq4.jpg" width="420"
height="308" alt="tranchien_hoangsa_hq4.jpg" /></center>

Tuần dương hạm HQ 16 do trung tá Lê Văn Thự chỉ huy, bị trúng
đạn nghiêng một bên, được lệnh quay về Ðà Nằng, có một
chiến sĩ bị thương và 16 chiến sĩ khác trôi dạt trên thuyền
cao su về đến Quy Nhơn.

Có 43 người đã bị bắt làm tù binh, trong đó có ông Gerald
Kosh, được đưa về Quảng Châu, sau đó được trao trả cho
VNCH qua Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế.

Về phía Trung Quốc, hộ tống hạm Kronkstad 274 bị chìm, hộ
tống hạm Kronkstad 271 và hai trục lôi hạm 389 và 396 bị hư
hại nặng, các sĩ quan chỉ huy là Vương Kỳ Uy, Triệu Quát và
Diệp Mạnh Hải đều bị tử trận.

<h2>Mỹ từ chối yểm trợ</h2>

Có một điều quan trọng mà phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
không biết đến, đó là Hoa Kỳ đã từ chối yểm trợ VNCH
trong trận chiến Hoàng Sa.

Ngày 18/1/1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không
mẫu hạm USS Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có
mặt trong vùng gần Hoàng Sa. Phó đề đốc Diệp Quang Thủy,
tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã hỏi đại tá Kussan,
tùy viên quân sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi cơ
chiến đấu của Việt Nam khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có
thể hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin
tiếp tế nhiên liệu được không ? Phó đề đốc Thủy cho
biết Ðà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý, do đó, phi cơ
chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để có thể vừa đi
vừa về, nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể tác
chiến được.

Sau khi trao đổi với Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, đại tá
Kussan đã trả lời cho phó đề đốc Diệp Quang Thủy như sau:
Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp tế cho Quân Lực VNCH vì hai
lý do sau đây:

Lý do thứ nhất, Hiệp Ðịnh Paris cấm Hoa Kỳ không được
tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội
bộ của miền Nam Việt Nam (điều 4).

Lý do thứ hai, Luật War Power Act ngày 2/9/1973 cấm Hoa Kỳ sử
dụng lực lượng quân sự ở Ðông Dương. Vì thế, các chiến
hạm Hoa Kỳ không thể tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đấu
cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ có thể cứu giúp
quân đội VNCH khi bị các tai nạn mà thôi. Tuy nhiên, đó phải
là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do chiến đấu,
các chiến hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.

Cần lưu ý, trong thời gian còn chiến tranh Việt Nam, Bộ Chỉ
Huy Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military
Assistance Command, Vietnam - MACV) là cơ quan chỉ huy quân sự thống
nhất của Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, sau Hiệp Ðịnh
Paris, cơ quan này bị hủy bỏ và được thay thế bằng Văn
Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Defense Attach Office
- DAO) kể từ ngày 28-1-1973, do đó không còn các cố vấn Mỹ
nữa mà chỉ còn các tùy viên quân sự.

<h2>Quan điểm của Hoa Kỳ quá rõ</h2>

Như chúng tôi đã trình bày ở trên, theo tài liệu Hoa Kỳ vừa
công bố, trong hai cuộc họp do ngoại trưởng Kissinger chủ trì
ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974, tức sau khi Hoàng Sa bị mất,
vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa đã được đưa ra bàn cãi.
Nội dung tài liệu này đã được đài BBC trình bày ngày
3/10/2011, chúng tôi xin ghi lại những điểm quan trọng sau đây:

<h3>1. Về trận đánh Hoàng Sa</h3>

Ðô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên
quân: "Chúng ta đã tránh xa vấn đề".

Ngoại trưởng Kissinger: "Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên
bố chủ quyền của họ [Nam Việt Nam]?".

Ðô đốc Moorer: "Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và
các đảo khác cũng có cùng vấn đề - đó là lãnh thổ đang
tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng đó".

Ngoại trưởng Kissinger: "Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng
Sa?".

Ðô đốc Moorer: "Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu
vực phát hiện một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo; họ
tiến đến và đưa khoảng 75 người lên đảo Duncan (Quang Hòa).
Ðó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt Thiềm. Họ
phải đối đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt
Nam phải rút sang các đảo gần đó. Bốn tàu Nam Việt Nam và
khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó có trận hải chiến trong khi
quân Nam Việt Nam rút lui".

<h3>2. Quan điểm của Hà Nội</h3>

Ngoại trưởng Kissinger: "Phản ứng của Bắc Việt trước toàn
bộ vụ việc là thế nào?".

William Colby, giám đốc CIA: "Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm
dưới vĩ tuyến 17 và vì thế không có ảnh hưởng đến họ.
Nói chung, họ không đưa ra lập trường, không theo bên nào".

William Smyser, thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia: "Nó đặt họ
vào tình thế tế nhị. Họ không nói gì cho đến khi đã xong
chuyện, và rồi chỉ nói họ lên án việc dùng vũ lực".

Ngoại trưởng Kissinger "Tôi biết họ nói gì rồi, nhưng họ
thực sự cảm thấy thế nào?".

Ðô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng.

William Colby: "Bắc Việt có thể muốn có mỏ dầu tại đó".

Ông Clements, thứ tưởng quốc Phòng: "Ðừng quá mơ mộng về
khả năng có dầu tại các đảo đó. Ðó vẫn là chuyện trên
trời. Hiện chẳng có gì ở đấy cả, chỉ là tương lai thôi.
Hiện nay dầu hỏa ở đó không khả thi. Chỉ là tiềm năng".

Ðô đốc Moorer: "Người Pháp nắm giữ các đảo trong thập
niên 1930 cho đến khi Nhật chiếm trong Thế chiến. Năm 1955,
người Pháp từ bỏ chủ quyền các đảo và Nhật đã làm như
thế năm 1951. Nam Việt Nam và Trung Quốc kể từ đó cùng nhận
chủ quyền. Philippines có tuyên bố yếu ớt, nhưng chỉ là trên
giấy.

Sau đó, Ðô đốc Moorer xác nhận lại với Henry Kissinger: "Chỉ
thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực".

<h3>3. Chuyện bảo vệ Phillippines</h3>

Trong một cuộc họp ngày 31/11/974 tại Bộ ngoại giao Hoa Kỳ,
ngoại trưởng Kissinger được thông báo: "Không có dấu hiệu
Trung Quốc định tiến về Trường Sa. Dẫu vậy, có sự lo
ngại đáng kể từ phía Nhật, Philippines và đặc biệt là Nam
Việt Nam, mà theo tin báo chí thì hôm nay đã gửi đoàn 200
người ra chiếm một số hòn đảo lâu nay không ai ở trong khu
vực Trường Sa.

"Ðài Loan đã chiếm ít nhất một đảo và Trung Quốc cũng
vậy.

"Trong bối cảnh này, Philippines đã hỏi Mỹ liệu Hiệp Ước An
ninh Mỹ - Philippines có được áp dụng hay không nếu quân
Philippines kéo ra Trường Sa và bị Trung Quốc tấn công".

Các quan chức Mỹ có mặt trong cuộc họp đồng ý rằng không
có câu trả lời rõ rệt và họ muốn để ngỏ sự mơ hồ
trong câu trả lời cho Philippines.

Một người trong cuộc họp, ông Hummel, nói: "Tạp âm xung quanh
các tuyên bố của chúng ta về những hòn đảo này hẳn đã
đủ cho người Philippines hiểu rằng chúng ta không có ý định
hay chúng ta không muốn".

Ngoại trưởng Kissinger kết luận: "Câu trả lời của chúng ta
là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ".

<h2>Một vài nhận xét</h2>

Qua các sự kiện vừa được trình bày nói trên, chúng tôi có
một số nhận xét như sau:

1. Hoa Kỳ không muốn can dự vào các tranh chấp về chủ quyền
trên Biển Ðông vì sợ đụng chạm với Trung Quốc, nơi Hoa Kỳ
có rất nhiều quyền lợi.

Mặc dầu trong chuyến viếng thăm Á Châu vừa qua, tổng thống
Obama đã cho các quốc gia trong vùng hiểu rằng Mỹ sẽ "bao vây"
Trung Quốc cả về kinh tế lẫn quân sự, nhưng trong cuộc họp
báo hôm 8/12/2011 tại Bắc Kinh, kết thúc cuộc đối thoại
quốc phòng thường niên Mỹ-Trung, bà Michele Flournoy, thứ
trưởng bộ quốc phòng Hoa Kỳ, khẳng định việc Washington
tăng cường các liên minh quân sự tại Á Châu không nhằm mục
đích "ngăn chặn" Trung Quốc.

2. Giữa Philippines và Mỹ có hiệp ước ngày 30/8/1951 bảo vệ
các hòn đảo, tàu thuyền và máy bay của Philippines trên Thái
Bình Dương khi bị tấn công, nhưng khi có đụng độ, Philippines
có thực sự được bảo vệ hay không là vấn đề khác. Ngoại
trưởng Kissinger đã nói rất rõ: "Câu trả lời của chúng ta
là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ".

Bản tin của đài VOA ngày 24/6/2011 cho biết trong cuộc họp ngày
23/6/2011, ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, nói với
ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario rằng Hoa Kỳ cam kết
bảo vệ Philippines giữa lúc xảy ra vụ tranh chấp lãnh thổ
với Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa. Nhưng tờ Philippines Daily
Inquirer dẫn lời giáo sư Pacifico Agabin, cựu khoa trưởng luật
khoa của Ðại học Philippines, cho biết nội dung của bản hiệp
ước ký năm 1951 ghi rõ Mỹ không tự động bảo vệ Philippines
một khi có xung đột trên biển Ðông. Ðiều 4 của hiệp ước
này quy định trong trường hợp xảy ra tấn công trên Thái Bình
Dương, tổng thống Mỹ phải được sự chấp thuận của Quốc
hội mới tiến hành điều quân.

3. Hoa Kỳ từ chối tiếp tế xăng cho các phi công VNCH để tác
chiến ở Hoàng Sa và nói rất rõ lý do tại sao Hoa Kỳ không
thể làm như vậy. Ðiều này chứng tỏ Hoa Kỳ không còn muốn
dính líu gì đến miền Nam Việt Nam nữa. Nhưng tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ đưa lên cầm quyền ở
miền Nam, quá yếu kém về chính trị, không thể hiểu được
như vậy. Ông cứ nằng nặc đòi thêm viện trợ và cuối cùng
chơi trò "tháu cáy", rút khỏi Cao Nguyên và miền bắc Trung
phần, để Mỹ hoảng sợ miền Nam mất, phải nhảy vào. Nhưng
Mỹ đã không can thiệp khiến miền Nam bị sụp đổ một cách
nhanh chóng, gây tang thương cho không biết bao người. Tôi ấy
trời khó dung và đất khó tha.

4. Tất cả các sự kiện được trình bày nói trên cho thấy
cả Việt Nam lẫn Philippines phải tự lo lấy thân phận mình,
đứng trông chờ ở Mỹ.

<strong>Lữ Giang</strong>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10997), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét