TNS Mỹ James Webb - Chăn Gối Với Kẻ Thù

<div class="special_quote"><em>James Webb là cựu chiến binh Mỹ tham
gia chiến tranh Việt Nam. Ông ta đóng một vai trò quan trọng
trong nhóm quyền lực hoạch định chính sách đối ngoại của
Thượng Viện Mỹ, cùng với Mc Cain là hai nhân vật có ảnh
hưởng lớn đến chính quyền Hà Nội hiện nay. Bài viết cho
chúng ta một góc nhìn về cuộc chiến đã qua, động viên cựu
chiến binh và khẳng định khéo léo về tính chính danh của Mỹ
trong cuộc chiến Việt Nam.</em> </div>

<div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u23/James_Webb.jpg" /><div class="textholder">
TNS Mỹ James Webb</div></div>

Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi
rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào
nhất của những người cùng tuổi, cùng thời với tôi lại
nhắm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ,
để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự
mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những
người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được
tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số
sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những
tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập
niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc
Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.

Sau khi Tổng Thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu
cử mùa Thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân
Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những dân cử chân
ướt, chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lãnh của Mc
Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng
viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng
đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New
York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở
nhà với mẹ.

Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate này diễu hành vào thành
phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở
thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: Chấm dứt sự
giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho
chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn
ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ
đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những
người lính Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Việt Nam hai năm
trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào
bị tử trận.

Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể
bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái,
cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền
Dân Chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của
Tòa Bạch Ốc Harold Ickes và nhiều người khác trong "Chiến
Dịch Kiểm Soát Tài Chánh" – có một lúc được giúp đỡ
bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng: Bill Clinton – làm
việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội
nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình
Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá
bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội
suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ,
tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những
con ác quỷ trong chánh quyền Nam Việt Nam. Những đồng minh của
họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để
chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam
chống Cộng Sản, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực
để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi
các đơn vị bộ đội chánh quy Bắc Việt được khối Sô
Viết và Trung Cộng yểm trợ.

Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí
tử xuống các nước Đông Dương không Cộng Sản. Tân Quốc
Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện
cho miền Nam Việt Nam và Cam Bốt của Tổng Thống Gerald Ford.
Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt
và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí
chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ.
Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi
hỏi phải cung cấp <em>"viện trợ để thay thế trang thiết
bị quân sự vô giới hạn"</em> cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba
phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo,
189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Nam
Việt Nam và Cam Bốt.

Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến
gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh
tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương
lai tốt đẹp cho các quốc gia này dưới sự cai trị của chế
độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd, tiêu biểu cho sự
ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng
đầy điệu bộ <em>"gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là
làm nhục chữ nghĩa… Tặng vật lớn nhất mà đất nước
chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không
phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này
là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức."</em>

Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai
tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh
cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái
tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này,
như sau: <em>"Chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ
các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho
việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo
dài việc tắm máu hiện nay."</em>

Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân
trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp
chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo
về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân –
tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và
Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc Bắc
Việt, nếu Bắc Việt tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định
Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào
một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết
và Trung Cộng vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc
Việt.

Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh
thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó
với những sự thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân
đội chính quy miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập
tức phát động cuộc tổng tấn công. Bắt giữ được nhiều
đơn vị bị cô lập, quân Bắc Việt tràn xuống vùng đồng
bằng trong vòng có 55 ngày.

Những năm về sau, tôi đã phỏng vấn những người lính miền
Nam Việt Nam còn sống sót trong những cuộc giao tranh, nhiều
người đã bị trải qua hơn chục năm trong các trại tù tập
trung của Cộng Sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Những điệp
khúc này không bao giờ chấm dứt:

- "Tôi không còn đạn dược."

- "Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày."

- "Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi."

- "Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào
chịu đựng được nữa khi phải nghe những lời kêu gọi xin
tiếp viện."

Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự xụp đổ này cho thấy có hai
nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy
rõ trong nhiều vấn để mà chúng ta đang phải đương đầu
ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở
Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người
cùng quan điểm chánh trị với họ, đây là là một tháng đen
tối và tuyệt vọng.

Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn
công của Bắc Việt là những khuôn mặt rất thật và quen
thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình.
Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết,
rơi xuống chết thảm khốc sau khi họ đeo và bám vào thân
trực thăng hay phi cơ một cách tuyệt vọng, có thể là những
người chúng ta quen biết hoặc đã từng giúp đỡ. Ngay cả
đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh
bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc
chiến.

Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên
tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ
thơ mộng hoá những ý định của người Cộng Sản, những
tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong
sự xụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam
đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng.

Ở trung tâm Luật Khoa của Đại Học Georgetown nơi tôi đang theo
học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết
về hòa bình và bầu cử trong Hiệp Định Paris 1973, và tiếng
xe tăng của Bắc Việt trên đường phố Sài Gòn được xem như
là một cái cớ để thực sự ăn mừng.

Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997. Thực
ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của phong trào phản
chiến đã cố gắng không ngừng nghỉ trong những năm theo sau
sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều
người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi
thâu hình cho chương trình <em>"Crossfire"</em> của CNN vào năm
1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có
thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta
thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên Tổng Thống năm
1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, đã bình
luận rằng: <em>"Anh không hiểu là tôi KHÔNG MUỐN chúng ta
chiến thắng cuộc chiến đó sao?"</em> Ông McGovern không chỉ
có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ, nhưng vô
cùng có ảnh hưởng lớn trong chính trường. Sau cùng họ đã
đạt được điều họ muốn.

Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan
chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện
ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần
trước khi miền Nam sụp đổ.

Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds,
một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn
hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ
cho sự chiến đấu cho nền Dân Chủ của miền Nam Việt Nam.
Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn
một vai trong câu chuyện của David Horowitz) cùng nhau nhận giải
Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ
những người Cộng Sản của mình.

Đứng trước máy vi âm ông ta nói:

- "Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời
điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng."

Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù
giờ đây đã được họ cố tình quên đi. Trong lúc quốc gia
Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để
bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider
lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta,
đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên
lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự,
những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan
nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.

Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc
là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại
cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không
nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt
đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng
ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng
hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể
đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng
Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58,000 người Mỹ và đè bẹp
một đồng minh chủ trương ủng hộ Dân Chủ? Làm sao có thể
nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?

Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về
số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của
Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tù tập trung cải
tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam
giữ, 56,000 người đã thiệt mạng, 250,000 bị giam hơn 6 năm,
nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích
việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, đàn áp những người bất
đồng chính kiến, cướp đất, cướp nhà của dân hay là chế
độ Công An trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào
đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ
thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc
loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam
với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.

Tại sao? Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ
thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu
thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người
đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục
vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng
nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước
chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào? Những kẻ chế diễu
chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ
kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối
nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi
ngây thơ và lầm lẫn.

Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ
trong khoảng thời gian rối ren này lành mạnh hơn nhiều. Đằng
sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam,
thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng
ta, những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm
suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc
biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được
mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.

Như được tường trình lại trong bài <em>"Ý Kiến Quần
Chúng"</em>, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho
đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự chiến tranh ỏ Việt Nam
cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam
lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1
năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện
gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm
những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện
này cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan,
điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử
năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard
Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52% so với 46 phần trăm.

Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống
đối này, mà ngày nay đang thống lãnh giới báo chí và giới
khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm
nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh
mẽ. Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở
các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho
bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả
thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự
xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý
kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ
tái oanh tạc Bắc Việt, một thái độ cho thấy sự bác bỏ
hoàn toàn phong trào phản chiến.

Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên
trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là
những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những
người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu
toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến
binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans
Administration), 73 phần trăm công c<em>húng và 89 phần trăm cựu
chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu: "Vấn đề
rắc rối ở Việt Nam là QUÂN ĐỘI CHÚNG TA ĐƯỢC YÊU CẦU
CHIẾN ĐẤU TRONG MỘT CUỘC CHIẾN MÀ CÁC LÃNH TỤ CHÍNH TRỊ
Ở WASHINGTON KHÔNG CHO HỌ ĐƯỢC PHÉP CHIẾN THẮNG"</em>, 70
phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không
đồng ý với câu phát biểu: <em>"Những gì chúng ta gây ra cho
nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ."</em> Trọn 91 phần
trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam
nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần
trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian ở trong quân
đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến
cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa,
ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế
và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.

Bản thăm dò này còn có cái gọi là <em>"nhiệt kế đo cảm
giác,"</em> để đo lường thái độ của công chúng đối với
những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10.
Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm
9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền
hình 6.1, chánh trị gia 5.2, những người biểu tình chống
chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được
cho 3.3.

Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai
dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt
Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77
phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong
số những người tử trận: 86 phần trăm là da trắng, 12.5
phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các
chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ
có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao
cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là
điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra
chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi
trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này
kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm
về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng
khi sau này sẽ bị lịch sử phán xét.

Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc
chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ
thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây
giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong Tòa Bạch Ốc?
Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác
định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên
dấu mình như thế.

Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh
bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực
lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong
những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất
kinh khủng. Thật là sáng mắt, sáng lòng cho những kẻ đã
tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội,
để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền
Nam Việt Nam chạy trốn <em>"ngọn lửa tinh nguyên của cách
mạng" trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc
chắn 50 phần trăm đã vùi thây dưới đáy biển, hoặc là nhìn
thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ
người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một
phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người
Cộng Sản "giải phóng quân."</em>

Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi
nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay
là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa
người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã
chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà
bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật
là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống
chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng
ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như
vậy ở quê hương của em.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11010), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét