Nguyễn Thượng Long - Vọng Niệm (1)

<h2>HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ VỚI VIỆC BẢO VỆ HAI QUẦN
ĐẢO HOÀNG SA – TRƯỜNG SA.</h2>

Bảo vệ chủ quyền biển đảo là trách nhiệm của mọi
người Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc, mỗi khi có giặc ngoại xâm đe doạ, xâm chiếm lãnh
thổ, không phân biệt lứa tuổi, thành phần, nghề nghiệp,
đảng phái, tôn giáo…trăm người như một, đoàn kết một
lòng, nhất tề đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ lãnh
thổ thiêng liêng của tổ quốc, trong đó hải quân là một
trong những lực lượng chủ lực, thường trực của nhà nước
đóng vai trò là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.

Việc xây dựng một lực lượng hải quân mạnh, đủ sức làm
tròn nhiệm vụ nòng cốt, giữ vững chủ quyền biển đảo,
được đặt ra khá sớm, ngay từ giai đoạn mở rộng bờ cõi
ra hướng biển. Đặc biệt khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa
Nguyễn ở Đàng Trong và sau này đến thời các vua Nguyễn cho
lập các Đội Hoàng Sa, Đội Bắc Hải ra khai thác, dựng bia,
cắm mốc, làm nhà, xây miếu, trồng cây, thực hiện nhiều
việc xác định chủ quyền của nhà nước Việt Nam đối với
các đảo trong vùng biển thiêng liêng của Tổ Quốc. Việc tổ
chức lực lượng biển đảo như vậy, được tiến hành
thường xuyên, liên tục, thành quy định luân phiên nhau thực
hiện từ năm này qua năm khác. Những người được giao trọng
trách luôn có ý thức, trách nhiệm làm tròn nhiệm vụ trong
mỗi chuyến đi.

Kế tục sự nghiệp của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải thời các
Chúa Nguyễn và Vua Nguyễn, ngay sau khi Pháp rút quân theo Hiệp
Định Giơ Ne Vơ tháng 7 năm 1954, năm 1956 chính quyền Sài Gòn
cho các đơn vị hải quân ra tiếp quản quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa từ các đơn vị quân đội Pháp.

Đối với quần đảo Hoàng Sa, do hạn chế về nhiều mặt
nhất là tầu thuyền cả về số lượng, chất lượng nên hải
quân Việt Nam cộng hoà chỉ kịp triển khai đóng giữ phần
phía Tây, chưa kịp ra phía Đông nên phần này bị Trung Quốc
chiếm mất. Trên các đảo mới tiếp quản, tuy lúc này còn
nhiều khó khăn, nhưng các đơn vị nhanh chóng triển khai lực
lượng dựng bia, chòi canh, xây dựng, củng cố trận địa, bố
trí các đơn vị chiến đấu, tổ chức tuần tra, canh gác, quan
sát, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống nên chủ quyền
lãnh thổ phần phía Tây Hoàng Sa được giữ vững liên tục 18
năm từ 1956 đến 1974.

Đối với quần đảo Trường Sa, đề phòng Trung Quốc nhân cơ
hội chiếm Hoàng Sa sẽ liều lĩnh đưa quân xuống, chiếm đóng
xen kẽ, gây nên tình hình phức tạp trong khu vực, ngày 22 – 8
– 1956, chính quyền Sài Gòn cho một đơn vị hải quân ra cắm
cờ, dựng bia tại đảo Trường Sa Lớn.

Năm 1958, trong bối cảnh Mỹ bắt đầu can thiệp vào Việt Nam,
coi Trung Quốc, Liên Xô là kẻ thù, tăng cường lực lượng
quân sự trong khu vực Thái Bình Dương, tầu hải quân Mỹ đi
lại, tuần tra dọc eo biển Đài Loan; Trung Quốc đơn phương
tuyên bố lãnh hải 12 hải lý, nhằm đối phó với tình hình
có thể xẩy ra tranh chấp từ nhiều phía. Thủ Tướng VNDCCH
Phạm Văn Đồng nhanh chóng ra công hàm công nhận Tuyên Bố này
của Trung Quốc. Việt Nam Cộng Hoà lúc đó là chủ sở hữu
hợp pháp phần biển đảo Nam vĩ tuyến 17 đã tăng cường quân
số, bổ sung vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, cơ
sở vật chất nhằm bảo đảm khả năng chiến đấu lâu dài
cho các căn cứ đồn trú trên Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1965, khi Mỹ đưa quân vào miền Nam, thực hiện chiến
lược chiến tranh cục bộ, leo thang đánh phá miền Bắc, phân
chia các vùng chiến thuật trên toàn miền Nam, các đơn vị hải
quân Sài Gòn trên mỗi đảo được tổ chức biên chế thành
các tiểu đội, trung đội, đại đội; bố trí quân số, trang
bị vũ khí, cơ số đạn theo phương án tác chiến phù hợp
với quy mô, vị trí từng đảo. Viên chỉ huy trung đội, đại
đội được chỉ định làm đảo trưởng để quản lý cả
nhân viên khí tượng, thuỷ văn làm việc trên đảo.

Đầu năm 1974, tình hình khu vực Hoàng Sa diễn biến rất nhanh
chóng, căng thẳng khi ngày 11 – 1 – 1974 Trung Quốc ngang nhiên
tuyên bố các dảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do
chính quyền Sài Gòn quản lý là một phần lãnh thổ của CHND
Trung Hoa. Ngay sau khi tuyên bố, Trung Quốc cho nhiều chiến hạm
và tầu cá vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa. Bốn ngày sau
15 – 1 – 1974 Trung Quốc bất ngờ cho máy bay ném bom và đưa
quân đổ bộ chiếm các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, Duy Mộng,
Quang Hoà thuộc phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa do lực lương
hải quân VNCH đóng giữ. Sau khi đổ bộ Trung Quốc cho quân
dựng trại, cắm cờ và rút lên tầu nghe ngóng, xem phản ứng
của chính quyền Việt Nam cộng hoà.

Trước hành động ngang ngược của Trung Quốc, Bộ Tư Lệnh
hải quân chính quyền Sài Gòn cho chiến hạm Trần Khánh Dư mang
ký hiệu HQ – 4, khu trục hạm tối tân nhất của hải quân
VNCH và cả khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ, do Trung Tá hải
quân Vũ Hữu San làm Hạm Trưởng ra giữ Hoàng Sa ( Sau ngày 30 -
4 -1975 chiến hạm Trần Khánh Dư thuộc biên chế của hải quân
nhân dân Việt Nam với ký hiệu HQ – 01 do Đỗ Xuân Công làm
Thuyền Trưởng). đi theo HQ – 4 lúc đó là một trung đội
biệt hải để sẵn sàng đổ bộ tái chiếm đảo. Để tăng
cường khả năng tái chiếm đảo, cùng ngày, Bộ Tư Lệnh hải
quân VNCH cho tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, do Trung Tá hải
quân Lê Văn Thư làm Hạm Trưởng ra phối hợp với chiến hạm
Trần Khánh Dư.

Rạng sáng ngày 18 – 1, 2 tầu cá vũ trang Trung Quốc tiến vào
Hoàng Sa. Khu trục hạm Trần Khánh Dư và tuần dương hạm Lý
Thường Kiệt đồng loạt dùng tín hiệu cảnh báo: Đây là
lãnh hải Việt Nam, các ông phải rời khỏi ngay. Nhưng tầu cá
Trung Quốc vẫn ngoan cố tiến vào. Trước thái độ ngang
ngược của đối phương, khu trục hạm Trần Khánh Dư dùng mũi
tầu đâm thẳng vào tầu địch, làm gẫy lan can phía trước và
cong cửa buồng lái, buộc địch phải lui, nhưng vẫn lởn vởn
xung quanh Hoàng Sa, không chịu quay về.

Trước tình hình tranh chấp quyêt liệt, để tăng cường khả
năng tái chiếm đảo, trưa ngày 18 – 1, Bộ Tư Lệnh hải quân
Sài Gòn cho thêm tuần dương hạm Trần Bình Trọng, ký hiệu HQ
– 5, do Trung Tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh làm Hạm Trưởng
xuất phát đi Hoàng Sa. Cùng đi có Đại Tá hải quân Hà Văn
Ngạc được cử làm chỉ huy trưởng lực lượng chiến đấu
bảo vệ Hoàng Sa. Trên tuần dương hạm Trần Bình Trọng ngoài
sỹ quan, thuỷ thủ của tầu, có thêm một trung đội người
nhái, có nhiệm vụ sẵn sàng đổ bộ tái chiếm đảo khi thời
cơ đến. Với quyết tâm chiếm lại đảo, nửa đêm 18 – 1,
Bộ Tư Lệnh hải quân VNCH lại cho hộ tống hạm Nhật Tảo,
ký hiệu HQ – 10 do Trung Tá hải quân Nguỵ Văn Thà làm Hạm
Trưởng ra chi viện cho lực lượng đang có mặt tại khu vực
đảo. Như vậy lúc này, tại khu vực Hoàng Sa có 4 tầu lớn
của Hải Quân VNCH gồm 1 khu trục hạm, 2 tuần dương hạm, 1
hộ tống hạm đều sẵn sàng cho trận tái chiếm, bảo vệ
biển đảo.

Rạng sáng ngày 19 – 1, Trung Quốc cho tầu chiến và tầu cá vũ
trang tiếp tục khiêu khích, tiến sát vào Hoàng Sa. Trước sự
ngoan cố, liều lĩnh của Trung Quốc, 6 h 30' khu trục hạm
Trần Khánh Dư tiến sát vào phía Tây Bắc đảo Quang Hoà và
trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ. Đến gần đảo,
phát hiện một doanh trại mới và cột cờ Trung Quốc, trung
đội biệt hải đổ bộ lên phần phía Đông Nam của đảo và
cắm cờ VNCH lên bờ cát và hốc đá, không thể đổ bộ lên
toàn đảo. Trong khi đó, do tầu đối phương còn lởn vởn quanh
đảo nên tuần dương hạm Trần Bình Trọng cũng không thể
đến gần, buộc phải dừng từ xa, thả xuồng cao su để đưa
lực lượng người nhái lên đảo, song ngay việc đổ bộ bằng
xuồng cũng gặp khó khăn, do ngược chiều gió, xuồng đi rất
chậm, nên không chi viện kịp. Trong lúc lực lượng hải quân
VNCH chưa kịp triển khai, tận dụng lợi thế xuôi gió, Trung
Quốc cho quân đổ bộ ở phía Bắc, từ đó tiến sâu vào bên
trong, chiếm đảo Quang Hoà, rồi lần lượt chiếm đóng các
đảo khác.

Việc 2 trung đội biệt hải và người nhái đổ bộ tái chiếm
đảo không thể thực hiện, Đại Tá Ngạc ra lệnh cho 4 chiến
hạm đi theo đội hình một hàng dọc và đồng loạt khai hoả
nghênh chiến với tầu Trung quốc đông gấp 2 lần. Tuy nhiên do
chênh lệch về lực lượng, các tầu của hải quân VNCH lại
cũ, máy yếu nên không thắng được tầu hải quân Trung Quốc
đông hơn, nhiều hơn về lực lượng, vũ khí, trang bị. Phía
VNCH… cái bị chìm, cái bị thương, một số binh sĩ bị
thương và hy sinh.

8h 30' tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị đại liên và
cối 82 bắn vào đội hình người nhái, trúng vào bệ pháo 127
ly làm 3 quân nhân hy sinh, 2 bị thương. Tình hình chiến sự
diễn ra mỗi lúc một căng thẳng, quyết liệt. Anh em rất muốn
nổ súng trả thù cho đồng đội, nhưng Hạm Trưởng Quỳnh
không thể ra lệnh điểm hoả vì lực lượng người nhái đang
rơi vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, nếu nổ súng, khả năng
thương vong sẽ rất lớn. Tình thế không cho phép, binh sĩ trên
tầu đành nuốt hận, nén đau thương, băng bó, cấp cứu cho
người bị thương, bó thi hài cho người hy sinh, đưa vào khoang
thuỷ thủ, đồng thời vừa sửa chữa, khắc phục hỏng hóc,
vừa cho tầu lết theo đội hình chiến đấu.

Cùng thời điểm này, tầu Nhật Tảo bị 2 quả 100 ly bắn
trọng thương, Hạm Trưởng Nguỵ Văn thà hy sinh tại chỗ, Hạm
Phó Nguyễn Thanh Trì bị thương nặng, tầu chìm, 28 quân nhân
dìu nhau xuống bè và được một tầu dầu của hãng Sell mang
quốc tịch Hà Lan là Konionella cứu, đưa về Đà Nẵng. Hộ
tống hạm Nhật Tảo bị loại ra khỏi trận chiến. Lúc này
tuần dương hạm Lý Thường Kiệt trúng đạn, bị thương rớt
lại phía sau, tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị hư hỏng
nặng, chỉ còn khu trục hạm Trần Khánh Dư một mình đơn
độc chiến đấu.

16h 30' chiến hạm Trần Khánh Dư được lệnh ủi thẳng lên
đảo Quang Hoà, 130 thuỷ thủ bám sát vị trí sẵn sàng chiến
đấu chiếm lại đảo, song các khẩu đại bác đều trục
trặc, không khắc phục kịp sự cố kỹ thuật, cơ số đạn
không đủ để tác chiến trong thời gian dài, lúc mà quân Trung
Quốc đã đổ bộ chiếm đảo từ sáng sớm. Biết khả năng
tái chiếm đảo là khó thực hiện, Hạm Trưởng San báo cáo
trực tiếp với Tư Lệnh hải quân VNCH là HQ – 4 không còn
khả năng đánh chiếm đảo. Trước tình hình đó, lệnh từ
đất liền: Các tầu quay về, huỷ lệnh tái chiếm Hoàng Sa.

17h chiều 19 – 1 – 1974, trận hải chiến giữa hải quân VNCH
và hải quân Trung Quốc kết thúc với phần thắng thuộc về
đối phương. Hải quân Trung Quốc đã chiếm đảo Quang Hoà và
các đảo còn lại thuộc phần phía Tây của quần đảo Hoàng
Sa do Việt Nam chiếm giữ từ trước. 5h 30' ngày 20 – 1 -1974
(Tức ngày 30 tháng chạp năm Quý Sửu, tức ngày 30 tết) khu
trục hạm Trần Khánh Dư (HQ – 4) về đến cảng Tiên Sa –
Đà Nẵng; 9 giờ tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ – 5)
vào cảng. 12 giờ cùng ngày, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt
từ từ tiến vào vịnh Đà Nẵng với sự hộ tống của 2 tầu
lai dắt.

Bị mất Hoàng Sa, đề phòng Trung Quốc lợi thế đánh chiếm
Trường Sa, ngày 1 – 2 – 1974, Bộ Tư Lệnh hải quân Sài Gòn
cho quân đồn trú đồng loạt trên các đảo Trường Sa Lớn,
Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, tổ chức tuần tra, canh
gác bảo vệ đảo. Tháng 4 – 1975, Hải Quân ND VN thu hồi các
đảo trên từ Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Nhờ hải quân VNCH
đã bảo vệ thành công 5 đảo quan trọng kể trên mà hải quân
NDVN có điều kiện mở rộng quyền kiểm soát trên 21 hòn đảo
khác trong vùng biển Trường Sa.

Hiện nay, Việt Nam là quốc gia kiểm soát nhiều đảo nhất
trong vùng biển này, kế đến Trung Quốc 7, Đài Loan 1, Philippin
9, Malaisia 5 đảo.


<center><img src="http://danluan.org/files/u1/sub02/image001_4.jpg"
width="300" height="325" alt="image001_4.jpg" /></center>
<center><em>Bản đồ "Lưỡi Bò" của Trung Quốc quét gần
hết Biển Đông</em></center>

Biển đảo của tổ tiên dù trong tay các vua chúa phong kiến
ngày xưa, trong tay những người thuộc thời đệ nhất hay đệ
nhị Việt Nam Cộng hoà hay đang trong tay nhà nước CHXHCNViệt
Nam…đều thấm đẫm biết bao mồ hôi, nước mắt và cả
xương máu của biết bao người con đất Việt đã đổ ra vì
sự toàn vẹn và trường tồn của những vùng biển đảo
thiêng liêng đó.

Phủ nhận những hy sinh to lớn của những người này, những
người nọ là có tội với tiền nhân, có tội với lịch sử,
là trái với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Rẻ rúng những
gì mà những người đồng bào của mình đã dâng hiến, chúng
ta không hề đẹp thêm trong con mắt của những dân tộc văn
minh và giàu lòng tự trọng, không hề mạnh thêm trong con mắt
của những thế lực đang muốn thôn tính vùng biển đảo
thiêng liêng này.

Thái độ đúng đắn, hợp đạo lý, hợp lòng người nhất là
hãy cùng nhau xoá bỏ hận thù, cùng đốt lên nén hương tôn
vinh bất cứ ai đã không tiếc thân mình cho sự toàn vẹn và
trường tồn của những vùng biển đảo thiêng liêng đó, dù
họ là ai. Dòng máu của Nguỵ Văn Thà Trung Tá Hạm Trưởng hộ
tống hạm Nhật Tảo cùng các chiến hữu trong hải quân VNCH
khác đã ngã xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974, có khác
gì đâu dòng máu của các liệt sĩ hải quân quân đội NDVN đã
đổ ra trên đảo Gạc Ma 1988. Nước mắt và nỗi đau của
người vợ, người mẹ ông Nguỵ Văn Thà và các chiến hữu
của ông, có khác gì đâu nước mắt và nỗi đau của những
người vợ liệt sĩ, những mẹ Việt Nam anh hùng có người
thân đã bỏ mình vì đất
nước

<center><img src="http://danluan.org/files/u1/sub02/image002_2.jpg"
width="441" height="331" alt="image002_2.jpg" /></center>
<center><em>Bà quả phụ Nguỵ Văn Thà trong một hội thảo về
Biển Đông tại Sài Gòn 2011</em></center>

Biết đến bao giờ ban lãnh đạo Việt Nam mới ngộ được
chân lý hết sức giản dị là: "Tổ quốc là vĩnh hằng, mọi
thể chế trên đó chỉ là tạm thời và hữu hạn mà thôi"./.

Hà Đông một sớm đầu đông 11 – 2011.

Nhà Báo Nguyễn Thượng Long
Đón đọc: Vọng Niệm – Phần 2: "Người đó… là Nguyễn
Cao Kỳ"


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10739), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét