tuyệt vọng </strong></em>
<div class="boxleft320"><img
src="http://danluan.org/files/u1/sub02/vietnam-tet-lunar-new-year-economy-2011-01-28.jpg"
width="320" height="213"
alt="vietnam-tet-lunar-new-year-economy-2011-01-28.jpg" /></div>
Đầu năm nay, một giới chức cao cấp của Hà Nội là ông
(cựu) Thống đốc Ngân hàng Trung ương có phát biểu rằng dân
ta sẽ ăn một cái Tết vui vẻ huy hoàng nhất. Quả nhiên,
người ta đã cố thổi lên không khí lạc quan phấn khởi vì
Đại hội Đảng khóa XI vừa kết thúc trước Tết hai tuần.
Nhưng đấy là sự lạc quan của kẻ uống thuốc bổ.
Vì chín tháng sau Đại hội XI, cách đây năm ngày, Hội nghị
kỳ ba của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI vừa "thống nhất"
quyết định là phải cải tổ nền kinh tế trong ba lãnh vực
là đầu tư, thị trường tài chánh và doanh nghiệp nhà nước.
Lý do "tái cơ cấu" này được chính người đầu đảng nêu ra:
"<em>Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định; lạm phát vẫn ở mức
cao, tiềm ẩn nguy cơ bùng phát; nợ công, đặc biệt là nợ
nước ngoài tăng nhanh; dự trữ ngoại hối mỏng, áp lực đối
với tỉ giá còn lớn; thị trường tài chính, thị trường
bất động sản giảm sút, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp đang phải đối mặt với tình
trạng giá cả đầu vào, lãi suất cao, hàng tồn kho lớn...
Tình hình nêu trên có nguyên nhân khách quan là do tác động
của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; nguyên
nhân chủ quan là do những yếu kém của nội tại nền kinh tế
với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém
hiệu quả, tích tụ kéo dài từ lâu, chậm được khắc phục
và do những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý,
điều hành của các cấp các ngành, đặc biệt là trong điều
hành chính sách tiền tệ, tài khóa; quản lý quy hoạch, đầu
tư, đất đai, tài nguyên, thị trường bất động sản...</em>"
Bỏ qua ngôn từ chính thức đó mà nói theo dân gian thì Việt
Nam đang mấp mé khủng hoảng. Người ở trong nước gọi là
"chết lâm sàng". Đảng Cộng sản phải tiến hành một đợt
cải cách nữa, cũng quyết liệt như cách đây đúng 20 năm.
Mà vì sao 20 năm?
Và tình hình nguy ngập như thế nào?
<h2>Bối Cảnh Thời Gian</h2>
Chúng ta có thể tạm nhớ lại vài mốc thời gian để mường
tượng ra các bài toán và giải pháp của những người đã
độc quyền cai trị đất nước từ năm 1975 đến nay:
Sau 1975 là 10 năm hoang tưởng vì "tiến nhanh tiến mạnh tiến
vững chắc lên xã hội chủ nghĩa". Còn tiến đến tận
Kampuchia. Vì chiếm đóng xứ láng giềng này, Tổng sản lượng
GDP vốn dĩ đã suy sụp còn mất toi 5% mỗi năm. Vì vậy Việt
Nam mới tiến lên cao điểm là khủng hoảng năm 1986 và bước
ngoặt là Đại hội VI.
Sau Đại hội đó là năm năm lúng túng thả nổi, từ 1986 đến
1991, vì nhà cầm quyền biết thế nào là sai mà chưa rõ thế
nào là đúng. Đó là "đổi mới tự phát", buông tay ra cho dân
làm ăn tự do hơn trước. Quả nhiên là có khá hơn xưa, và dân
hết đói.
Nhưng còn đảng thì sao?
Khi Trung Quốc và Liên Xô bị khủng hoảng năm 1989 rồi Liên Xô
tan rã năm 1991, nhà cầm quyền hốt hoảng nên đành đổi mới
thật. Mà nhìn quanh thì chỉ còn thấy mô hình Trung Quốc, vừa
có vẻ khả quan về kinh tế lại an toàn về chính trị. Từ
đấy, Việt Nam trôi vào bóng rợp của Trung Quốc vì lý do ta
gọi là ý thức hệ. Thực tế là để đảng tìm chỗ tựa về
chính trị.
Thời điểm mấu chốt là năm 91 đó, cách đây 20 năm, khi chế
độ bị chao đảo và nghiêng về Bắc Kinh trong cách cải tổ.
Nhưng trong năm năm đầu của thời đổi mới từ trên xuống
thay vì từ dưới lên như trước, nhà cầm quyền vẫn mò chân
xuống nước mà đi. Từ 1991 đến 1996 thì chỉ giải toả
những gì không gây ra rủi ro chính trị, chứ chưa dám bung hẳn
ra ngoài theo kinh tế thị trường, dù rằng đã được quốc
tế viện trợ để cải cách.
Đấy là lúc Hoa Kỳ nhập cuộc, kể từ 1993-95 trở đi.
Năm năm sau, từ 1996 đến 2001, Mỹ lần lượt bãi bỏ lệnh
cấm vận và bình thường hóa quan hệ kinh tế rồi ngoại giao,
với dấu mốc là Hiệp định Thương mại Song phương BTA ký
năm 2001. Bước nhảy vọt khởi sự từ đó, dù Hà Nội vẫn
hoài nghi e ngại việc hội nhập vào kinh tế thế giới. Và
vẫn sợ ý đồ của Mỹ!
Hà Nội mất 10 năm thương thảo việc gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO cho đến khi vượt qua cửa Hoa Kỳ
với quy chế thương mại bình thường NTR, xưa kia được gọi
là Tối huệ quốc, được Mỹ chấp thuận đúng năm năm
trước đây, vào cuối năm 2006.
Thế rồi từ khi gia nhập Tổ chức WTO thì nhà cầm quyền Hà
Nội rơi vào trạng thái tâm lý ngược, là hồ hởi sảng, như
con cá nước lợ đã tung tăng ra biến lớn. Nó bị say sóng!
Đó là tình hình từ 2007 đến nay.
Do sự lạc quan thiếu cơ sở, Hà Nội tưởng rằng sẽ tập
trung cả đặc quyền lẫn đặc lợi vào khu vực kinh tế xã
hội chủ nghĩa với việc thành lập các tập đoàn kinh tế nhà
nước, trong khi vẫn khai thác được lợi thế của kinh tế
thị trường.
Kết cuộc là nguy cơ khủng hoảng như ta đã thấy.
Nhìn lại trong trường kỳ thì cũng không khác vụ khủng hoảng
kinh tế của năm nước Đông Á vào thời 1997-1998. Nhưng có
khác vì Việt Nam chưa có kinh tế thị trường và cũng không có
chính trị dân chủ, nên khó xoay trở hơn các nước kia.
Đấy là bối cảnh của những khó khăn hiện nay.
<h2>Thách Đố Trước Mặt</h2>
Chúng ta phải nhìn lại toàn cảnh từ khi giao lưu với Mỹ và
được mở cánh cửa vào WTO:
Vốn dĩ đa nghi mà chẳng nghi ngờ sự kém hiểu biết của
mình, lãnh đạo Hà Nội khám phá là ta khôn hơn nên có lợi
lớn sau khi bang giao với Hoa Kỳ! So với tình hình năm 1995, ta
mua của Mỹ gấp 10 mà bán cho Mỹ gấp 128 lần. Quả là Mỹ
khờ! Như năm ngoái Việt Nam đạt xuất siêu là hơn 11 tỷ đô
la, và mới có năm tháng của năm nay thì đã lời thêm gần năm
tỷ.
Nhưng trong 10 năm cầy cục lập hồ sơ xin vào WTO, Hà Nội cũng
không hề nghi ngờ sự thiếu hiểu biết nên chẳng chuẩn bị
giai đoạn tiến ra biển lớn. Cơ chế kinh tế, luật lệ và
thông tin của Việt Nam không có khả năng đối đầu với
những thách đố dồn dập của thời "hậu WTO". Mà vẫn cứ
lạc quan hồ hởi với cái tệ sùng bái chỉ tiêu tăng trưởng
vì thấy sản xuất tăng vọt. Và quả nhiên là gây lạm phát
từ cuối năm 2007.
Khi ấy, một yêu cầu lưỡng nan - vừa tống ga để tăng
trưởng mạnh, vừa đạp thắng để hãm đà vật giá - đã
thách đố khả năng ứng phó của chính quyền.
Mà ngoài biển lớn cũng có sóng dữ: thế giới lại bị tổng
suy trầm 2008-2009 nên Việt Nam bị ảnh hưởng. Theo đúng bài
bản Trung Quốc, Việt Nam lại tăng chi và ào ạt bơm tín dụng
để kích thích kinh tế với hậu quả tương tự: gây bội chi
ngân sách, lạm phát và thổi lên bong bóng đầu cơ địa ốc.
Nhìn lại thì trong các nước Á châu, Việt Nam đứng đầu -
còn hơn Trung Quốc - về kích thích kinh tế với lượng tín
dụng bơm ra từ 2008 đến 2010 là 100 tỷ đô la, bằng Tổng
sản lượng GDP! Cũng vì vậy mà kinh tế gặp họa còn tệ hơn
Trung Quốc.
Sau đây là vài con số khô khan mà người ta phải nói đến.
Đó là chỉ tiêu 7% đã tuột khỏi tầm tay, năm nay mà đạt 6%
là mừng. Mà lạm phát lại gần 20%, cao nhất từ bốn năm nay.
Bội chi ngân sách bằng 6% GDP. Nhập siêu mỗi tháng chừng một
tỷ, mà được với Mỹ bao nhiêu thì nạp cho Tầu bấy nhiêu.
Cán cân chi phó hay vãng lai hụt cỡ 5-6% GDP. Dự trữ ngoại tệ
chỉ còn đủ cho gần hai tháng nhập cảng và đồng bạc mất
giá nên càng gây lạm phát trong vòng luẩn quẩn. Ngoại trái
chiếm 50% GDP và nếu kể cả số nợ của doanh nghiệp nhà
nước mà chính quyền phải đảm bảo và trả nợ đậy, thì
số công trái đã vượt tổng sản lượng. Tức là lên đến
mức báo động. Cũng nguy ngập như hệ thống ngân hàng với
núi nợ khó đòi và sẽ mất. Còn thị trường địa ốc thì
xì như trái bóng hết hơi vì hết được bơm thuốc bổ.
Trong cơn sóng gió vừa qua, Việt Nam tụt hậu so với các xứ
khác: nội một năm, sức cạnh tranh sụt sáu bậc. Còn giá trị
trái phiếu bị giáng cấp tới điểm B- là hạng thấp của
giấy lộn "junk bond". Giới đầu tư quốc tế đang nghĩ lại
về ảo vọng của họ tại Việt Nam.
Nguồn hy vọng cuối chính là tiền bạc do thân nhân gửi về,
được Ngân hàng Thế giới ước lượng vào Tháng Năm vừa qua
là từ 7,2 tỷ đến tám tỷ đô la cho năm 2010! Ngẫu nhiên sao
lại bằng mức gia tăng sản xuất của gần 90 triệu dân trong
cả năm. Nhưng đấy chỉ là một cách nhìn máy móc của con
số.
Chứ thực tế thì tình hình còn đen tối hơn.
Hệ thống sản xuất của Việt Nam có ba giai tầng cao thấp
khác nhau. Trên cùng là các tập đoàn nhà nước với giới
điều hành là các đảng viên cao cấp có toàn quyền về kinh
tế, kinh doanh, vay mượn hoặc sử dụng đất để trục lợi,
mà thực tế đóng góp rất ít cho kinh tế nếu so với tài
nguyên được phép tận dụng một cách vô trách nhiệm vì theo
diện chính sách. Ở giữa là các doanh nghiệp cổ phần tiếng
là của tư nhân mà đa số là tay chân của thân tộc hoặc
những ai có quan hệ với đảng viên cán bộ, để chia chác
đặc quyền từ trên ban xuống.
Dưới cùng là các tiểu doanh thương loại nhỏ và trung bình,
họ phải luồn lách qua hệ thống luật lệ và chính sách mờ
ảo để trục lợi - hoặc vặt mũi bỏ mồm. Thành phần này
có rủi ro phá sản cao nhất dù tuyển dụng nhiều nhân công
nhất. Thực tế thì năm nay đã có năm vạn cơ sở chính thức
đóng cửa và thải người vì làm sao kinh doanh có lời khi phải
vay lãi đến hơn 20 phân trong khi cả thế giới đang bị suy
trầm?
Dưới đáy của hệ thống kinh tế đó là nông dân, bị cướp
đất và phá rừng, bị ở trên trưng thu trục lợi khi gạo lên
giá và lãnh họa lúc hệ thống đê bao bị bể, là chuyện đang
xảy ra.
Phản ảnh cái hạ tầng kinh tế đó là hệ thống xã hội bất
công đã được định chế hóa ở trên.
Các đại gia và thân tộc của đảng ở trên cùng là những
kẻ giàu nhất nước, tiêu xài như Mỹ, đi Mỹ như đi chợ,
để "đầu tư", rửa tiền và tẩu tán tài sản thụ đắc bất
chính, dưới sự đo đếm mẫn cán của công lực Mỹ. Ở giữa
là thành phần gọi là trung lưu khá giả thì cũng là những ai
có quan hệ với nhân sự của đảng. Trong tầng lớp này, không
thiếu những kẻ giàu nổi hãnh tiễn và khoe khoang sự thành
tựu của mình.
Ở nấc dưới của xã hội lý tài và bất công đó là một đa
số còn nghèo khổ.
Thảm kịch lớn là họ chịu đựng sự nghèo khổ ấy và một
số tìm nấc thang leo lên bậc trên, cũng lại qua quan hệ với
đảng viên cán bộ của nhà nước, hoặc khai thác những kẽ
hở của luật lệ chính sách. Dưới cùng là những kẻ tuyệt
vọng và bất mãn. Một số không ít sẵn sàng can vào tội ác
để tìm ra ánh mặt trời của họ trong xã hội đen, mà đa số
nạn nhân là người dân.
Người ta nhìn ra sự suy sụp kinh tế trong sự băng hoại xã
hội. Thế thì vì sao mà năm năm sau khi gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới, Việt Nam lại tụt hậu về cả kinh tế
và xã hội như vậy?
<h2>Nguyên Nhân Gần Xa</h2>
Chúng ta có một cách giải thích nhẹ nhàng và nhân nhượng,
dựa trên lý luận kinh tế theo kiểu chuyên gia ngoại quốc.
Thứ nhất, trong mấy chục năm qua, hiển nhiên là Việt Nam có
những đổi thay về lượng. Nhưng nhìn trong không gian thì vẫn
chưa theo kịp và thực tế bị thua sút các nước đã từng có
tốc độ tăng trưởng rồng cọp là 7-8% một năm trong mấy
chục năm liền với mức công bằng cao hơn.
Nên nhắc tới một trường hợp mà nhiều người nghĩ đến
lại buồn là Nam Hàn, nửa thế kỷ trước thì cũng cùng trình
độ phát triển với miền Nam, trên phân nửa lãnh thổ. Hai
chục năm trước Thế vận hội Bắc Kinh 2008 của Trung Quốc,
thì Nam Hàn đã tổ chức Thế vận Seoul vào năm 1988, như một
biểu hiện của sự trưởng thành trong phát triển. Nhưng đấy
cũng là bước ngoặt đáng kể của tiến trình dân chủ hóa ra
khỏi chế độ quân phiệt của thời chiến. Ngày nay, Nam Hàn
đã vượt qua Việt Nam quá xa.
Lý do là lượng của Việt Nam không biến thành phẩm.
Tăng trưởng không là phát triển. Tăng trưởng của Việt Nam
thiếu phẩm chất, không bền vững, đào sâu bất công và gây
ô nhiễm cho môi trường sinh sống. Đó là tăng trưởng sóng vai
cùng tham nhũng và hủy hoại môi sinh. Tại sao như vậy?
Vì hạ tầng cơ sở vật chất như cầu đường cho giao thông
và vận tải nội địa, hệ thống tiện ích công cộng, như
điện nước hay hủy thải phế vật, vẫn còn lạc hậu bên
cạnh các công trình gọi là "hoành tráng" của sự phô trương.
Nghiêm trọng hơn vậy, hạ tầng cơ sở luật pháp thì thiếu
công minh và thừa kẽ hở cho mọi lối vi phạm. Luật lệ bất
minh của một bộ máy cai trị rất rộng - vì cái gì cũng xía
vào - mà lại nông vì chẳng điều động được gì hết, đã
phá vỡ mọi chánh sách quản lý kinh tế quốc dân, nếu như
Việt Nam thực sự có một chánh sách kinh tế ra hồn, là điều
chưa có.
Ta cũng có một cách giải thích khác thiên về xã hội và chính
trị, chứ không máy móc theo kinh tế học.
Nôm na thì Việt Nam gặp bài toán cổ điển là "cải cách kinh
tế mà không cải cách chính trị" nên làm nẩy sinh một xã
hội lý tài ruỗng nát, mà không ai dám nói tới một giải pháp
khác.
Chỉ vì hệ thống chính trị Việt Nam khiến đảng có toàn
quyền quyết định ở mọi cấp mà đảng viên khỏi chịu
trách nhiệm trước quốc dân. Tiến trình quyết định mờ ám
đó dẫn đến sự xuất hiện của một "đảng đa nguyên", gồm
nhiều phe nhóm trên thượng tầng, trong Bộ Chính trị. Mỗi
nhóm có những cơ sở kinh doanh riêng như các tập đoàn nhà
nước và tay chân, như một lực lượng Bình Xuyên có cả chục
khu vực Bình Khang được bảo kê!
Khi xưa thì Bình Xuyên có sự bảo trợ của Thực dân Pháp.
Ngày nay, phải chăng là có sự bảo vệ của Trung Quốc?
Các phe nhóm này đối lập với nhau về thị phần nhưng tương
nhượng nhau để tồn tại và gây ấn tượng với dư luận
nông cạn bên ngoài là có phe bảo thủ có phe canh tân.
Kết cuộc thì các phe nhóm thế lực làm lệch lạc việc quản
lý để trục lợi và cản trở mọi nỗ lực cải cách để duy
trì đặc quyền và đặc lợi của họ. Hàng năm, Việt Nam
được cả chục khuyến cáo của quốc tế và các nước cấp
viện về từng phương hướng cải cách, nhưng Hà Nội chỉ
tiến hành những việc không xâm phạm vào vùng đặc lợi của
các đại gia ở trên. Ở dưới, người dân chỉ còn cách ăn
gian, hoặc chịu đói, trước sự phe phẩy ngạo mạn của
những kẻ ở trên.
Trong một xứ tự xưng "xã hội chủ nghĩa" thì đấy là nghịch
lý khó hiểu mà vẫn được đa số cam chịu! Và đa số cũng ý
thức được rằng mình có thể gian lận bằng mọi ngả để
trục lợi, kiếm sống, miễn là đừng nói đến chính trị,
đừng đụng đến chính trị. Và cũng đừng đả kích Trung
Quốc.
Chửi Mỹ thì được, chứ đừng phản đối Trung Quốc, từ
chuyện kinh tế đến an ninh!
<center>* * *</center>
Sau khi trình bày khái quát tình trạng kinh tế của Việt Nam
với hai cách giải thích tất nhiên là giản lược, chúng tôi
xin kết luận với vài nhận xét u ám và mấy câu hỏi.
Thứ nhất, từ 200 năm nay, Việt Nam đã có mấy chục năm liên
tục và hiếm hoi mà không bị chiến tranh, ngoại xâm hay nội
loạn, và người Việt có quyền quyết định về vận mệnh
quốc gia. Cớ sao lại tụt hậu và có thể mất chủ quyền
thực tế vào tay ngoại bang?
Thứ hai, xã hội Việt Nam hiện có thể được tóm gọn là
"Đại gia hạ cánh an toàn và đã có bãi đáp bên Mỹ; giới
trung lưu thì hốt hoảng vì chưa kịp lên tới bậc đại gia
đã có thể tuột dốc; còn dân đen thì tuyệt vọng!" Họ
tuyệt vọng vì không hiểu là Trung Quốc sẽ làm gì và Hoa Kỳ
có muốn làm gì chăng? Còn bên trong thì họ không tin là lãnh
đạo muốn thay đổi, có khả năng hoặc sẽ đổi mới thật.
Chuyện ấy dẫn ta đến Trung Quốc và vài câu hỏi cho tương
lai.
Việt Nam có thể ra khỏi trật tự Trung Hoa được chăng? Muốn
vậy, người dân phải làm gì? Họ còn đất lùi không?
Thứ nữa, trong quan hệ tay ba Mỹ-Tầu-Ta, người Việt ta có
thể làm được gì? Mà người Việt đó là ai, ở đâu? Những
câu hỏi ấy không dễ có giải đáp.
Và có thể là một đề tài hội thảo khác của Hội Khoa Học
& Kỹ Thuật Việt Nam.
(Thuyết trình trước cuộc hội thảo ngày Thứ Bảy 15 Tháng 10
của Hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam (VAST) tại California).
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10286), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét