tù cùng với 200 triệu $US tiền phạt vào ngày 11 tháng 10 vừa
qua, do việc bà này ký hợp đồng lúc còn tại chức năm 2009
với tập đoàn dầu khí của Nga về việc cung cấp khí đốt
cho Ukraine. Trong phần luận tội của công tố viện, bà
Timoshenko bị kết tội lạm dụng quyền lực, việc này gây
thiệt hại «nặng nề» cho Ukraine. Được biết, mức độ
thiệt hại lên đến 1,5 tỉ hryvnia (vào khoảng 190 triệu $US)
và hiện nay hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Bản án này đã
gây một làn sóng phản đối từ Nga cho đến các nước Châu
Âu, vì ở các nơi đây người ta cho rằng đó là một bản án
nặng phần «chính trị», do đối thủ của bà là đương kim
tổng thống Viktor Ianoukovitch dàn dựng lên nhằm triệt hạ
đối thủ của mình. Theo các luật gia quốc tế, bà Timoshenko
có đầy đủ tư cách pháp nhân để ký kết hợp đồng, việc
kết tội bà «lạm dụng quyền lực» hoàn toàn là áp đặt.
Ở bài viết này tác giả sẽ không nói đến nội tình của
vụ án chính trị đầy kịch tính này mà chỉ nói sơ lược
về khía cạnh pháp lý của bản án: trách nhiệm của lãnh
đạo trước những quyết định thuộc phạm vi quốc gia và dân
tộc.
Ở các nước dân chủ trên thế giới, chứ không phải không
chỉ riêng ở Ukraine, khi một vị nguyên thủ quốc gia, một vị
thủ tướng, bộ trưởng... nếu trong thời kỳ tại chức có
những hành động lạm dụng quyền hành, không ngoại lệ một
ai, tất cả đều phải ra tòa án để giải thích về hành vi
của mình. Tham nhũng, sách nhiễu tình dục, các hình thức bức
hiếp người dân… đều thuộc vào diện «lạm dụng quyền
hành». Nếu xét thấy có tội (hay có hành vi phạm luật), nhà
lãnh đạo này cũng nhận lãnh những bản án như bất kỳ
người dân nào trong nước. Riêng các hành vi làm thiệt hại
đến chủ quyền hay quyền lợi của quốc gia, dân tộc, như
các việc tự động ký kết các hiệp định về biên giới mà
nội dung chủ trương chuyển nhượng lãnh thổ, hải đảo… có
thể qui vào tội «phản bội tổ quốc». Các quyết định liên
quan đến lãnh thổ hay việc tuyên bố chiến tranh… thường do
quyết định của «tập thể», như Quốc Hội, với các cố
vấn là «uỷ ban nghiên cứu» gồm những nhà chuyên môn. Một
vài trường hợp gần đây, như việc tổng thống Phi là bà
Gloria Arroyo, năm 2008 đã đơn phương ký kết hiệp định với
Trung Quốc về việc thăm dò dầu khí trong vùng tranh chấp
thuộc Trường Sa.
Hiệp định này đã bị các học giả Phi tố cáo là «bán
biển cho TQ». Kết ước này đã bị phủ quyết tại quốc hội
Phi. Trường hợp khác, năm 2008, bộ trưởng ngoại giao Thái
Noppadon Pattama đã bị cách chức sau khi đã «ký tắt» với
Kampuchia một thỏa ước hữu nghị liên quan đến việc đề
nghị UNESCO công nhận ngôi đền Preah Vihear là «di sản văn hóa
của thế giới». Theo đó gián tiếp công nhận chủ quyền của
Kampuchia về vùng đất đang có tranh chấp giữa hai bên Thái -
Miên. Thỏa ước này bị Tối Cao pháp viện Thái tuyên bố là
«vi hiến». Vì theo qui định của hiến pháp Thái, tất cả các
quyết định liên quan đến lãnh thổ phải do quốc hội biểu
quyết chung cuộc. Do đó hiệp ước không hiệu lực. Nhiều
trường hợp khác, như các nhà độc tài ở các xứ Nam Mỹ,
những tên đồ tể thuộc Đức quốc xã cũ, hay là Khmer đỏ…
là những tên phạm tội diệt chủng, đều bị truy tố ra tòa
để bị đền tội xứng đáng. (Việt Nam có một trường hợp
do không tôn trọng những qui định của Công ước quốc tế
của LHQ về cách đối xử với tù nhân, do thân nhân các nạn
nhân đệ đơn truy tố, một vị tướng nổi tiếng của VN
đến cuối đời cũng không dám ra nước ngoài, vì sợ bị
bắt).
Nhưng tại Việt Nam thì không vậy, cho dầu ở nơi đây luôn
tự hào là một xã hội «văn minh». Nhiều trường hợp lãnh
đạo đã làm cho dân vô tội «máu chảy thành sông», hay lãnh
đạo nhượng đất và biển cho Trung Quốc qua việc ký kết các
hiệp ước về biên giới, hoặc lãnh đạo đã ký kết những
kết ước về kinh tế, cho khai thác quặng mỏ… đã làm thiệt
hại đến môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống
của người dân, hay những lãnh đạo do bất tài đã làm tiêu
tán tài sản của quốc dân qua các tập đoàn kinh tế… Ở các
nước, một vài tội này có thể được xem là «phản bội tổ
quốc», có thể bị xử hình phạt nặng nhất. Nhưng ở Việt
Nam thì tất cả đều bình an vô sự. Nếu không nói là ai cũng
được thăng quan tiến chức. Ở đây chỉ nói vài vụ tiêu
biểu.
<strong>1/</strong> Vụ Trung Quốc khai thác Bô Xít trên Tây Nguyên:
trách nhiệm là ông Nông Đức Mạnh nếu chiếu theo bản Tuyên
Bố chung giữa hai nước Việt-Trung tháng 6 năm 2008. Đó dự án
khai thác Bô Xít Đắc Nông, theo khoản 5 của Bản Tuyên Bố.
Dự án này đến nay cho thấy phía Việt Nam đã bị thiệt hại
lớn do nạn ô nhiễm môi trường cũng như không có hiệu quả
kinh tế. Mặc dầu người dân, giới trí thức, khoa học gia...
thường xuyên lên tiếng cảnh báo, nhưng dự án này vẫn
được tiếp tục. (Trong khi đó, ở Miến Điện, dự án xây
đập Myitsone do Trung Quốc là chủ đầu tư đến 3,6 tỷ
đôla, bị hủy bỏ với lý do: không hợp lòng dân!).
Quốc hội VN im lìm về vụ này.
Bao giờ thì ông Nông Đức Mạnh (nếu không ra tòa) lên tiếng
giải thích?
<strong>2/</strong> Vụ Vinashin: Đã gây thiệt hại đến vài ngàn
tỉ cho ngân sách quốc gia, vì đây là tập đoàn của nhà
nước. Vụ đổ bể này đã làm xôn xao dư luận Việt Nam một
thời gian dài, nhưng đã bị rơi vào im lặng. Có người lên
tiếng nói rằng do sự sụp đổ của tập đoàn này mà nhiều
công trình hiện đại hóa hải quân của VN đã bị chậm trễ.
Người trách nhiệm là ông Nguyễn Tấn Dũng.
Vụ này quốc hội cũng im.
<strong>3/</strong> Các vụ chung quanh việc phân định biên giới
Việt-Trung. Việc phân định biên giới Việt Trung được đặt
nền tảng trên các văn bản pháp lý (công ước Pháp Thanh 1887)
và các «thỏa thuận» đã đạt được của lãnh đạo hai
nước Việt - Trung.
<strong>a) Vụ phân định cửa sông Bắc Luân:</strong> Người
phụ trách phân định vùng cửa sông Bắc Luân đã nhượng bộ
cho phía Trung quốc những phần đáng lẽ thuộc về Việt Nam,
đó là các bãi Tục Lãm và Dậu Gót (¼ bãi Dậu Gót và 2/3 bãi
Tục Lãm nhượng cho phía Trung quốc).
Nguyên tắc xác định đường biên giới là giòng sông theo Công
ước Pháp - Thanh 1887, đồng thời giải quyết chủ quyền các
cù lao (mới thành hình sau này), đặc biệt cho vùng biên giới
Quảng Đông (tức vùng tỉnh Quảng Ninh hiện nay), được mô
tả như sau: đường biên giới luôn là đường tàu bè qua lại
(chenal navigable), tức là đường mà theo đó nước sâu nhất.
Các cù lao, cồn, bãi... ở phía bờ của nước nào thì thuộc
chủ quyền của nước đó. Các cù lao, cồn, bãi... thành hình
do phù sa bồi đắp sau này thì chúng ở gần bờ phía nào thì
thuộc chủ quyền nước đó.
Nhìn lên bản đồ Google, ta thấy đường nước sâu nhất là
đường nước có màu xanh đậm. Đường nước này ở phía
bắc của các bãi Tục Lãm và Dậu Gót.
Chiếu theo qui ước này thì các bãi Tục Lãm và Dậu Gót hoàn
toàn thuộc về Việt Nam.
Mặt khác, nếu ta xét đến nội dung Công ước 1887 và bản
đồ vùng cực đông Móng Cái. Bản đồ này xác định đường
biên giới trong vịnh Bắc Việt, đồng thời phân chia các đảo
trong Vịnh. Đó là đường kinh tuyến đi qua điểm cực đông
của đảo Trà Cổ. Theo nội dung công ước 1887, các đảo ở
phía tây của đường kinh tuyến này thì thuộc Việt Nam. Các
đảo phía đông thì thuộc Trung Quốc.
Nhìn lên bản đồ Google hiện nay ta thấy các bãi Dậu Gót,
Tục Lãm (cùng nhiều cồn bãi khác) đều ở về phía tây của
đường này. Do đó chúng đều thuộc Việt Nam.
Xem thêm tại đây:
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=20
Lý do nào phải nhượng cho Trung Quốc như vậy ? Ai là người
có trách nhiệm phân định vùng này? Do chỉ thị của «trên»
hay do thiếu nghiên cứu?
<strong>b) Vùng Nam Quan:</strong> Theo nội dung biên bản phân định
biên giới của Công ước 1887 thì cột mốc tại Nam Quan mang
số 18 được cắm cách cổng Nam Quan 100m về hướng nam.
Bỏ qua các giả thuyết cho rằng cổng Nam Quan hiện nay đã
không đúng với vị trí trong lịch sử qua nhiều lần xây cất
lại (vì sụp đổ ít nhất hai lần do chiến tranh Pháp Thanh
1884-1885 và Trung-Nhật trước Thế chiến II), cột mốc được
cắm tại đây hiện nay đã dời khá xa về phía nam, so với
khoảng cách như mô tả của công ước 1887.
Cột mốc số 19 thay vì được cắm trên đỉnh núi theo công
ước 1887 thì bị dời xuống chân núi (mà chưa chắc là ngọn
núi này!)
Cột mốc cắm ở điểm nối đường ray xe lửa cũng bị lấn
sang phía VN hơn 100m.
Xem thêm ở đây:
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=39
Ai trách nhiệm phân định vùng này?
<strong>4/</strong> Vịnh Bắc Việt: Vịnh này đã được phân
định theo công ước Pháp Thanh 1887, phân định lại năm 2000.
Việc phân định lại đã gây thiệt hại rất lớn cho Việt
Nam. Theo tin tức nhận được thì nguyên tắc phân định là 1:
1,1. Điều này có nghĩa, từ một điểm bất kỳ trên đường
biên giới, điểm này sẽ cách VN và TQ với tỉ lệ là 1/1,1.
Nhưng thực tế mọi người đều thấy các «giới điểm»
đều không đúng với qui tắc đã thỏa thuận. Các giởi điểm
đều lấn sang phía Việt Nam. Trong khi các đảo Cồn Cỏ và
Bạch Long Vĩ thì chỉ có hiệu lực rất ít.
Ai đã có quyết định hay chủ trương phân chia theo phương pháp
này?
Xem thêm ở đây:
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=86
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=629
<strong>5/</strong> Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Năm
1958 ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng nước VNDCCH, đã viết
công hàm ủng hộ lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, trong đó
gián tiếp công nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Nhiều người cho rằng công hàm này không đề cập đến chủ
quyền HS và TS nhưng trên thực tế, chính tác giả của nó là
ông Phạm Văn Đồng, nhân một lần trả lời phỏng vấn báo
chí về một câu hỏi liên quan số phận HS và TS. Ông Đồng
xác định là <em>«vì thời chiến nên phải nói như vậy».
«Nói vậy»</em> tức là đã công nhận <em>«HS và TS»</em>
thuộc TQ.
Ở đây tạm không tranh cãi về hiệu lực pháp lý của văn
bản này mà chỉ nói đến hành động của ông Đồng, đến
trách nhiệm của ông này đồng thời trách nhiệm của ông Hồ
Chí Minh.
Ông Phạm Văn Đồng đã phạm tội <em>«phản bội tổ
quốc»</em>, tội cao nhất, vì đã công nhận chủ quyền của
ngoại bang trên phần đất của cha ông.
Ông Hồ Chí Minh liên đới chịu trách nhiệm với ông Đồng,
vì ông Đồng là một thành viên của chính phủ do ông Hồ bổ
nhiệm. Ông Đồng chỉ dám ký công hàm chỉ khi có sự đồng ý
của ông Hồ.
Bao giờ quốc hội VN đưa vấn đề này ra luận tội?
<strong>6/</strong> Về những vấn đề liên quan đến hai quần
đảo HS và TS:
Các lãnh đạo CSVN ở các thế hệ sau này cũng đã thừa nhận
HS và TS thuộc về TQ qua các mật ước đã ký kết giữa hai
đảng. Các tuyên bố giữa lãnh đạo hai nước Việt - Trung
luôn xác nhận phải <em>«nghiêm chỉnh tuân thủ nhận thức
chung liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước»</em>. Dĩ nhiên,
tinh thần của công hàm ông Phạm Văn Đồng là <em>«nhận
thức chung»</em> của lãnh đạo cấp cao. Hoặc HS và TS của VN,
hoặc HS và TS của TQ, không thể có một «nhận thức chung»
nào khác. Dựa vào cam kết này phía TQ đã cấm cửa không cho
ngư dân VN vào đánh cá nơi các ngư trường truyền thống mà
cha ông họ đã thả lưới ở đó.
Lãnh đạo nào chủ trương <em>«nghiêm chỉnh tuân thủ nhận
thức chung liên quan của lãnh đạo cấp cao hai nước»?</em>
Tại sao quốc hội Phi họ hủy bỏ được hiệp ước mà bà
Gloria Arroyo đã ký với TQ?
Tại sao Tối Cao pháp viện Thái hủy bỏ được hiệp ước ký
kết giữa hai nước Thái - Miên về Preah Vihear năm 2008?
Tại sao VN không làm được?
<strong>7/</strong> Về vấn đề 3 vùng biển: Lãnh đạo nào đã
thỏa thuận có ba vùng biển tranh chấp với Trung Quốc? Ba vùng
biển dĩ nhiên là ba vùng: vịnh Bắc Việt, vùng biển Hoàng Sa
và vùng biển Trường Sa. Chấp nhận như thế là VN đồng ý
sự hiện diện hợp lý của TQ ở ba vùng biển này. Ở trong
vịnh Bắc Việt hay vùng biển Hoàng Sa điều này có thể là
hợp lý.
Lý do nào mà TQ có mặt tại vùng biển TS? Các việc tàu thăm
dò của VN, cho dầu hoạt động trong vùng ZEE (kinh tế độc
quyền) của VN, nhưng vẫn bị phía TQ sách nhiễu, quấy rối,
là đến từ thỏa ước ngu xuẩn này.
Lãnh đạo nào của VN đã mở đường cho TQ xuống vùng biển
TS? Học giả VN nào ủng hộ chủ trương chia vùng biển TS cho
TQ? Đây cũng là một hành vi có thể qui vào tội <em>«phản
bội tổ quốc»</em>.
Trách nhiệm là ai?
<strong>8/</strong> Trong chuyến đi thăm TQ kỳ này (tháng 10 năm
2011) ông Nguyễn Phú Trọng được vài điểm son mà các vị
tiền nhiệm không làm được. Trước hết là việc xác định
ở điều 2 của Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa:
<em>«Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và
xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử,… đồng thời
chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây
dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng,
không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán.»</em>
Tranh đấu với phía TQ để họ phải chấp nhận đưa vào câu:
<em>«Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và
xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử,… »</em> là
một thắng lợi lớn của ông Trọng mà các thế hệ lãnh đạo
trước đã không làm được.
Có lẽ đây là công lao của các học giả <em>«làm khó nhà
nước»</em> cũng như thành quả của các cuộc biểu tình chống
TQ vừa qua tại Hà Nội (và Sài Gòn).
Tiếp đến là ông Trọng cũng đã <em>«khai thông đường dây
đỏ»</em> giữa lãnh đạo hai nước.
Điều này chứng tỏ <em>«đường dây đỏ»</em> (thiết lập
qua Tuyên bố 2005) đã bị gián đoạn (vì có gián đoạn nay ông
Trọng mới khai thông). Đây cũng là một điểm son cho ông về
ngoại giao.
Tuy vậy ông cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về tuyên
bố <em>«đồng ý nghiêm chỉnh tuân thủ nhận thức chung liên
quan của lãnh đạo cấp cao hai nước»</em> của vị lãnh đạo
tiền nhiệm nào đó, có ghi trong bản tuyên bố chung cũng như
bản Thỏa thuận.
Nhưng trách nhiệm lớn nhất của ông Trọng là đã chuyển giao
trách nhiệm của đảng CSVN lại cho nhà nước CHXHCNVN. Các
thỏa thuận từ trước đến nay về biển đảo giữa hai nước
Việt - Trung đều là việc nội bộ của hai đảng Cộng sản
thì nay đã được nhà nước CHXHCNVN chính thức ký nhận.
Quốc hội VN có chấp thuận việc này hay không? Hay chỉ là
một thứ bù nhìn như từ trước đến nay?
<strong>Kết luận</strong>: Dĩ nhiên, những việc làm hại dân
hại nước của đảng CSVN kể ra vô số, ở đây chỉ nói một
vài thí dụ điển hình. Ở các nước dân chủ, chỉ cần phạm
một trong các tội trên đây, vị lãnh đạo đó sẽ «thân bại
danh liệt». Ở Việt Nam thì có nhiều ngoại lệ, mà lãnh đạo
đứng ngoài, đứng trên pháp luật là ngoại lệ đặc sắc
nhất trên thế giới. Các vị tội nặng nhất đôi khi lại
được tôn vinh nhất, được các huy chương danh dự nhất. Trong
khi những người yêu nước, khi thể hiện lòng yêu nước của
mình (qua quyền được biểu tình) thì bị bắt bớ, đánh,
đạp... Đúng là pháp lý của một nền cộng hòa chuối!
<strong>Trương Nhân Tuấn</strong>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10292), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét