Đại Đoàn Kết - Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền
không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung công hàm ngày
14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng
cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức
phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản công hàm
đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng
như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của
bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích
xuyên tạc công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động
có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu
sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam.

<center><img
src="http://danluan.org/files/u1/sub01/8095fecde308d6edae8182673a4d659b7898cd13.jpg"
/></center>

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ
tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc
tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12
hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài
khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958,
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm
Văn Đồng gửi công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn
như sau:

"<em>Thưa đồng chí Tổng lý,</em>

<em>Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận
của Trung Quốc.</em>

<em>Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng
quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời
chào trân trọng</em>".

Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc
cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển
biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình
hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như
diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển
Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các
hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp
định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa
mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Từ đầu
thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn
lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý
đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch
sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc
mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù chưa
phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng
bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc
tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có
lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc
cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài
nguyên trên biển là một vấn đề Trung Quốc đã đặt ra. Trên
thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành
ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa của Việt Nam từ giữa thế kỷ XX đã nằm trong
chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở
rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa
Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển
Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào
các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này Mỹ đã
thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên
án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3-9-1954,
Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo
ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là
cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày
11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Âu Lai tuyên bố sẽ "giải
phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn
và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa
Kỳ đưa ra dự tính tấn công nguyên tử Trung Quốc, nhưng Tổng
thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như
liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958,
tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ
hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào
đảo Kim Môn. Theo Hiệp Định phòng thủ tương hỗ giữa Đài
Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa
Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài
Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung
Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt, Quỹ Nghiên
cứu Biển Đông, công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
ra đời trong bối cảnh quan hệ VNDCCH –Trung Quốc lúc đó
"vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt
Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung
Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân
giải phóng Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957, Trung Quốc chiếm
giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực
lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này
cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc
lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang
bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần
thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp,
việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài
Loan trong đó trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên
biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển
Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu
xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên
bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát
từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời
điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ
của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ, đơn
giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan
điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12
hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức
tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết
sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7
của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Trong tình thế đó, có thể xem đây chỉ là những tuyên bố
mang tính chính trị và ngoại giao chứ <span
class="underlined-text">hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý</span>.

Nội dung công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng
được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có
việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ
tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia
thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là
Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn
luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân
Việt Nam. Nhất là trong hoàn cảnh ra đời của công hàm như
đã nêu trên, công hàm 1958 có hai nội dung rất đơn giản và
rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc
Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ
VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn
lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong công hàm của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề
cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu
tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy,
chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại
giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng công hàm
1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng
khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung
Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và
hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.

Tại hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác
bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã
long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của
mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp
toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì
khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là
kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ
quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật
pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung
Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ
quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người
Việt Nam. Các điều khoản trong hiệp định cũng yêu cầu các
quốc gia tham dự hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc
lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam . Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung
Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4-9-1958 về cơ sở pháp lý
quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Hơn ai
hết, Thủ tướng Phạm Văn Đồng hiểu rất rõ điều đó khi
đưa ra công hàm 1958 nên đã không hề đề cập đến hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết,
bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền
quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời
điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ
VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền
tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành
những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được
cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc
tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên
bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ
quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi
phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã
thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách
minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH
trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung
Quốc khi đó đã không tiện nói thẳng ra mà chỉ đơn giản
khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới
hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội
dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh
thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không
được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận
sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã
liên tục hành xử chủ quyền lâu đời của người Việt Nam
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản
hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi
chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của
sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết
liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu
chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.

<div class="boxright300"><img
src="http://danluan.org/files/u1/sub01/ap_20110720094745671.jpg" width="350"
height="256" alt="ap_20110720094745671.jpg" /><div class="textholder">TT
Phạm Văn Đồng và Pierre Mendès-France tại Genève tháng
7-1954</div></div>

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ
một sự thật hiển nhiên là công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12
hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập
mờ, hòng đánh lận con đen trong tuyên bố của Chu Ân Lai liên
quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về
thực chất, công hàm 1958 chỉ là sự thể hiện một thái độ
chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn
lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ
của Trung Quốc mà thôi. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn
và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ
tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại
ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước
trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu
hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn
mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng trong công hàm 1958 có thể hiểu không
phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối
với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn
đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít
động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung công hàm ngày
14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn
cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy
giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ
bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt
Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Quốc hội nước Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận
DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là là Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ
bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Theo quy định của hiến pháp Việt Nam các thời kỳ
và cũng phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc về quyền
dân tộc tự quyết, theo đó tất cả các vấn đề liên quan
tới độc lập dân tộc, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia phải được cơ quan đại diện cho quyền lực cao
nhất của dân là Quốc Hội xem xét biểu quyết mới có giá
trị pháp lý. Cho nên, các nhà nghiên cứu cho rằng công hàm 1958
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xét về bối cảnh và trình
tự thủ tục ban hành, đơn giản chỉ là một văn thư ngoại
giao mang tính chính trị chứ không thể xem đó như là một công
hàm có giá trị pháp lý về tuyên bố chủ quyền lãnh thổ
quốc gia.

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc
đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh chấp đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các
quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan,
Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố
của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba
không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Nếu đặt giả
thuyết VNDCCH và CHXHCN Việt Nam là một thì dựa trên luật
quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực.
Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel" để
suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối
với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể
gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó
buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Mục đích chính của nó
ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì
những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại
cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều
kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một
người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và
phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại
"estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những
lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những
hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại
"estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên
bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia
kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều
bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải
được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản
án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine ", bản án
"Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua ",
bản án "Ngôi đền Preah Vihear",…

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời
tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3
đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã
không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào
lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh
được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời
tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có
những lời tuyên bố đó.

Lúc đó hai nước VNDCCH và Trung Quốc có mối quan hệ rất
đặc thù, những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng trong công hàm 1958 hoàn toàn nằm trong bối cảnh đặc
thù và hết sức khó khăn của cách mạng Việt Nam lúc bấy
giờ. Hơn nữa, theo luật pháp quốc tế, lời tuyên bố của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu là một lời
hứa đơn phương, một lời tuyên bố ý định sẽ làm một
việc gì. Thật vậy, công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đơn giản chỉ là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết
định của Trung Quốc trong việc ấn định lãnh hải của Trung
Quốc (tất nhiên phải hợp pháp theo các quy định của luật
pháp quốc tế đương thời), và một lời hứa sẽ ra lệnh cho
cơ quan công quyền của mình tôn trọng lãnh hải đó của Trung
Quốc.

Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa.
Tòa án Quốc tế đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng
buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự của một quốc gia
đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng
buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu
tố "ý chí", Tòa án Quốc tế xét tất cả những dữ kiện
xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu trong
bối cảnh, trong những điều kiện nào. Hơn nữa, nếu thấy
quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký thỏa
ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Tòa
sẽ kết luận là quốc gia phát biểu không thực tình có ý
muốn bị ràng buộc khi phát biểu lời tuyên bố đó. Vì vậy,
lời tuyên bố đó không có tính chất ràng buộc. Trong trường
hợp này, VNDCCH và Trung Quốc không hề ký kết bất kỳ một
hiệp ước nào có nội dung Việt Nam quyết định từ bỏ chủ
quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như thừa
nhận chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo này.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển
Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên
tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung
hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân
dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn
đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy
nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật
lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những
hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng
quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu
cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý
đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa
bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".

Nhóm PV Biển Đông

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9383), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét