Pierre Darriulat - Chiếc búa lớn hơn

<div class="boxright220"><img
src="http://danluan.org/files/u1/clip_image00136.jpg" width="250"
height="176" alt="clip_image00136.jpg" /><div class="textholder">Hơn 10 năm
nay, GS Pierre Darriulat sống ở Việt Nam và dành rất nhiều thời
gian cho các sinh viên</div></div>
<em>Ở Việt Nam, tôi được biết về các loại gỗ mới, cứng
như thép. Để đóng một cái đinh lên chúng, bạn cần phải
đập hết lần này đến lần khác mà vẫn khó nhận thấy sự
dịch chuyển. Mỗi nhát búa chỉ làm nó nhích vào thớ gỗ ít
hơn một milimet, và mỗi lần đập lại là một lần chiếc
đinh có nguy cơ bị quằn đi. Ở Việt Nam, tôi đã học được
ý nghĩa của cụm từ "dần dần từng bước một".</em>

Cách đây mười một năm, trước khi đến Việt Nam, tôi không
biết về gỗ lim. Tôi chỉ biết về bạch dương và vân sam.
Để đóng một cái đinh vào thân gỗ chắc như hai loại gỗ
này, bạn chỉ cần đặt đinh đúng vị trí, với một góc
thích hợp, giữ chặt nó giữa ngón cái và ngón trỏ và đóng
bằng một nhát búa duy nhất. Thật thú vị khi cảm nhận chiếc
đinh đâm thẳng vào thớ gỗ. Vô tình thay, nhát búa thứ hai
sẽ gắn chiếc đinh vào thớ gỗ mãi mãi. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, tôi lại được biết về các loại gỗ mới, cứng như
thép. Để đóng một cái đinh lên chúng, bạn cần phải đập
hết lần này đến lần khác mà vẫn khó nhận thấy sự dịch
chuyển. Mỗi nhát búa chỉ làm nó nhích vào thớ gỗ ít hơn
một milimet, và mỗi lần đập lại là một lần chiếc đinh có
nguy cơ bị quằn đi. Ở Việt Nam, tôi đã học được ý nghĩa
của cụm từ "dần dần từng bước một".

Cách đây vài năm, tôi có vinh dự rất lớn khi được gặp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sở dĩ có cuộc gặp này là do ông
đã nghe về những hoạt động của tôi nhằm thúc đẩy sự
phát triển giáo dục và đào tạo tại Việt Nam. Đó là một
cuộc gặp gỡ hết sức cảm động. <strong>Ông đã nắm tay tôi
và nói rằng đại học Việt Nam cần một cuộc cách mạng, anh
hãy tiếp tục đấu tranh. Tôi không bao giờ quên điều
đó</strong>[*]. Đấy là lý do tại sao tôi đồng ý viết thêm
vài dòng về đại học và nghiên cứu ở Việt Nam mặc dù tôi
tin rằng tất cả những điều cần phải nói đã được nói
và chúng đã được lặp đi lặp lại nhiều lần, và những gì
chúng ta cần bây giờ không phải là nói nữa mà là hành
động. Hy vọng thêm một nhát búa nữa sẽ không hại gì và
chiếc đinh sẽ không bị quằn.

Mới đây một nữ phóng viên trẻ của báo Tuổi trẻ đã
phỏng vấn tôi. Cô muốn gặp tôi vì nghe nói tôi có một số
ý tưởng về cải cách giáo dục ở Việt Nam. Tôi giải thích
với cô ấy rằng tôi không phải là người đưa ra ý tưởng
ban đầu, đó không phải là ý tưởng của riêng tôi mà bất
cứ ai có một chút kinh nghiệm với giáo dục đại học và
nghiên cứu cũng sẽ nói những điều tôi đã nói và đó là
những điều đã được nói đến nhiều năm nay bởi rất
nhiều người Việt có kinh nghiệm, có năng lực và hiểu biết
hơn tôi và rằng đã đến lúc phải lắng nghe họ. Không
người nào điếc hơn người không muốn nghe, không người nào
mù hơn người không muốn nhìn. Chúng ta cần một chiếc búa
lớn hơn.

Thật vậy, không khó để có thể xác định được những cái
cần phải thay đổi. Đó không phải là vấn đề về quan
điểm mà là vấn đề về lương tri và sự trung thực, vấn
đề về tính nghiêm ngặt của tri thức và đạo đức. Hãy
cùng xem lại những điểm chính mà Tướng Giáp và Giáo sư
Hoàng Tụy đã đề cập và diễn đạt những điểm đó một
cách ngắn gọn. Những gì họ nói có thể được tóm lược
lại thành bốn câu: chúng ta phải dừng việc nói một đằng,
làm một nẻo; chúng ta phải khôi phục lại phẩm giá cho giới
trí thức và học giả; chúng ta phải có kế hoạch rõ ràng cho
nghiên cứu và giáo dục cho tương lai; chúng ta phải chấm dứt
nạn chảy máu chất xám.

Nhiều gia đình Việt Nam đã tiêu tốn rất nhiều tiền của
để gửi con cái đi du học. Các trường đại học Việt Nam
hiện đang trở thành những phòng chờ cho các trường đại
học nước ngoài. Những khoản tiền như vậy đã có thể dùng
để đầu tư tốt hơn nhiều vào việc cải thiện chất lượng
các cơ sở đào tạo và nghiên cứu trong nước.

Chúng ta chưa nỗ lực trong việc khuyến khích các sinh viên
Việt Nam tài năng học tập ở nước ngoài quay trở về phục
vụ đất nước. Không nên chờ đến khi họ nhận được huy
chương Fields hay giải Nobel mới nhận ra tài năng của họ. Cần
phải nói cho họ biết trước khi đi học nước ngoài rằng
đất nước này cần họ và họ chính là tương lai của đất
nước. Những sinh viên đó phải được biết trước khi đi du
học về những kế hoạch, chính sách của Nhà nước được
soạn thảo liên quan tới lĩnh vực của họ, để họ biết họ
có thể trông đợi được những gì khi quay trở về. Chúng ta
nên theo dõi quá trình học tập và công tác của những sinh
viên đó trong thời gian ở nước ngoài, để họ không cảm
thấy bị đất nước bỏ rơi mà ngược lại đất nước quan
tâm đến họ. Khi trở về, họ cần nhận được sự trợ giúp
để xây dựng nên một đội ngũ xung quanh mình và sử dụng
hiệu quả nhất những kiến thức và kỹ năng mà họ đã tiếp
thu được ở nước ngoài.

Chúng ta cần có chính sách rõ ràng về các vấn đề giáo dục
đại học và nghiên cứu. Chính sách đó cần phải được phổ
biến rộng rãi, tới tất cả mọi người để có thể hành
động theo đường lối vạch ra. Ngày nay, hầu hết các sinh
viên giỏi đều theo học các ngành kinh tế. Kinh tế là khoa
học của việc tạo ra tiền bằng tiền. Chúng ta có chắc rằng
Việt Nam cần nhiều nhà kinh tế đến như vậy không? Phải
chăng chúng ta không cần tài năng của họ để phát triển các
lĩnh vực quan trọng khác hay sao? Điều này gợi cho tôi nhớ
lại một câu chuyện đã từng nghe. Chuyện xảy ra ở một
vương quốc châu Á nhỏ bé đã biến mất từ lâu. Các tầng
lớp quý tộc và triều đình sống trong cảnh giàu sang và cách
ứng xử của họ phát triển đến độ tinh tế, trong khi đó
những người nông dân sống trong cảnh nghèo khó và thiếu văn
hóa. Các quý tộc ăn cơm trên bàn làm bằng gỗ quý, dùng đũa
bạc, bát vàng, còn những người nông dân thì ngồi trên mặt
đất, đựng thức ăn trên lá chuối và ăn bốc. Sự bất bình
đẳng, với những bất công rõ ràng, làm nổ ra một cuộc cách
mạng, nhà vua và triều thần bị giết. Khi những người nông
dân lên nắm quyền, họ mong muốn con cái của mình có được
cuộc sống hạnh phúc mà họ đã bị tước đoạt; họ muốn
chúng học cách ứng xử cao sang của giới quý tộc; họ cho con
cái mình theo học các trường học mới nơi dạy cách ứng xử
như vậy. Họ đã rất thành công, thế hệ con cháu họ nhanh
chóng trở nên thông thạo những cách ứng xử tinh tế và phức
tạp; chúng biết chính xác phải cầm đũa, đặt trên bàn như
thế nào tùy vào tình huống. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, các
công dân của nước cộng hòa mới không còn biết thế nào là
trồng lúa, không thể nấu cơm và rồi tất cả đều nhanh
chóng chết đói trong một nạn đói khủng khiếp.

Người ta nói rằng đến năm 2020 Việt Nam sẽ đào tạo được
hai mươi ngàn Tiến sĩ mới. Tôi đã mất mười năm để đào
tạo ba Tiến sĩ. Thử hỏi, chúng ta tìm đâu ra được hơn năm
nghìn Giáo sư những người có thể dành thời gian hướng dẫn
và đào tạo một số lượng lớn nghiên cứu sinh như vậy?
Tuyên bố thực hiện mục tiêu đầy thử thách này cần phải
giải thích về cách thức để đạt được mục tiêu đó.
Tháng Mười hai năm ngoái, một sinh viên của tôi đã bảo vệ
luận án Tiến sĩ tại một trường đại học uy tín của Pháp.
Cô ấy đã xuất sắc, nhận được đánh giá cao từ hội
đồng chấm luận văn. Luận án đã được thực hiện theo bản
thỏa thuận ký kết trước đó giữa Việt Nam và Pháp: bản
thỏa thuận ghi rõ cách tiến hành thực hiện luận án để
công bằng cho cả hai nước, nghiên cứu sinh dành thời gian
thực hiện luận án ở cả Việt Nam và Pháp và sẽ nhận bằng
Tiến sĩ do cả hai nước cấp. Cô đã nhận được bằng của
Pháp từ lâu nhưng vẫn chưa nhận được bằng của Việt Nam
vì gặp phải khó khăn với những quy định lỗi thời có lẽ
đã được soạn thảo cho những năm năm mươi của thế kỷ
trước nên hoàn toàn bất hợp lý trong thế giới khoa học
hiện nay.

Một cách ngây thơ, tôi đã nghĩ rằng đáng lẽ đại học
Việt Nam phải rất vui mừng và tự hào khi có một luận án
Tiến sĩ thực hiện dưới dạng hợp tác đồng hướng dẫn
với một trong các trường đại học uy tín nhất châu Âu.
Nhưng không phải như vậy. Ông Hiệu trưởng của trường, một
người đầy hiểu biết mà tôi rất tôn trọng, đã làm hết
sức để giải quyết vấn đề, nhưng ngay cả ông, người
đứng đầu hệ thống phân cấp, cũng không thể thay đổi các
quy tắc đã trở nên hoàn toàn không phù hợp trong bối cảnh
hiện tại. Quy tắc được tạo ra để được tôn trọng khi
chúng có ý nghĩa và cần phải được thay đổi khi trở nên
lạc hậu. Nhưng ngay cả Hiệu trưởng cũng không có đủ thẩm
quyền để thay đổi quy định để làm cho chúng trở nên tốt
hơn. Vậy ai là người có khả năng? Làm sao chúng ta có thể hy
vọng có một trường đại học Việt Nam lọt vào top 200
trường đại học của thế giới vào năm 2020 như đã tuyên
bố trong khi chúng ta thậm chí không thể sửa đổi những
thiếu sót hiển nhiên như vậy?

Ngày nay, một sinh viên trẻ mới tốt nghiệp Đại học Kinh tế
Quốc dân thường tìm được công việc có lương cao hơn so
với một Giáo sư đại học. Phải có điều gì đó sai trái
trong việc này. Vấn đề không phải là với số tiền sinh viên
đó kiếm được, nó hoàn toàn xứng đáng, mà là với tiền
lương của Giáo sư đại học. Hậu quả của việc đó thật
là một thảm hoạ. Trước tiên, với các Giáo sư, điều đó
giống như một sự xem thường, giống như nói với họ rằng
đất nước không cần họ, không quan tâm về những gì họ
đang làm. Như thế làm sao chúng ta có thể hy vọng họ sẽ quan
tâm đến sinh viên của mình và tương lai của các em trong khi
chính họ bị đối xử một cách thiếu tôn trọng? Thứ hai,
với mức lương không đủ trang trải cuộc sống gia đình, họ
phải làm thêm công việc khác để có thể đủ sống. Làm sao
chúng ta có thể trông mong họ là những Giáo sư tốt hay có
thể làm tốt công việc nghiên cứu khi họ chỉ có thể dành
một phần thời gian để thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm
của mình? Tất nhiên, Chính phủ không có chiếc đũa thần để
có thể cho phép tăng lương một cách đột ngột, gấp năm lần
hoặc cỡ như thế, cho các cán bộ, viên chức hoạt động trong
lĩnh vực khoa học giáo dục và các công nhân viên chức ở
hoàn cảnh tương tự. Chính phủ cần xây dựng chi tiết việc
tái cơ cấu nhân lực và kế hoạch nghỉ hưu sớm, dành vị
trí cho các postdoc trẻ, tạo ra chứng chỉ mới (ví dụ
"habilitation" ở Pháp, là chứng chỉ cho phép hướng dẫn
nghiên cứu sinh, muốn xin làm Giáo sư thì phải có chứng chỉ
này) như ở nhiều nước để xác định tốt hơn những yêu
cầu đối với cán bộ làm việc trong lĩnh vực học thuật.

Một điểm nữa là về đạo đức. Bất cứ ai yêu khoa học
đều nhạy cảm với vấn đề đạo đức học thuật. Tính
chính xác của tri thức luôn gắn liền với sự nghiêm túc về
đạo đức. Trong khoa học, gian lận là tự sát. Sớm hay muộn,
gian lận sẽ bị phát hiện, hãy nhớ trường hợp của Lyssenko.
Gần đây, tại TP HCM, một Giáo sư đại học đã bị phát
hiện đạo văn: ông đã sao chép công trình của một người
khác và gửi cho một tạp chí khoa học danh tiếng và bài báo
được đăng. Sự gian lận nhanh chóng bị phát hiện. Như GS
Hoàng Tụy nói: "<em>Ở trường, chúng ta dạy con em mình sự
thẳng thắn và ngay thẳng; chúng ta, những người lớn, phải
là những tấm gương cho chúng</em>". Có quá nhiều tham nhũng,
gian lận, dối trá trong thế giới quanh ta, chúng ta phải đẩy
xa chúng ra khỏi các trường đại học. Chúng ta phải bỏ việc
cho điểm giữa 9 và 10 cho các học sinh kém, phải ngăn chặn
gian lận thi cử, phải khôi phục lại giá trị của các văn
bằng. Cho dù chúng ta thích hay không, hiện nay chúng ta đã trở
thành các công dân thế giới. Mạng Internet đã xóa bỏ các
đường biên giới, các nước không thể che giấu sự thật
với dân chúng của mình. Chúng ta nên tránh việc giảng dạy
những điều không đúng sự thật cho trẻ em và học sinh sinh
viên, họ không dễ gì bị che mắt và hậu quả sẽ làm cho họ
không tin chúng ta nữa ngay cả khi chúng ta dạy họ sự thật.

Đã đến lúc dừng lại. Những gì tôi muốn nói, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp và Giáo sư Hoàng Tụy đã nói hay hơn rất nhiều
trong các bài viết của họ. Vậy tại sao tôi cần nhắc lại
những điều đó? Chỉ có một điều hơi mang tính cá nhân mà
tôi muốn nói thêm. Mười một năm nay, tôi đã sống ở Việt
Nam và dành rất nhiều thời gian cho các sinh viên Việt Nam của
mình. Những điều tôi nói ra đều xuất phát từ trái tim, vì
tôi quan tâm tới họ, vì tôi mong muốn đất nước sẽ đem
lại cho họ tương lai mà họ xứng đáng có được. Tôi biết
rõ lịch sử gần đây của Việt Nam và nỗi đau mà đất
nước đã phải hứng chịu một cách phi lý trong rất nhiều
năm. Bất cứ ai biết điều đó đều không thể không yêu
đất nước này và mong muốn đất nước có được tương lai
tươi sáng hơn. Tôi biết sáu mươi năm qua đã có ảnh hưởng
lớn như thế nào đến ba thế hệ người Việt Nam, những vết
thương chiến tranh hằn sâu đến mức nào và khoảng cách giữa
các thế hệ rộng chừng nào. Những hiểu biết đó chỉ có
thể đem đến cho tôi cảm giác khiêm nhường và tôn trọng, và
nó đã ngăn tôi đưa ra những phán xét và chỉ trích. Nhưng tôi
tin chắc rằng đã đến lúc chúng ta phải hành động, phải
tạo cơ hội cho thế hệ trẻ tham gia nhiệt tình vào thời kỳ
phục hưng trí tuệ của đất nước bằng cách thúc đẩy mạnh
mẽ giáo dục đại học và nghiên cứu. Thế hệ trẻ không
trải qua sự áp bức thuộc địa, họ không trải qua các cuộc
chiến tranh, họ không biết đến những năm tháng khó khăn sau
chiến tranh, họ là những người con của Đổi Mới. Chiếc búa
lớn hơn mà Việt Nam cần đang ở trong tay họ. Chúng ta đừng
bỏ lỡ cơ hội này và chúng ta hãy làm hết khả năng để
động viên, giúp đỡ và hỗ trợ thế hệ trẻ.

P.D.

(*) Những chỗ in đậm là do Tia sáng nhấn mạnh

Theo Kỷ yếu Humboldt 2010, NXB Tri thức, Hà Nội 2011

Nguồn: <a
href="http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&News=3950&CategoryID=6">Tia
Sáng</a>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8486), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét