thân yêu</em>" - NTL
… Khi những cánh cổng sắt nặng nề của dinh Độc Lập bị
các chiến xa và xe tăng Quân Giải Phóng húc đổ vào trưa 30 –
4 – 1975, thì trong một căn phòng nhỏ ở đường Yết Kiêu Hà
Nội, có một người đàn ông gương mặt u uẩn, tóc trắng xoá
xoã vai đang trầm ngâm bên chén rượu và cây đàn piano, ngay
lúc đó, trong tay ông cây đàn đã rung lên những hợp âm làm
xao xuyến lòng người:
<em>"Từ nay người biết yêu người,
Từ nay người biết thương người".</em>
Người đàn ông đó là nghệ sĩ đa tài Văn Cao và những ca
từ, hợp âm trên cũng là tiết tấu chính, cảm hứng chủ
đạo cho ca khúc tràn đầy tính nhân bản "Mùa Xuân Đầu
Tiên", cũng là ca khúc cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác văn
– thơ – nhạc – hoạ đầy trắc trở của ông.
<center>* * *</center>
Tôi nghĩ rằng đã là người Việt Nam, dù là người chiến
thắng hay là kẻ chiến bại, dù ở đâu trên mặt đất này
thì ai ai vào ngày tháng đó cũng thở phào và không ít thì
nhiều đều có chung cảm hứng yêu thương nhau như vậy. Nhưng
những gì đã diễn ra sau mốc lịch sử đó lại không hoàn
toàn như vậy, đến nỗi hơn mười năm sau (1987), ngày ông
Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, nhà văn NHT
một lần phải thốt lên: "<em>Vinh quang nào mà chẳng xây trên
những nỗi điếm nhục!</em>". Tôi không biết tâm trạng của
anh NHT lúc đó như thế nào mà lại phải thốt lên lời dữ
dội như vậy.
Thế hệ chúng tôi và anh NHT sinh ra và lớn lên cùng với sự
ra đời của nhà nước "<em>Việt Nam Dân chủ Cộng hoà –
Độc lập Tự do Hạnh phúc</em>". Tuổi ấu thơ chúng tôi trôi
đi cùng với những cuồng nộ của một thế thái nhân tình
rất xa lạ với những phẩm chất truyền thống của một dân
tộc bản chất là hiền hoà. Kí ức đầu đời của thế hệ
chúng tôi chưa thể nhạt nhoà về những gì đã đến sau những
phát triển quái gở của chủ thuyết "<em>Đấu tranh giai
cấp</em>", về con đường chuyên chính vô sản, về bạo lực
cách mạng mà những người cộng sản đã du nhập vào đất
nước chúng tôi. Vẫn còn nguyên đó những câu hỏi đầy ám
ảnh:
<ul><li>Tại sao lại phải "Đào tận gốc, trốc tận rễ"
đám Trí – Phú – Địa – Hào… rồi bây giờ lại gọi đó
mới chính là nguyên khí của đất nước!</li>
<li>Tại sao sau CCRĐ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải thay mặt
Đảng thanh minh trước quốc dân đồng bào rằng: Một Đảng
biết nhận ra khuyết điểm của mình, Đảng đó còn có thể
tiến bộ, rồi ông lặng lẽ rút khăn tay lau nước mắt. (!?).
</li>
<li>Tại sao lại phải cải tạo thực ra là đánh sập công
thương nghiệp tư bản tư doanh tới 2 lần (Miền Bắc sau năm
1954 – Miền Nam sau 30/4/1975). Sau 1986 đến nay lại phải làm
lại gần như từ đầu. </li>
<li>Tại sao lại phải mở ra các "Pháp trường trắng"
trong vụ đàn áp nhân văn giai phẩm và xét lại chống Đảng.
Pháp trường trắng là: "Nơi không có đầu rơi, không có máu
chảy, nhưng có người chết" – (Nguyễn Tuân). Thời gian và
năm tháng đã trôi qua đã đủ để minh oan cho những con người
tài hoa, dũng cảm và trung thực đó. Đến nay trên thực tế
không ít người trong họ đã được vinh danh trở lại thì hỡi
ôi người còn, người mất, người đang sống nhưng phải sống
đời sống thực vật, cỏ cây, người tha hương biệt xứ mãi
mãi ôm theo những kí ức đầy ám ảnh nặng nề, tại sao lại
phải làm như thế?</li></ul>
Hôm nay, lại một ngày kỷ niệm 30/4 nữa đến với đất
nước chúng ta, dân tộc chúng ta. Cái ngày lịch sử mà cựu
Thủ tướng, cựu Uỷ viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản
Việt Nam Võ Văn Kiệt đã từng ngậm ngùi mà nói: "<em>Có
triệu người vui! Cũng có triệu người buồn!</em>". Không
biết có phải vì đây là tiếng nói của một lãnh tụ cao cấp
mà có tình trạng người vui thì gọi ngày 30 – 4 là ngày
"Quốc Khánh", còn người buồn thì gọi ngày này là ngày
"Quốc Hận!", xin được phép hỏi:
Tại sao sau ngày 30/4/1975 ngày con Lạc ở miền Bắc chiến
thắng cháu Hồng ở miền Nam, người chiến thắng không thực
lòng hoà hợp, hoà giải mà lại tạo ra những thương tổn
không đáng có trong lòng những kẻ bại trận. Những ngày tháng
tù đầy, cải tạo và phân biệt đối xử với quân nhân, viên
chức chính quyền cũ và vợ con gia đình họ đến nay vẫn là
những kí ức đầy hãi hùng. Vì những hãi hùng này mà ngày
đó hàng triệu người con đất Việt phải liều thân bỏ xứ
ra đi, mong kiếm tìm một vận hội mới. Người chiến thắng
không chỉ làm ngơ mà còn không hiếm những kẻ trục lợi dựa
trên cuộc tháo chạy kinh hoàng diễn ra trong nhiều năm đã làm
biết bao gia đình tan nát, bao nhiêu người phải chết trong
tuyệt vọng, phải khuynh gia bại sản, phải nhơ nhuốc vì hải
tặc, phải hoài thân trong bụng cá, phải bỏ xác trên đảo
hoang. Người sống sót không mấy ai tránh khỏi những sang chấn
tinh thần không dễ bình phục.
Sau nhiều năm tha hương biệt xứ, nay người thành đạt,
người không thành đạt, nhưng mỗi khi nhớ về quê hương, xứ
xở bên cạnh những bồi hồi là nỗi ngậm ngùi: "<em>Tổ
Quốc! Một dĩ vãng cần phải quên đi</em>". Đến nay đã có
nhiều nhân vật nổi tiếng của chế độ VNCH… quyết định
tìm về cố quốc với nhiều lý do, nhưng thực ra chỉ để
được gửi nắm xương tàn, đã phải nhắm mắt bước qua
những thị phi của người trong nước, phải bịt tai trước
những la ó, của nhiều tha nhân cùng cảnh ngộ. Đặc biệt
trong đoàn người ra đi năm đó, đến nay vẫn có quá nhiều
người dường như vẫn chưa ra khỏi những ám ảnh của hận
thù, thậm chí nhiều người vẫn thề không đội trời chung,
không đứng cùng đất với cộng sản, đó chính là nguyên nhân
làm nổ ra những cuộc biểu tình phản đối các vị nguyên
thủ hôm nay của Việt Nam khi họ xuất ngoại, đặc biệt khi
họ công cán qua những nơi có đông người đồng bào của mình
ở & thực tế đã cho hay, cũng chẳng có gì là vui vẻ dành cho
các nguyên thủ cũ, các nhân vật nổi tiếng của VNCH khi họ
trở về Việt Nam. Sự dè bỉu đến với họ không chỉ đến
từ những người Quốc Gia đang ở hải ngoại, mà còn đến
từ chính những người dân trong nước. Nhiều người trong
nước đã có một thái độ hợp lý đối với họ, nhưng đâu
có phải người trong nước nào cũng vui vẻ với họ. Cho đến
lúc này, không chỉ ở những hãng thông tấn vỉa hè, tôi
chứng kiến quá nhiều người Việt Nam ở trong nước vẫn còn
vô tư ngộ nhận rằng năm 1972 chính ông Nguyễn Cao Kỳ đã
chỉ huy chiến dịch giải cứu tù binh Mỹ bị giam giữ ở quê
hương Sơn Tây của ông ! Hãy nghe mấy ông Nhạc Sĩ Nhân Dân,
đỏ ngực là huân chương, huy chương là giải thưởng nhà
nước... lườm nguýt, chê bai, dè bỉu những gì về ông Phạm
Duy ngay trên những trang báo lề phải.
Sau hơn 36 năm, với những gì mà chúng ta quan sát được cho
thấy, ngày 30/4 đâu có hoàn toàn chỉ là biểu tượng của sự
toàn bích. Bên cạnh những giá trị tự thân, ngày đó cũng làm
xuất hiện những chia rẽ mới rất đáng tiếc đối với
nhiều thế hệ người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước
như điều mà ông Võ Văn Kiệt đã nói: "<em>Triệu người vui
– Triệu người buồn</em>".
Tôi tin rằng đến nay nếu phải nhắc lại cuộc chiến tranh
đó, nghĩ lại những gì đã xẩy ra trong ngày 30 / 4 / 1975,
người Mỹ chỉ coi đó là một kỷ niệm buồn cùng với những
toan tính thành công và cả không thành công của họ. Điều
gọi là "<em>Hội chứng Việt Nam vẫn còn là bóng ma ám ảnh
nước Mỹ</em>" chỉ là sản phẩm của tưởng tượng.
Chưa người Việt Nam nào đã quên Tuyên Bố Thượng Hải ngày
28 /2 /1972. Đó là cuộc mặc cả trên lưng người Việt Nam ở
cả 2 miền của Hoa Thịnh Đốn và Trung Nam Hải, là cú "Đi
Đêm" đầy tai tiếng giữa Nixon và Mao. Đặc biệt là sau khi
Hội Nghị Ba Lê được các bên ký kết, Mỹ chính thức bước
ra khỏi cuộc chiến, bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà, Mỹ không chỉ
có lỗi với đồng minh chiến lược của mình, Mỹ có lỗi
với cả dân tộc Việt Nam khi dửng dưng, ngoảnh mặt đi để
Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa phần lãnh thổ thiêng liêng
của Việt Nam (1974) và từ đó cho tới ngày 30 / 4 / 1975 trong
tiếng gầm thét của cỗ máy chiến tranh trong tay người Việt
Nam, chỉ có người Việt Nam chúng tôi ở 2 bên là ngã xuống
trong cuộc lao vào nhau, chém giết nhau, thanh toán nhau chí mạng
chứ đâu có người Mỹ.
Để khai thông được con đường vào Hoa Lục, ngay từ ngày
đó, người Mỹ đã tạo ra một tư thế Địa Lý Chính Trị
rất bất lợi cho dân tộc chúng tôi khi chúng tôi phải tồn
tại bên cạnh "Anh chàng khổng lồ" đầy tham vọng Trung
Quốc đã tay trong tay với Hoa Kỳ lúc mà Liên Xô đồng minh
chiến lược của Việt Nam đã quá già yếu.
Hình ảnh một Đặng Tiểu Bình, 10 h sáng 29/1/1979 tại thảm
cỏ trước Nhà Trắng, xúng xính trong bộ đồ của một cao
bồi miền viễn tây nước Mỹ và những gì mà ông ấy đã nói
ở đó về "Mèo Trắng – Mèo Đen", về kế hoạch sẽ dậy
cho bọn tiểu bá côn đồ Việt Nam một bài học đã là quá
đủ để nói: Người Mỹ đâu có trắng tay sau cuộc chiến ở
Việt Nam. Nếu sau ngày 30 / 4 / 1975 người Mỹ không dang tay đón
nhận làn sóng Thuyền Nhân Việt Nam bỏ xứ ra đi…thì hình
ảnh Hiệp Sĩ Nhân Quyền Hoa Kỳ chắc chắn sẽ hoen ố, sẽ
chẳng ra gì trong con mắt của người Việt Nam.
Về một phương diện khác, tôi nghĩ: nếu người chiến thắng
vẫn cứ giữ mãi nỗi hoan hỉ ngày 30 / 4 là ngày đánh dấu
sự kiện "Đánh cho Mỹ cút – Đánh cho nguỵ nhào", chúng ta
cũng sẽ rất khó giải thích những chuyển động chính trị
trong xã hội Việt Nam những ngày gần đây.
Về mối quan hệ hôm nay giữa Mỹ và Việt Nam, bên cạnh xu
thế nồng ấm thì lại mới có một sự cố thật khó hiểu.
Chỉ vì đến thăm Linh Mục Nguyễn Văn Lý mà ngài tùy viên
chính trị sứ quán Hoa Kỳ bị mấy ông an ninh Huế cho "Lên
bờ xuống ruộng" mà sau đó Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng chỉ
khiêm nhường bầy tỏ "Sự quan ngại...", dường như người
Mỹ thời Obama không mặn mà với quyền con người cơ bản thì
phải! Người Mỹ đang toan tính gì? Ban lãnh đạo Việt Nam đã
gửi đi thông điệp gì từ vụ ra tay này? Không biết dân tộc
chúng tôi sẽ đi về đâu trong tư thế Địa Lý - Chính Trị
mới với sự xưng hùng xưng bá ngày càng công khai của Trung
Quốc, sự lùi bước đã đến giới hạn cuối cùng của ban
lãnh đạo Việt Nam trước Thiên Triều, sự ngày càng xa rời
những mục tiêu dân chủ của nước Nga đồng minh cũ của
Việt Nam, sự suy yếu trông thấy của siêu cường Nhật Bản,
sự vùng lên của Bắc Phi và Trung Đông, cùng với sự hiện
diện ngày càng sâu của sức mạnh Hoa Kỳ trên Biển Đông và
Đông Nam Á. Đây là câu hỏi bỏ ngỏ xin dành cho tất cả mọi
người Việt Nam còn quan tâm tới thời cuộc.
Chúng ta vẫn thường tự tôn về truyền thống văn hiến hơn
4000 năm dựng nước và giữ nước, trong khi đó nước Mỹ chỉ
mới lập quốc hơn 230 năm, nhưng sau chiến tranh Nam – Bắc Mỹ
(1862 – 1865), giữa bên chiến thắng và bên chiến bại … họ
đã có cách hành xử hòan toàn khác chúng ta là: <em>Lấy sự
hoà hợp thay cho oán thù</em>.
Sau ngày 30/4/1975, không làm như người Mỹ, chúng ta cũng chẳng
làm như tổ tiên chúng ta đã làm trong những tình huống tương
tự. Những gì đã diễn ra sau thời điểm đó được hiểu như
một cuộc tính sổ không cần thiết giữa kẻ thắng và kẻ
bại trận. Nhiều người thuộc thế hệ tôi đã từng đặt ra
một hoán vị giả định:
Sau hiệp nghị Giơnevơ 1954, phía Bắc vĩ tuyến 17 sẽ là những
người dân miền Nam họ sẽ sống với Đảng cộng sản. Đảng
sẽ dúi vào tay họ khẩu AK47 được sản xuất từ Liên Xô. Nam
vĩ tuyến 17 sẽ là những người dân của miền Bắc. Họ sẽ
sống với những người quốc gia. Trong tay họ là những khẩu
AR15 được sản xuất ở Hoa Kỳ hay ở Tenavip. Điều gì sẽ
xảy ra đây? Lịch sử sẽ phải viết khác đi chăng? Tôi nghĩ
rằng không thể. Người miền Nam mà sống ở miền Bắc cũng
sẽ biết thế nào là đấu tố trong cải cách ruộng đất,
thế nào là:
<em>"Mang bục công an đặt giữa trái tim người,
Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà
nước"</em>
(Lê Đạt)
sẽ phải thắt lưng buộc bụng, phải làm viêc bằng 2 để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vẫn phải dốc sức để "Đánh cho
Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào" như lời kêu gọi của ông Hồ
Chí Minh. Người miền Bắc sống ở miền Nam cũng làm sao mà
tránh khỏi những ngày quân trường Thủ Đức, có học hành
chút ít như trang lứa chúng tôi tránh sao khỏi những ngày võ
bị Đà Lạt! Rồi tất cả cũng phải dốc sức để "Bắc
Tiến", để "Lấp sông Bến Hải!", dốc sức để "Kéo
dài biên giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17" như lời kêu gọi
của ông Ngô Đình Diệm, phải tiếp thụ những huấn thị:
"Đừng nghe những gì cộng sản nói – Hãy nhìn xem những gì
cộng sản làm" của ông Nguyễn Văn Thiệu, phải cầm phấn
viết tên mình lên những trái bom sẽ ném xuống đầu người
dân Miền Bắc như những gì mà ông Nguyễn Cao Kỳ đã từng
phải làm lần ông ra sân bay Đà Nẵng.Và nếu như lịch sử
lại có một kết cục ngược lại, ngày 30 /4 / 1975 lại kết
thúc chiến tranh ở Hà Nội! thì liệu người dân Miền Bắc có
thoát được những cuộc tập trung cải tạo để tẩy não như
ngày nào ông Diệm "Tố Cộng", lê máy chém đi lấy đầu
cộng sản theo Luật 10/ 59! Vậy là bi kịch vẫn đến với dân
tộc chúng ta như một thứ tiền định.
Thế thì không chỉ người dân mà những kẻ buộc phải cầm
súng ở cả hai bên xét cho cùng đều là những quân cờ vô
tội trên bàn cờ xung đột ý thức hệ do những triết thuyết
ngoại lai chi phối. Hoàn toàn đúng như những gì mà nhà thơ
Nguyễn Duy đã viết trong bài thơ "Tổ quốc nhìn từ xa":
<em>"Xét cho cùng với mọi cuộc chiến tranh
Một bên thắng còn nhân dân đều bại!"</em>
Nếu các "Đấng chăn dân" ở cả hai bên cùng nghĩ được
như thế, thảm kịch đã không xảy ra. Kho tàng tiếng Việt đã
không phải xuất hiện những cụm từ quá biểu cảm "Thuyền
nhân" (Boat People để chỉ những người bỏ quê hương ra đi
bằng thuyền). Sau này là cụm từ "Dân oan" (Chỉ những
người dân gặp phải oan ức trong đời sống Việt Nam đương
đại). Vào những tháng năm ly loạn đó, không một ai nghĩ
rằng lại đến lúc những kẻ: "Macô, đĩ điếm, lười lao
động đáng nguyền rủa" lại được Đảng ta "Trìu mến"
gọi là "Khúc ruột ngàn dặm!"… Không mấy ai nghĩ được
lại có lúc nhiều tỉ USD hàng năm đã lăn ngược những con
đường đầm đìa nước mắt của những thuyền nhân bỏ xứ
lăn tìm trở về tiếp máu cho đất nước đang ngày càng tụt
hậu với khu vực và quốc tế, đang loay hoay kiếm tìm "Chiếc
Lá Diêu Bông" xã hội chủ nghĩa!. Điều này là một bất
ngờ là một trớ trêu của lịch sử dân tộc. Nhưng lần này
có thể nói đó là một trớ trêu có hậu.
Hôm nay, Đảng đã hạ mình nhận anh, nhận em với những
người bỏ xứ. Ngay từ Xuân Mậu Tý, ông Nguyễn Minh Triết -
Chủ Tịch nước, ông Phạm Thế Duyệt nguyên UVBCTĐCSVN, nguyên
Chủ Tịch MTTQVN, ông Nguyễn Cao Kỳ - Nguyên Phó Tổng Thống,
Nguyên Thủ Tướng VNCH, ông Đỗ Mậu – Nguyên Tổng Thanh Tra
quân lực VNCH, ông Phạm Duy – Nguyên cán bộ văn hoá kháng
chiến của chiến khu Việt Bắc, một trong ba nhạc sĩ nổi
tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc Việt Nam đương đại (
Phạm Duy – Văn Cao – Trịnh Công Sơn) đã hoà hợp dân tộc
ở mức tay trong tay mà ánh mắt nhìn nhau chưa hết bẽ bàng!
Vào thời điểm tôi đang viết những dòng chữ này, các Fan hâm
mộ các ca sĩ hải ngoại của cư dân nơi tôi ở đang vô cùng
háo hức đón chờ thế hệ hậu duệ của những tài danh Chế
Linh (Chế Phong), người hùng Biệt Động Quân Duy Khánh với quý
tử Chế Phi cùng với những siêu sao cỡ Thanh Tuyền, Tuấn Vũ,
Elvis Phương, Trường Vũ, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên… đã "Nối
vòng tay lớn" điều mà cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã ao
ước ngay từ buổi trưa 30/ 4 của 36 năm về trước! Sao lại
phải muộn màng đến như vậy! Đây thực sự là hoà hợp hay
chỉ là một thứ chính trị thớ lợ!?... Hay đây là một dẫn
chứng sinh động cho điều mà ông Võ Văn Kiệt đã từng nói:
"Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ Quốc Việt
Nam không của riêng một ai, một Đảng, một phe phái, hay một
tôn giáo nào". Những cuộc "Nối vòng tay lớn" tương tự
đã, đang và có thể sẽ còn diễn ra dồn dập hơn nữa, liệu
quá trình đó có làm lu mờ đi vừng hào quang của chiến thắng
30/4/1975?
Câu trả lời đã quá rõ: Chúng ta đã "Dắt tay nhau đi
dưới những tấm biển chỉ đường của… (không) trí tuệ"
( Hà Sĩ Phu) và cái giá của cuộc tương tàn để có một xã
hội như thế này…thật là thê thảm & vô nghĩa. Tôi nghĩ,
nếu được làm lại thì những người Việt Nam yêu nước,
thương nòi, có văn hoá, có nhân cách, có lòng tự trọng… sẽ
hành xử khác những gì mà những người chiến thắng đã làm
sau ngày 30 – 4 – 1975.
Thử hỏi trong lịch sử dân tộc, có giai đoạn nào, có thời
kỳ nào và vì ai mà nội lực dân tộc bị huỷ hoại, suy yếu
vì chia rẽ, vì ngờ vực lẫn nhau lại dai dẳng, bi thương,
sâu sắc & nghiêm trọng đến như vậy! Tương lai của dân tộc
rồi sẽ ra sao? Ai là người có lỗi trước tiền nhân ? Ai sẽ
phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?
Thế mới biết: Con đường để Việt Nam đi đến dân chủ là
không hề đơn giản như tên gọi của các loài hoa. Ngày mà
người Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước có được
một tiếng nói chung, một lộ trình chung, một đề án chung
để Tổ Quốc Việt Nam hiện diện trong thế giới nhốn nháo
này ở tư thế ngửng cao đầu, xứng tầm với những gì mà
dân tộc lẽ ra phải được khẳng định từ lâu rồi, những
gì mà Văn Cao ao ước:
"Từ nay người biết yêu người,
Từ nay người biết thương người".
có lẽ vẫn còn xa vời lắm và lại như một định mệnh, với
"BỮA TIỆC DÂN CHỦ" của nhân loại, chúng ta sẽ vẫn chỉ
"MÃI MÃI LÀ NGƯỜI ĐẾN SAU".
Lời cuối : Khi giao tiếp với cuộc đời, tôi đã phải nhân
danh rất nhiều tư cách. Khi tôi chống tiêu cực trong giáo dục,
khi tôi bênh vực những người là dân oan, khi tôi cầm lá
phiếu đi bầu, khi tôi tự ứng cử Quốc Hội 12, khi tôi
"Sống, làm việc theo Hiến Pháp và Pháp Luật", khi tôi thực
thi những gì trong các Tuyên Ngôn – Công Ước quốc tế mà
chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện, khi tôi thực thi
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được phản
biện và bảo lưu chính kiến của mình… đấy là tôi sống
với tư cách một "Con Người Chính Trị", "Con Người Công
Dân". Khi tôi phải gồng mình lên trước những nghịch cảnh
đến từ thiên nhiên , đến từ chính đồng loại của mình
theo kiểu "Con giun xéo lắm cũng quằn", hoặc khi tôi đi theo
tiếng hú gọi từ "Nơi Hoang Dã"… ấy là tôi đã sống
trong tư cách của "Con Người Bản Năng – Con Người Sinh
Học" và dù phải hiện diện trong trong tư cách nào thì tất
cả phải chung một mẫu số CHÂN – THIỆN – MỸ. Để viết
bài này, tôi đơn giản chỉ nhân danh là "Con Người Chính
Trị", "Con Người Công Dân" khi bầy tỏ những hoài niệm
của tôi về ngày 30 / 4 / 1975, mốc thời gian đã đi vào lịch
sử của dân tộc với biết bao hệ luỵ chi phối tới đời
sống tinh thần của toàn thể cộng đồng.
Có thể lắm, khi đọc bài viết này, sẽ có người lên án
tôi, bóc mẽ tôi chỉ vì tôi không suy nghĩ như họ. Xin mời!
Tôi chủ trương không đối lời, không tranh biện. Tôi
"không…" không phải là tôi không dám…tất cả cũng chỉ
vì tôi là một tín đồ của ĐA NGUYÊN, là tín đồ của đa
nguyên, tôi chấp nhận mọi ý kiến đối lập.
Nhân đây tôi có lời minh định về việc có một số trang báo
khi khai thác bài "Cách Mạng đâu có đơn giản chỉ là hiệu
ứng của đám đông" của tôi, đã có sự biên tập không
chính xác so với văn bản gốc. Cụ thể, tôi viết: "Với tư
cách là một con người chính trị…", đã được biên tập
lại thành: " Với tư cách là một người hoạt động chính
trị…". Việc xuất hiện động từ "Hoạt Động" trong
cụm từ "một người hoạt động chính trị" đã gây ra
những ngộ nhận không đúng về tôi.
Những sai lạc này là đáng tiếc, rất cần được nhìn nhận
và rút kinh nghiệm./.
(Hết phần I)
Thành phố Hà Đông những ngày đầu tháng 4 năm 2011.
Nhà Báo: NGUYỄN THƯỢNG LONG
Email: nguyenthuonglong571@gmail.com
Đón đọc phần 2: "Thành Tâm & Hệ Luỵ"
<center><img src="http://danluan.org/files/u1/sub01/image002_2.jpg"
width="395" height="333" alt="image002_2.jpg" /></center>
<center><em>Nguyên Phó Tổng Thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ và Chủ
Tịch CHXHCN Việt Nam Nguyễn Minh Triết đang tay trong
tay.</em></center>
<center><img src="http://danluan.org/files/u1/sub01/image004_2.jpg"
width="335" height="353" alt="image004_2.jpg" /></center>
<center><em>Nhạc Sĩ Phạm Duy với Sổ Hộ Khẩu và Chứng Minh
Thư nhân dân.</em></center>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8582), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét