Dự án đập thuỷ điện Xayaburi nằm cách thị trấn Xayabouri
chừng 30km thuộc phía Bắc Lào, bắc ngang qua sông Mekong, có
chiều dài chừng 800m, cao 32m, công suất sản xuất dự trù là
1,260 Megawatts. Chính phủ Lào đã ký hợp đồng phát triển dự
án này với một công ty Thái tên là Ch. Karnchang Public Company
vào hồi tháng Năm, năm 2007, với chi phí dự trù là 3.5 tỉ
dollars. Tiếp sau đó đã có những thoả thuận giữa chính phủ
Lào và đại diện phía Thái Lan là công ty Electricity Generating
Authority of Thailand (EGAT) trong năm 2010, theo đó EGAT sẽ mua 1,220
Megawatts điện, khoảng 95%, khi đập thuỷ điện đi vào hoạt
động với giá là 2.159 Baht/kilowatt-giờ (1 Baht=0.0334dollar). Một
đường chuyển tải điện dài 200km sẽ chuyển lượng điện
đó từ Lào qua vùng Đông Bắc Thái.
<div class="special_quote"><strong>Tin liên quan:</strong>
<ul>
<li><a href="http://danluan.org/node/8584">Mạnh Kim - Từ vụ Xayaburi,
nhìn lại số phận Mê Kông</a></li>
<li><a href="http://danluan.org/node/8575">Mạnh Kim - Tại sao đập
Xayaburi phải được ngưng vĩnh viễn?</a></li>
</ul></div>
Trước đó, vào năm 1995, các quốc gia Việt Nam, Lào, Cambodia và
Thái Lan đã thành lập Uỷ Ban Sông Mekong (MRC) và cùng nhau ký
Mekong Agreement quy định rằng các quốc gia này sẽ thông báo,
tham khảo, và có sự đồng ý với nhau trong các dự án liên
quan đến sông Mekong. Theo thỏa thuận chung đó thì một thủ
tục có tên là PNPCA(Procedure for Notification and Prior Consultation
and Agreement) được áp dụng nhằm có được sự đồng thuận
của cả 4 quốc gia đối với bất kỳ một dự án nào liên
quan đến sông Mekong. Ý nghĩa của thủ tục PNPCA là bảo đảm
mọi dân cư và quốc gia của vùng hạ lưu sông Mekong đều
phải được thông báo, tham khảo đầy đủ về mọi dự án hay
công trình đối với dòng chính của con sông. Dự án đập
Xayaburi là một trong 12 dự án, trong đó có 10 của Lào và 2
của Cambodia, lần đầu được áp dụng thủ tục PNPCA, và vì
vậy mọi kết quả xảy ra sẽ trở thành tiền lệ cho các dự
án khác về sau này. Vắn tắt thì việc xây dựng đập Xayaburi,
trước mắt, sẽ có những hậu quả sau:
<strong>HẬU QUẢ THUỶ SẢN VÀ NGƯ NGHIỆP</strong>: Theo cảnh báo
của các chuyên gia quốc tế thì đập thuỷ điện Xayabouri sẽ
gây ra nhiều thay đổi hệ sinh thái trong vùng hạ lưu. Nhiều
loại cá và thủy sản, quan trọng đối với đời sống của
cư dân trong vùng, sẽ dần dần biến mất do quá trình di
chuyển tự nhiên theo mùa của chúng bị Đập chận đứng.
Nhiều loại tảo quý, cần thiết cho các thuỷ sinh vật ở vùng
hạ lưu của Đập, sẽ dần dần biến mất. Sinh suất của
nhiều thuỷ sản khác, do vậy, cũng sẽ giảm đi đáng kể, và
điều này sẻ ảnh hưởng trực tiếp đến ngư dân trong toàn
khu vực hạ lưu. Theo ước tính của Viện Chính sách An Sinh và
Phát triển (Institute for Security and Development Policy) thì thiệt
hại do Đập gây ra đối với lãnh vực ngư nghiệp có thể lên
đến 476 triệu dollars/năm, và cũng chừng đó đối với nông
nghiệp. Cơ quan The Worldwide Fund for Nature đã cảnh cáo rằng
việc xây dựng Đập có thể dẩn đến nguy cơ tuyệt giống
của 41 loài cá trên sông Mékong. Một chuyên gia Việt Nam , ông
Nguyễn Hữu Thiện, cũng dự tính rằng nếu Đập được xây
dựng, vùng đồng bằng sông Cữu Long sẽ mất đi từ 250,000 cho
đến 450,000 tấn cá nước ngọt hàng năm.
<strong>HẬU QỦA ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG</strong>: Sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của dân chúng, không chỉ dân Lào
ở chung quanh mà cả ở Cambodia và, nhất là, Việt Nam. Đối
với Lào, trước mắt để khởi công xây Đập, sẽ có chừng
hơn hai ngàn người phải dời đi nơi khác. Kế đến đời
sống của ít nhất 200,000 nông dân và ngư dân quanh vùng sẽ
thay đổi hoàn toàn; nhiều nông dân sẽ bị mất bớt đất
trồng trọt, số khác sẽ không còn nghề phụ, như nghề đãi
vàng, chẳng hạn, và thu nhập bị cắt giảm; nhiều ngư dân
sẽ phải đi nơi khác sinh sống vì lượng thủy sản trong vùng
bị sụt giảm. Rất đông người dân của Cambodia sống quanh
biển hồ Tonle Sap sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp những hậu
quả về môi sinh, sinh kế và đời sống gây ra do việc xây
Đập.
Chịu hậu quả nặng nề nhất là Việt Nam. Đồng Bằng Sông
Cữu Long ở Miền Nam là nơi cư trú của chừng 20 triệu dân,
nơi cung cấp đến hơn 40% đất canh tác, và gần 50% sản
lượng lúa gạo toàn quốc, chiếm gần 25% GDP của cả quốc
gia. Một số chuyên gia cho biết rằng trong những năm gần đây
vùng Đồng Bằng song Cửu long đã có triệu chứng sút giảm
lượng phù sa do lượng bùn trầm tích ngày càng ít. Điều đó
chắc chắn sẽ trực tiếp ảnh hưởng không những đến năng
suất lúa mà còn cả đối với thuỷ sản trong Vùng. Hiển
nhiên việc xây đập ở thượng nguồn sẽ khiến cho lượng
bùn tích tụ giảm đi nhanh hơn. Một số tính toán của Hiệp
Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam (Vietnam Union of Scientific and
Technological Associations, VUSTA) cho thấy rằng các đập thuỷ
điện của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mekong đã giữ
lại một lượng rất lớn bùn, nay nếu những đập thuỷ
điện lại được thiết lập thêm ở đoạn sông trên đất
Lào nữa, thì số lượng bùn của phần lưu vực sông Cữu Long
ở Nam Việt Nam sẽ giảm một cách nghiêm trọng từ 26 triệu
tấn/năm xuống còn 7 triệu tấn/năm!
Những hậu quả gây ra một khi đập Xayaburi được dựng lên,
như vậy, thật khó lường đối với Việt Nam. Thứ Trưởng
Bộ Môi Trường và Tài Nguyên, ông Nguyễn Thái Lai đã nói
rằng: "Nếu đập Xayaburi của Lào được thực hiện, nó sẽ
ảnh hưởng lớn lao đến sản lượng nông nghiệp và hệ sinh
thái thuỷ sản của Việt Nam. Cộng đồng quốc tế và các
chuyên gia đều đồng ý rằng việc xây dựng các đập trên
dòng chính của sông Cữu Long là điều không nên". Trong khi
đó một viên chức Lào lại cho rằng: "Chúng tôi tin rằng Dự
án Thuỷ Điện Xayabouri sẽ không gây ra một ảnh hưởng nào
đối với dòng Mekong". Rõ ràng đã có những quan điểm khác
nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch, trong lập trường
của hai bên Lào và Việt nam liên quan đến vấn đề.
<h2>KHÍA CẠNH BANG GIAO QUỐC TẾ</h2>
Những khác biệt quan điểm giữa hai chính phủ Việt Nam và Lào
trong vấn đề đập thuỷ điện Xayaburi có những nguyên nhân
sâu xa nằm trong mối bang giao giữa các quốc gia trong vùng.
Trước đây quan hệ Việt-Lào là một quan hệ rất gắn bó,
nhiều nhà bình luận quốc tế đã không ngớt thừa nhận ảnh
hưởng rất mạnh của Việt Nam CS đối với Cộng Hoà Dân Chủ
Nhân dân Lào; Hiệp ước Hòa bình và Hợp tác Hữu nghị ký
năm 1977 đã đẩy quan hệ hai nước lên một mức quan hệ đặc
biệt. Việt Nam đã giúp Lào, một nước nằm sâu trong nội
điạ, có lối thông ra biển qua Đường số 9 và qua ngã sông
Hồng. Việt Nam đã có những đầu tư lớn vào Lào cũng như
đã là người tiêu thụ lớn nhất cho nền kinh tế của Lào.
Chính phủ CSVN cũng đã giúp trang bị, huấn luyện cho các viên
chức chính phủ và cho quân đội của Lào trong suốt nhiều
thập niên qua. Hiện nay, VN là một trong những nước tiêu thụ
phần rất lớn lượng thuỷ điện của Lào.
Nhưng từ năm 1989 trở đi ảnh hưởng của VN đối với Lào
giảm dần, trong lúc đó thì ảnh hưởng của Trung Quốc và
Thái Lan đối với Lào ngày càng gia tăng. Lượng đầu tư của
Trung Quốc vào Lào gia tăng rất nhanh kể từ sau ngày VNCS rút
quân ra khỏi Cambodia. Trong năm năm trở lại đây, Trung Quốc
trở thành quốc gia đầu tư lớn nhất ở Lào. Lượng đầu tư
tập trung vào lãnh vực hầm mỏ và thuỷ điện. Chính do sự
kích động của Trung Quốc mà giới truyền thông trong khối
ASEAN đã bắt đầu gọi Lào là "bình điện của Đông Nam
Á" (battery of South East Asia). Các chuyên gia Trung Quốc đã gieo
vào đầu giới lãnh đạo ở Vientiane niềm hy vọng sẽ sản
xuất được chừng 8 Gigawatt-giờ thuỷ điện vào năm 2020. Đó
là một triển vọng quá tốt đẹp cho Lào, một quốc gia có
dân số chừng 6.3 triệu người với thu nhập bình quân đầu
người chỉ chừng 1000 dollars/năm.
Ngoài hầm mỏ và thuỷ điện, TQ cũng đầu tư nhiều vào các
lãnh vực khác như cao su thiên nhiên và giao thông vận tải.
Hiện TQ đang giúp vốn và kỹ thuật cho Lào để xây dựng
tuyến đường sắt xuyên Lào nối từ biên giới Lào-TQ qua
đến tận biên giới Lào - Thái Lan. Đó là tuyến đường sẽ
mang lại lợi ích cho cả Lào lẫn TQ, giúp TQ vận chuyển hàng
hoá qua Thái Lan, một quốc gia quan trọng cuả khối ASEAN. Tất
nhiên đó cũng là tuyến đường rất đắc dụng về mặt quân
sự khi có chiến tranh xảy ra. Theo Asia Times thì vào năm 2007
tổng trị giá đầu tư của TQ vào Lào lên đến 1.1 tỉ dollars,
chiếm đến 40% các công trình đầu tư trong năm đó của cả
nước Lào. TQ, thông qua chính quyền của tỉnh Vân Nam, đã giúp
phát triển các cơ sở kỷ nghệ cho vùng Bắc Lào với những
dự án lớn dự trù hoàn tất vào năm 2020; phần nhiều các dự
án này đã được quốc hội Lào chấp thuận hồi năm ngoái,
2010. Ngoài ra TQ cũng đã đầu tư vào các lãnh vực lâm nghiệp,
nông nghiệp, du lịch và các dịch vụ ăn uống, khách sạn và
cả ngành sòng bài. Điểm đáng chú ý nhất là TQ không chỉ
đầu tư vốn, mà trong nhiều trường hợp đưa cả nhân viên
quản trị và công nhân, từ TQ qua, vào làm trong các công trình
đầu tư ở Lào (tương tự như trường hợp khai thác quặng
bauxite ở Cao nguyên VN vậy). Nghĩa là TQ dùng việc đầu tư kinh
tế để gây ảnh hưởng chính trị và song song theo đó là
ngấm ngầm thực hiện một chính sách di dân trá hình vào Lào,
và vào vài quốc gia khác trong vùng, để giải toả vấn đề
dân số và lương thực hiện đang là mối đe doạ lớn lao cho
TQ. Việc thành lập một China town ở ngay thủ đô Vientiane của
Lào mới đây là một bằng chứng hiển nhiên cho điều vừa
nói.
Một số tác giả đã gán cho chính sách hiện nay của TQ đối
với Lào, và các quốc gia trong vùng ĐNA là chính sách bành
trướng, có người còn gọi là chính sách Bành trướng Bóc
lột (exploitative expansion), và có bằng chứng là TQ đã vận
dụng một số phương cách bất minh để hổ trợ cho chính sách
bành trướng đó của mình. Chẳng hạn như trường hợp của
ông Sompawn Khantisoux, chủ nhân của một cơ sở du lịch sinh
thái (ecotourism) khá nổi tiếng ở phía Bắc Lào, năm 2007 đã
bị nhân viên an ninh bắt đi biệt tích chỉ vì đã đứng ra hô
hào dân Lào ở địa phương chống lại việc tàn phá rừng
để lập các đồn điền cao su do TQ đầu tư và làm chủ. TQ
cũng còn hợp tác với chính phủ Lào để lập Lao National
Internet Center, mà toàn bộ nhân viên được huấn luyện ở TQ,
kèm với một toán chuyên trách để đối phó với vấn đề an
ninh trên mạng thông tin điện tử, nhằm giám thị và kiểm
soát mạng internet trên cả nước Lào, để phát hiện, rồi
trấn áp, các quan điểm đối kháng với chính sách của TQ của
dân Lào.
Tình hình trên đây cũng đã xảy ra tương tự ở Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, số lượng các bloggers trong Nước,
những người lên án chính sách nhượng bộ của Hà Nội đối
với TQ, bị bắt bớ, giam cầm ngày càng nhiều, có phần nhiều
hơn cả đối với những nhà đối kháng đòi Dân chủ. Rõ ràng
là TQ đang tạo những áp lực rất lớn đối với nhà cầm
quyền CSVN hiện nay trên nhiều phương diện để buộc VN phải
khuất phục trước chính sách bành trướng nham hiểm của họ,
và Hà Nội đã nhượng bộ một cách khá tương xứng. Kể từ
ngày chính sách Đổi Mới ra đời, VNCS đã đảo ngược chính
sách đưa ra trước đó vào những năm 1977-1978. Những thương
gia Hoa Kiều bị trục xuất trong những năm đó, về sau dưới
thời của thủ tướng Võ văn Kiệt, có sự cố vấn của Tiến
sĩ Nguyễn văn Hảo, đã được chấp thuận cho trở lại VN,
ngay cả được hoàn trả tài sản đã bị tịch thu trước kia,
và lại còn được khuyến khích phục hồi các hoạt động
doanh nghiệp cũ. Theo tác giả Gabriel Kolko thì tính từ năm 1997,
Hoa kiều đã kiểm soát đến 60% khu vực tư doanh của VN xã
hội chủ nghiã, một bách phân ngang với các nước theo tư bản
chủ nghĩa khác ở ĐNA! Mặt khác số lượng Hoa kiều cư trú
ở VN gia tăng một cách đáng kể trong những năm sau này. Số
liệu của năm 2005 cho thấy có đến hơn 1.2 triệu người Hoa
ở VN, đông hơn ở Philippines và Miến Điện, gần gấp 3 ở
Nhật, gấp 4 lần ở Cambodia, và gấp 7 lần ở Lào.
Trở lại vấn đề dự án Đập Xayaburi. Ngày 19/4 vừa qua phía
chính phủ Lào đã chính thức tuyên bố hoãn các quyết định
liên quan đến dự án, và chuyển giao vấn đề lên cho cấp bộ
trưởng của các quốc gia trong Uỷ Ban sông Mekong để thảo
luận tiếp. Giới quan sát xem sự trì hoãn này là kết quả do
phản ứng của các tổ chức quốc tế cũng như của các quốc
gia trong Uỷ Ban, trong đó cóViệt Nam.
Quyết định trên của Lào tuy tạm thời mang lại một niềm hy
vọng nào đó cho Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nảy sinh một
nổi ưu tư khác trong vấn đề đối ngoại. Khi khuyến khích
Lào xây dựng các đập thuỷ điện trên dòng chính sông Mekong,
Trung Quốc âm thầm nhắm đến nhiều mục tiêu. Một trong
những mục tiêu đó là gây ra sự căng thẳng và rạn nứt trong
mối quan hệ Việt - Lào, để từ đó tìm cách lôi cuốn Lào
vào quỹ đạo của TQ. Mục tiêu khác là, qua dự án xây Đập,
tạo một mối đe doạ mới, lớn lao, đối với VN; một sự đe
doạ ở cấp chiến lược, nguy hiểm không kém gì bọn Pol Pot
của Khmer Đỏ trước đây trên biên giới Tây Nam. Mặt khác cho
dù dự án, do gặp phản ứng và phải đình hoãn, TQ vẫn đạt
được ít nhiều trong các mục tiêu vừa nêu. Quan hệ Việt-Lào
chắc chắn sẽ không còn như trước; ảnh hưởng của VN tại
Lào, sau vụ này, sẽ bị sút giảm trầm trọng, và Lào sẽ
ngày càng xa rời VN, trong khi đó sẽ xích lại gần hơn với TQ
và Thái Lan. Và việc đình hoãn dự án vẫn không có nghĩa là
những nguy cơ cho VN trong vấn đề này đã hết; mối đe doạ
vẫn còn đó chưa dứt.
Cũng qua vụ Đập Xayaburi này, người ta nhớ lại các âm mưu
trước đây của TQ trong những năm sau 1975 trên bán đảo Đông
Dương. Việc TQ tìm cách o bế ông Hoàng Sihanouk, và về sau,
bọn Khmer Đỏ, để khoét sâu mối chia rẽ thù hằn giữa VN và
Kampuchia, nhằm cô lập và làm suy yếu VN, là một dĩ vãng còn
quá mới trong ký ức của những ai quan tâm.
TQ đã có những tính toán chiến lược xa trước hàng chục
năm. Ngay khi chiến tranh VN đang còn xảy ra, tuy một mặt vẫn
ủng hộ cho Hà Nội, nhưng âm thầm Bắc Kinh đã tìm cách gây
dựng ảnh hưởng trong nội bộ đảng CS Kampuchia và tìm cách
loại dần ảnh hưởng của CSVN đối với đảng đó. Pol Pot và
lũ hung thần Khmer Đỏ, về mặt nào đó, là con đẻ của Bắc
Kinh. Ngày nay, TQ khuyến khích Lào xây đập Xayaburi đe doạ sự
sống còn của vùng Đồng Bằng sông Cửu Long ở Miền Nam.
Trước đây hơn 36 năm, TQ hậu thuẩn cho Khmer Đỏ là kẻ chủ
trương rằng Đồng Bằng Miền Nam VN là lãnh thổ xưa kia của
họ và đòi thu hồi. Điểm đáng chú ý ở đây là vìệc dùng
Kampuchia để uy hiếp VN của Bắc Kinh vượt qua cả lằn ranh ý
thức hệ thông thường, rõ rệt nhất là Bắc Kinh đã cưu mang
Sihanouk sau khi ông hoàng này bị Lon Nol lật đổ, và hoà giải
để cả Sihanouk và Pol Pot chấp nhận ngồi chung lại với nhau.
TQ cũng vượt lằn ranh ý thức hệ tư bản-cộng sản một lần
nữa khi nhận được sự đồng thuận của Mỹ trong việc dùng
bọn diệt chủng Pol Pot và Khmer Đỏ để chống VNCS trong suốt
những năm 1975-1989. Ngay từ sau 1975, Tổng thống Ford và Ngoại
trưởng Kissinger, đã thổ lộ chủ trương khuyến khích cho TQ
ủng hộ bọn Khmer Đỏ để ngăn chận ảnh hưởng của VNCS
trên bán đảo Đông Dương. Tháng 12/1975, Kissinger đã nói với
TT Souharto của Indonesia: "the Chinese want to use Cambodia to balance
off Vietnam….We don't like Cambodia, for the government in many ways is
worse than Vietnam, but we would like it to be independent. We don't
discourage Thailand or China from drawing closer to Cambodia." (Người
Tàu muốn dùng Cambodia để cân bằng VN. Chúng tôi không ưa
Cambodia (của Khmer Đỏ), vì chính quyền đó tệ hơn VN nhiều,
nhưng chúng tôi muốn nó độc lập. Chúng tôi không cản trở
Thái Lan và Trung Quốc trong việc xích lại gần với Cambodia
(của Khmer Đỏ). Sau khi VNCS tràn qua Kampuchia, chính phủ Mỹ
lại càng đồng tình với TQ hơn trong việc ủng hộ Khmer Đỏ
của Pol Pot. Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ, ông Brzezinski đã hồi
tưởng rằng: "I encouraged the Chinese to support Pol Pot... Pol Pot
was an abomination. We could never support him but China could." (Tôi
khuyến khích người Tàu ủng hộ cho Pol Pot…Pol Pot là kẻ gớm
guốc. Chúng tôi không bao giờ có thể ủng hộ anh ta, nhưng TQ
có thể). Cả hai chính phủ Mỹ Carter và Reagon đều đi xa hơn
trong việc cùng TQ ủng hộ bọn Pol Pot, chẳng hạn đã bỏ
phiếu để giữ ghế ở Liên Hiệp Quốc cho chính phủ của
Khmer Đỏ, hoặc bí mật, thông qua các tổ chức cứu trợ quốc
tế và qua Thái Lan, giúp đỡ lương thực thuốc men cho tàn quân
Pol Pot. Ngay đến lúc gần đây Quốc Hội Mỹ vẫn còn cản
trở việc đưa bọn tội phạm Khmer Đỏ ra toà án quốc tế.
Tóm lại, vụ đập thuỷ điện Xayaburi, ngoài những hậu quả
môi sinh, nông nghiệp,thuỷ sản và đời sống gây ra cho hàng
triệu người của các quốc gia Lào, Cambodia, và đặc biệt
Việt Nam, còn nảy sinh một mối ưu tư đối ngoại chiến
lược cho Việt Nam. Trung Quốc đã biết khai thác quyền lợi
vị kỷ của Lào hiện nay, cũng như của Kampuchia trước đây,
để phục vụ cho chiến lược trường kỳ cô lập, làm suy
yếu, và cuối cùng khuất phục, đưa Việt Nam trở lại vai trò
chư hầu của TQ như xưa kia. Bằng vào những nổ lực trước
đây thông qua Khmer Đỏ, và sự bành trướng hiện nay trên bình
diện kinh tế ở Lào và Cambodia, TQ đã và đang mở gọng kìm
thứ hai ở hướng Tây để tấn công Việt Nam một cách lâu
dài. Phối hợp với sự lấn hiếp trên mặt biển ở hướng
Đông, cũng như trực tiếp gây áp lực kinh tế qua các tỉnh
biên giới phía Bắc, Trung Quốc đang kế tục truyền thống xâm
lấn ngàn đời của người Hán đối với dân tộc Việt Nam
dưới một hình thái tinh vi, đa dạng và hiện đại hơn. Thế
hệ trẻ Việt Nam hiện nay và trong tương lai sắp đến đang
phải đương đầu với một thách thức hoàn toàn mới và lớn
lao như chưa bao giờ có trước đây đối với vận mệnh của
Tổ Quốc.
Người Việt chúng ta, trong cũng như ngoài Nước, phải làm gì
đây trước thách thức lớn lao đó?
Sunnyvale, CA 20/4/2011
TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG
__________________________________________________________________
Institute for Security & Development Policy, Policy Brief, No. 66, April 7,
2011.
http://www.stratfor.com/analysis/20110419-laos-dam-project
http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/LL23Ae01.html
Kolko, Gabriel, Vietnam Anatomy of a Peace, p. 45, Routledge 1997.
http://www.ocac.gov.tw/english/public/public.asp?selno=1163&no=1163&level=B
Kiernan Ben, The Cambodian Genocide and Imperial Culture, www.yale.edu/gsp.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8621), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét