Tư liệu: Thư Của Ông Võ Văn Kiệt Gởi Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam (năm 1995)

<div class="special_quote">Ngày 9/8/95, ông Võ Văn Kiệt, lúc đó là
Thủ tướng và là Ủy Viên Bộ Chính Trị của Đảng cộng
sản Việt Nam (ĐCSVN), đã gởi cho các ủy viên khác của Bộ
Chính Trị một lá thư góp ý về nhiều vấn đề như 'phải
triệt để dân chủ trong đảng', nâng các thành phần kinh tế
lên ngang hàng với nhau và thu nhỏ vai trò của kinh tế quốc
doanh. Nội dung bức thư phản bác lại lập luận của phe bảo
thủ do Đỗ Mười và Đào Duy Tùng đứng đầu.

Tuy được đóng dấu 'Tối mật', nhưng lá thư này đã được
tán phát rộng rãi ở trong và ngoài nước. Cuối tháng 12/95,
chính quyền đã vịn vào lý cớ là lá thư này thuộc loại
"tài liệu tối mật", nên đã bắt và đã xử tù các ông <a
href="http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_S%C4%A9_Phu">Hà Sĩ Phu</a> (1
năm), Lê Hồng Hà (2 năm) và Nguyễn Kiến Giang (15 tháng tù
treo).</div>

<div class="rightalign">Hà Nội, ngày 9 tháng 8 năm 1995</div>

<strong>Kính gửi: Bộ Chính Trị.</strong>

Sau đợt thảo luận tháng 6 vừa qua Bộ Chính Trị (BCT) xây
dựng các văn kiện chuẩn bị Đại Hội VIII, đồng chí Tổng
Bí Thư đã kết luận còn một số vấn đề và quan điểm lớn
cần tổ chức nghiên cứu và thảo luận sâu hơn nữa. Tôi tán
thành kết luận nầy và xin trình bày một số ý kiến về 4
vấn đề:

<em>1- Đánh giá tình hình, cục điện thế giới ngày nay. 2-
Vấn đề chệch hướng hay không chệch hướng? 3- Nâng cao năng
lực quản lý nhà nước. 4- Xây đựng Đảng.</em>

<h2>1- Đánh giá tình hình, cục diện thế giới ngày nay.</h2>

Nhận thức của chúng ta về tình hình, cục diện thế giới
ngày nay quyết định đánh giá của ta về thời cơ và thách
thức.

Đặc điểm cần nhấn mạnh là: Trong thế giới ngày nay, không
phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính chất đa dạng đa cực
trở thành nhân tố nổi trội nhất chi phối những mâu thuẫn
và sự vận động của các mối quan hệ giữa mọi quốc gia
trên thế giới. Và cũng khác với trước, ngày nay lợi ích
quốc gia, lợi ích khu vực, những lợi ích toàn cầu khác (ví
dụ hoà bình, vấn đề môi trường, vấn đề phát triển, tính
chất toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc của sự phát triển lực
lượng sản xuất…) đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong
việc phát triển những mâu thuẫn cũng như trong việc tạo ra
những tập hợp lực lượng mới ngày nay trên thế giới.
Nhiều mâu thuẫn khác đã từng tồn tại trong thời kỳ thế
giới còn chia thành 2 phe – kể cả mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
đế quốc và chủ nghĩa xã hội, có thể tiếp tục còn tồn
tại, song chịu sự chi phối ngày càng lớn hơn bởi những mâu
thuẫn khác và <span class="underlined-text">do đó không còn có thể
giữ vai trò như cũ</span>.

Không thấy hết đặc điểm quan trọng nói trên, không thể
cắt nghĩa được việc VN trở thành thành viên ASEAN, ký kết
hiệp định khung với EU, tạo lập ra được quan hệ quốc tế
ngày càng rộng rãi và giành lấy vị trí quốc tế ngày càng
thuận lợi hơn trước giữa lúc hệ thống thế giới XHCN không
còn tồn tại được nữa. Cần nhấn mạnh đấy là chiến công
có ý nghĩa chiến lược và xoay chuyễn hẳn tình thế của
đường lối đối ngoại Đại Hội VII – xuất phát từ những
nhận thức mới và chính xác về cục diện thế giới ngày nay.
Bây giờ, lợi ích của VN là phải phát huy hơn nữa đường
lối ấy. Đồng thời cũng phải tỉnh táo đánh giá những
thách thức và sức ép mới do ta gia nhập ASEAN, hợp tác với
EU, bình thường quan hệ với Mỹ…

Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể
giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập
họp lực lượng chống lại nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam như
trước được nữa. Vì ngọn cờ nầy đã hết phép mê hoặc,
chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song
ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng Hoà XHCN VN của
các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh
giá dưới ánh sáng của cục diện mới – đặc biệt là trong
mối tương quan giữa các nước lớn, các "trung tâm", các
"cực" đang hình thành ngày càng rõ nét.

Để có cơ sở phân tích mối tương quan vừa nói bên trên,
chúng ta có hàng loạt những sự kiện quan trọng kể từ khi
cục diện thế giới bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới, đó
là: chiến tranh Irak, sự tập họp lực lượng và thái độ các
nước lớn chung quanh việc chống lại VN trong vấn đề
Campuchia, giải pháp hoà bình giữa Palestine và Israel, hòa giải
ở Nam Phi, nội chiến ở Nam Tư cũ (Bosnia, Herzegovina), sự tranh
chấp ở Trường Sa và thái độ các loại nước khác nhau chung
quanh vấn đề nầy, sự phát triển các mối quan hệ quốc tế
của VN trong 10 năm qua, triển vọng bình thường hoá quan hệ
Việt-Mỹ, vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN, tiếng nói
của các nước nhỏ càng nhiều trọng lượng hơn trước, xu
thế tập hợp các tổ chức kinh tế khu vực, vai trò ngày càng
tăng của Liên Hiệp Quốc song song với hiện tượng những siêu
cường ngày càng khó thao túng Liên Hiệp Quốc như thời kỳ
chiến tranh lạnh v.v…

Trước hết đó là những mâu thuẫn và lợi ích của các quốc
gia – bao gồm cả sự cạnh tranh gay gắt, xung đột lợi ích
quốc gia, yêu cầu hợp tác, những thách thức tác động vào
quốc gia do sự phát triển của lực lượng sản xuất và
những biến động trong kinh tế thế giới, sự hình thành
những liên kết kinh tế khu vực, những thách thức mới trên
các lãnh vực chính trị, văn hoá, xã hội do quá trình hoà
nhập và giao lưu kinh tế ngày càng sâu rộng giữa các quốc
gia, những chính sách và thủ đoạn của các quốc gia và các
thế lực thù nghịch nhau sử dụng những yếu tố mới nầy
để chi phối đối phó hoặc loại bỏ nhau… Không xử lý
được tình hình mới nầy, không một quốc gia nào có thể
đứng vững được.

Cũng cần đánh giá thực chất quan hệ giữa các nước XHCN còn
lại. Sự thật hiện nay là 4 nước XHCN còn lại tuy có những
mối quan hệ với nhau ở mức độ nhất định, <span
class="underlined-text">song không thể hành động và không có giá
trị trên trường quốc tế như một lực lượng kinh tế và
chính trị thống nhất</span>. Nói riêng về quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc, Việt Nam-Cộng Hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
thì tính chất quốc gia lấn át (nếu chưa muốn nói là loại
bỏ) tính chất XHCN trong những mối quan hệ giữa những nước
nầy. Thậm chí trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc tồn tại
không ít những điểm nóng. Thuần tuý nói về chủ nghĩa xã
hội thì cả 4 nước XHCN còn lại đều nói còn đang tiếp tục
nghiên cứu, tìm đường con đường riêng phù hợp của từng
nước.

Cũng không thể xem xét sự phục hồi ở mức độ nào đấy
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế – kể cả
những nước Liên Xô Đông Ấu cũ, có cùng một chất lượng
và cũng có một giá trị cộng sản chủ nghĩa như trước kia.
CNXH dân chủ và nhiều quan điểm pha trộn khác đang tác động
mạnh mẽ vào trào lưu nầy. Nghĩa là sự phục hồi này chưa
mang lại cho phong trào cs và công nhân quốc tế sức nặng chính
trị vốn có trước đây.

Song có một thực tế khách quan khác rất quan trọng cần
được mổ xẻ nghiên cứu. Đó là, bất chấp những biến
động nghiêm trọng của hệ thống thế giới XHCN, nước Cộng
Hoà XHCN Việt Nam do đảng CSVN lãnh đạo ngày càng được cũng
cố và đứng trước những triển vọng to lớn. Cục diện
quốc tế ngày nay có những đặc điểm gì, cho phép vận dụng
đường lối nào và có thể khai thác những yếu tố gì đã
giúp cho đảng ta xoay chuyển được tình hình, tìm ra được
hướng đi mới và tạo khả năng giành thời cơ để đi lên
như vậy?

Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay
đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của VN ngày càng
mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính
trị một đảng của VN cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc
nầy lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử
dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta.
Hơn thế nữa, đang có một xu thế ngày càng mạnh trên thế
giới hoan nghênh, cổ vũ sự phát triển năng động và vai trò
tích cực của VN trên trường quốc tế. Nếu như trong tương
lai gần đây, chúng ta thực hiện được dân già u nước mạnh,
xã hội công bằng và văn minh, nước VN do đảng CSVN lãnh đạo
sẽ lại một lần nữa giành được trái tim của các lực
lượng tiến bộ trên toàn thế giới – một sự tập họp
lực lượng mới, như đảng ta và nhân dân ta đã từng thực
hiện được trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Bởi vì
mục tiêu dân già u nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh
là khát vọng của nhân dân ta, đồng thời cũng là mong muốn
của nhiều nước đang phát triển và các lực lượng tiến bộ
trên toàn thế giới. Những lý luận hoặc mô hình nầy mô hình
khác về xây dựng xã hội XHCN vừa qua có thể thất bại,
nhưng xây đựng một xã hội XHCN chân chính vẫn là khát vọng
của nhân dân lao động toàn thế giới. Xem xét thế giới như
vậy, mặt trận của VN tập họp lực lượng trên thế giới
ngày nay vẫn có triển vọng ngày càng mở rộng. Điều nầy
hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối của đảng ta và phẩm
chất cách mạng của chúng ta.

Tất cả phải đưa lên bàn cân, để có thể nhận định, phán
đoán tình hình một cách đúng đắn, xác định chính xác
nhiệm vụ phải thực hiện, để lo thu xếp, huy động thực
lực bên trong, tập họp lực lượng bên ngoài và bài binh bố
trận như thế nào để thăng bằng trong keo vật mới nầy!?

Với đánh giá tình hình theo cách nhìn mới, có thể nói, sau
một nửa thế kỷ phấn đấu đầy hy sinh gian khổ kể từ
cách mạng tháng 8, bây giờ chúng ta mới cùng một lúc có
được điều kiện bên trong tốt nhất và bối cảnh quốc tế
bên ngoài thuận lợi nhất cho phép đặt ra được và thực
hiện được dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn
minh, đáp ứng được đòi hỏi phải vươn ra thế giới bên
ngoài để tồn tại và phát triển, để lấy lại thời gian
đã mất và đuổi kịp các nước chung quanh. Có thể nói, đất
nước đang đứng trước cơ hội chưa từng có trong lịch sử
dân tộc ta.

Đảng ta lãnh sứ mệnh lịch sử trước dân tộc là không bỏ
lỡ cơ hội nầy. Đây chính là nhiệm vụ của đại hội VIII.
Cũng có thể nói rằng, rụt rè bỏ lỡ cơ hội nầy, sẽ làm
thảm họa cho đất nước, đảng ta sẽ đứng trước nguy cơ
bị tước quyền lãnh đạo – chỉ vì không đáp ứng được
đòi hỏi phát triển của đất nước. Xin nhấn mạnh rằng sau
gần 200 năm kể từ khi kinh tế thế giới đi vào thời đại
công nghiệp hóa, dân tộc VN ta bây giờ mới có lại cơ hội
như vậy. Chúng ta không được và không có quyền để bất kỳ
vướng mắc nào ngăn cản nhân dân ta nắm lấy cơ hội nầy.
Sự tồn vong của đất nước phải được xem xét trên tất
cả.

<h2>2- Vấn đề "chệch hướng" hay không "chệch
hướng"?</h2>

Đề tài nầy đang được thảo luận rất sôi này trong đảng
và cả trong nước, chắc chắn còn phải mất nhiều công sức
để đi tới những kết luận có sức thuyết phục hơn.

Về lý luận sẽ bàn sau.

Về thực tiễn, phải chăng có thể căn cứ vào những tiêu chí
cơ bản nhất sau đây để làm rõ định hướng XHCN, đó là:

1- Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. 2- Phát
triển gắn liền với giữ gìn độc lập chủ quyền và bản
sắc văn hoá của dân tộc. 3- Phát triển gắn liền với phúc
lợi xã hội và bảo vệ môi trường. 4- Xây dựng nhà nước
của dân, do dân và vì dân có hiệu lực. 5- Đảng CSVN lãnh
đạo toàn bộ quá trình phát triển nói trên của đất nước.

Một vấn đề rất khó ở đây là sự tách bạch đúng đắn
giữa mục tiêu và phương tiện thực hiện mục tiêu. Có làm
tốt được việc nầy, mới xác định rõ được chệch hướng
hay không chệch hướng.

Ví dụ, <span class="underlined-text">nếu chúng ta cho rằng kinh tế
quốc doanh giữ vai trò chủ đạo là một tiêu chí cho định
hướng XHCN, nhấn mạnh rằng đó là mục tiêu phấn đấu của
chúng ta, của dân tộc ta, thì điều nầy hoàn toàn không
đúng.</span> Thực ra vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh
chỉ là một trong nhiều điều kiện quan trọng, đồng thời
cũng là một trong nhiều phương tiện quan trọng cần phải có
để thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghệ
thuật lãnh đạo đất nước ở đây là phải xử lý hài hoà
mối quan hệ giữa việc phát huy vai trò kinh tế quốc doanh và
việc thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, với
đích cuối cùng là bảo đảm thực hiện được 5 tiêu chí nói
trên.

Chúng ta nhất trí rằng con đường xây dựng xã hội đi theo
định hướng XHCN ở nước ta chưa có tiền lệ, chính vì lẽ
nầy phải luôn tránh công thức hoá, phải bám lấy kết quả
tổng thể trong việc thực hiện những tiêu chí lớn để soi
rọi lại xem có chệch hướng hay không chệch hướng.

Ví dụ có đồng chí nói biểu hiệu của chệch hướng là
quốc doanh không làm chủ được lưu thông phân phối, tư
thương hầu như chi phối thương nghiệp. Một biểu hiệu khác
của chệch hướng – cũng theo cách nhìn như vậy – là trong
giao thông vận tải tỷ lệ xe tư nhân chiếm quá cao…

Cũng những sự việc nói trên, đúng ra phải được đánh giá
hoàn toàn ngược lại.

Sự thật là đường lối đổi mới đã tạo ra được một cơ
chế kinh tế cho phép huy động mọi tiềm năng trong xã hội,
nhờ đó đã xử lý có thể nói khá thành công vấn đề lưu
thông hàng hoá và giao thông vận tải. Về phương diện nầy
chúng ta đã thành công rất xa so với thời kỳ còn cơ chế kinh
tế bao cấp. Bây giờ hàng hoá đi và về hầu như mọi miền
đất nước, nhân dân trong cả nước đi lại dễ dàng hơn
trước nhiều lần. Cũng nhờ đó, đời sống được cải
thiện rõ rệt, nền sản xuất hàng hoá tăng trưởng nhanh.
Chúng ta thử hình dung sự phát triển nầy đã huy động được
biết bao nguồn nhân lực nhân tài trong xã hội, đã tạo biết
bao công ăn việc làm mới cho người dân trong cả nước mà khu
vực kinh tế nhà nước không thể lo xuể. Những năm trước khi
thực hiện đổi mới, chúng ta đã có kinh nghiệm nếu không có
sự phát triển nầy thì kinh tế tiêu điều và ách tắc như
thế nào! Nếu coi sự phát triển nầy là chệch hướng, có
nghĩa là chúng ta phải đem kinh tế quốc doanh ra đối lập lại
với sự phát triển nầy, đối lập với tất cả những
người lao động đang bỏ của và công sức để tạo ra sự
phát triển năng động như hiện nay.

Đương nhiên tình hình lưu thông phân phối và giao thông vận
tải hiện nay chưa phải thật hoàn hảo. Song không thể giải
quyết những vấn đề ta gọi là "tranh mua, tranh bán", vấn
đề đầu cơ, tai nạn lưu thông… bằng cách mở rộng màng
lưới quốc doanh trong những lĩnh vực nầy. Đấy không phải
là giải pháp. Trong những năm của cơ chế kinh tế cũ, quốc
doanh hầu như nắm toàn bộ các lĩnh vực nầy và chúng ta đã
biết kết quả. Ngày nay không ít xí nghiệp, đơn vị quốc
doanh làm ăn trái với pháp luật, số lượng phương tiện giao
thông vận tải của quốc doanh – trong đó có xe của đơn vị
quân đội – tham gia buôn lậu khá lớn… Vì vậy, giải pháp
cho những vấn đề nầy phải tiếp tục hoàn thiện thị
trường, tăng cường chất lượng bộ máy nhà nước trong quản
lý kinh tế, kiện toàn và tiếp tục phát triển các hệ thống
tà i chính, luật pháp, những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đúng
hướng…, chứ không phải giao cho quốc doanh "nắm" tất
cả.

Cũng có ý kiến nói chệch hướng trong vấn đề hợp tác xã.

Cần phải nói thẳng thắn mô hình hợp tác xã cũ không thích
ứng với sự phát triển kinh tế hộ và những đòi hỏi mới
trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay của đất nước.
Kết thúc sự tồn tại của mô hình nầy trong lĩnh vực nông
nghiệp và tiểu công nghệ là tất yếu. Thực ra kinh tế hộ
trong nông nghiệp, thủy sản, những người sản xuất tiểu
thủ công nghiệp và không ít những người buôn bán nhỏ, sản
xuất nhỏ đang rất cần một loại hình hợp tác xã mới có
thể hỗ trợ thiết thực cho họ. Khuyết điểm của chúng ta
là chưa đáp ứng được đòi hỏi mới nầy. Trong khi đó các
hộ kinh tế này đang tự phát tổ chức với nhau những hình
thức hợp tác thiên hình vạn trạng và ở những mức độ
rất khác nhau, nơi thành công, nơi thất bại và không ít những
kinh nghiệm đáng được nghiên cứu cho việc xây dựng mô hình
hợp tác xã kiểu mới thích hợp. Khư khư giữ mô hình hợp
tác xã cũ sẽ thất bại. (<em>Vừa qua tôi đến thăm nông
trường Sông Hậu. Thực chất đó không còn là một nông
trường theo nghĩa xưa nay chúng ta vẫn hiểu. Đó chính là một
mô hình hợp tác xã kiểu mới như chúng ta vẫn thường thấy
ở các nước công nghiệp. Đây chính là mô hình cần được
nghiên cứu</em>).

Song nguy cơ chệch hướng đang ẩn náu trong nhiều hiện tượng
kinh tế xã hội khác nhau chưa được chú ý xử lý thỏa đáng.
Đó là trình trạng là m ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu
cực đang trở thành "quốc nạn", bao gồm những thói xấu
như cục bộ, cửa quyền, tính vô chính phủ, cắt cử, tiêu
sài lãng phí và ăn cắp của công… Những hiện tượng nầy
đang làm giảm hiệu lực pháp luật và các hệ thống kinh tế
quản lý (vĩ mô hay vi mô) của nhà nước, gây nhiều thiệt
hại kinh tế nghiêm trọng, kể cả trong liên doanh với nước
ngoài; kích thích kinh tế ngầm và các mafia, tăng thêm những
căng thẳng trên các vấn đề như khoảng cách thu nhập, sự
phân hoá và tệ nạn xã hội (đặc biệt những tệ nạn
nghiện hút, cờ bạc, mãi dâm), vấn đề công bằng và công
lý, v.v… Sẽ sai lầm, nếu đem tất cả những phát triển
không lành mạnh này đổ cho cơ chế kinh tế thị trường. Kết
luận như vậy sẽ chỉ còn có cách là xoá bỏ cơ chế thị
trường, một điều ai cũng thấy là vô lý, và những hiện
tượng xấu sẽ không thể vì thế tự nhiên biến mất (đành
rằng cơ chế thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần
tự nó cũng đặt ra nhiều vấn đề mới phải xử lý).

Để những hiện tượng nầy tiếp tục phát triển, sẽ có
nghĩa nhà nước mất dần khả năng kiểm soát, sự trong sạch
và vững mạnh của chế độ chính trị giảm sút, lòng dân
phân tán, định hướng XHCN sẽ chỉ còn là khẩu hiệu trống
rỗng. Chệch hướng và diễn biến hoà bình sẽ có thêm mảnh
đất màu mỡ để bung ra. Trên phương diện nầy, rõ ràng hậu
quả của những yếu kém trong năng lực quản lý nhà nước
chưa được đánh giá đúng mức. Chỗ nào chúng ta cũng có
đảng viên, cán bộ, song tình trạng tiêu cực vẫn có xu
hướng phát triển.

Đảng và các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền các cấp,
các đoàn thể, các bộ, ngành phải làm gì?

Một vấn đề không thể tránh né là chúng ta thừa nhận sự
phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đến
mức độ nào để khỏi chệch hướng? Đề nghị cần trao
đổi kỹ vấn đề nầy.

Chúng ta đang đứng trước đòi hỏi khách quan là nước ta
phải giàu lên càng nhanh càng tốt, để có sức cạnh tranh và
có lực thu hút mọi nguồn vào từ bên ngoài, để giữ gìn
độc lập tự chủ trong mở rộng hợp tác và phát triển.
Chúng ta phải ráo riết tăng mạnh cường độ tích tụ vốn
để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đã từng kéo dài hàng trăm năm trong lịch sử các nước
công nghiệp xuống còn vài ba thập kỹ như một số "con
rồng" ở Châu Á đã thực hiện. Không làm được như vậy
sẽ mất thời cơ và mất tất cả. Chính đấy là những đòi
hỏi ràng buộc chúng ta trong khi xử lý vấn đề phát triển
các thành phần kinh tế.

Hơn thế nữa, chúng ta còn phải đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, sao cho trong vòng mươi mười lăm năm
tới chỉ còn trên dưới 1/3 lao động cả nước làm nông
nghiệp, tỷ trọng công nghiệp trong GDP phải giảm xuống mức
thấp trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Không đạt được
yêu cầu này, sẽ tăng thêm nguy cơ bần cùng hoá (<em>bởi vì
trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp tài nguyên đất đai, rừng
núi và ven biển đã được khai thác hầu như ở mức độ quá
tải bằng công nghệ thủ công và lạc hậu</em>), hoàn toàn
không thể nói tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Trong mở rộng liên doanh với nước ngoài,
phần góp vốn của phía ta hiện nay thường chỉ đạt 20-30%
giá trị công trình, vì chưa làm tốt việc huy động các nguồn
lực trong nước, phía ta rất thiệt thòi v.v…

Như vậy phải chăng câu trả lời sẽ là: Để đáp ứng những
đòi hỏi vô cùng bức xức của phát triển, chúng ta chủ
trương trong khi đối xử bình đẳng với tất cả thành phần
kinh tế, chúng ta chấp nhận không đặt ra cho các thành phần
kinh tế bất kỳ giới hạn phát triển nào, miễn là sự phát
triển ấy cân đối hài hoà, ổn định, nằm trong khuôn khổ
của lập pháp, nhà nước kiểm soát được và đáp ứng tối
đa những tiêu chí lớn chúng ta đã xác định cho định hướng
XHCN?

Nếu chấp nhận đạo lý vừa trình bày trên, sẽ có nhiều
vấn đề hệ trọng phải xem xét lại trong việc hoạch định
đường lối và các chính sách. Có thể chính đạo lý nầy sẽ
thống nhất ý chí toàn dân tộc trước vận mệnh mới của
đất nước, tạo ra động lực không gì khuất phục được cho
một nước VN dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn
minh, độc lập và bất khả xâm phạm đối với bất kỳ sức
ép bên ngoài nào. Song nhằm đạt được mục tiêu nầy, năng
lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội trở thành
một trong những tiền đề quyết định – và đây là điều
chính là điều chúng ta thiếu nhất. Xử lý thành công yêu cầu
nầy là nhiệm vụ chính trị rất quan trọng của đảng ta
hiện nay.

<h3>Nhà nước Cộng hoà XHCN VN có phải ưu tiên phát triển
thành phần kinh tế quốc doanh không?</h3>

Như đã trình bày, đảng ta lựa chọn quan điểm đối xử bình
đẳng các thành phần kinh tế. Lợi ích lâu dài của đất
nước đòi hỏi phải quán triệt và kiên trì quan điểm này.
Trừ một số lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng và
phát triển cơ sở hạ tầng (bao gồm cả về mặt xã hội),
không nên và không thể đặt vấn đề "ưu tiên" kinh tế
quốc doanh, hay giao cho kinh tế quốc doanh nhiệm vụ "nắm"
một thứ gì đó như chúng ta đã thường làm trong cơ chế
quản lý cũ.

Nhưng kinh tế quốc doanh thực sự đang có nhiều vấn đề quan
trọng khác chưa được quan tâm đúng mức.

Điều đáng lưu ý nhất là kinh tế quốc doanh nhìn chung chưa
đem lại hậu quả mong muốn lớn nhất cho nền kinh tế quốc
dân xứng đáng với vai trò, vị trí và vốn liếng nó nắm
trong tay. Đối với chế độ chính trị của nước ta, kinh tế
quốc doanh là lực lượng kinh tế quan trọng nhất trong việc
thực hiện đường lối chủ trương kinh tế và phát triển
đất nước của đảng. Chúng ta còn phải làm nhiều việc để
cho kinh tế quốc doanh trở thành đội quân chủ lực mở
đường cho kinh tế nước ta đi lên, hỗ trợ cho các thành
phần kinh tế khác phát triển, làm chỗ dựa và có khả năng
hạn chế bởi rủi ro cho kinh tế cả nước, tạo ra những tập
đoàn mạnh trong cạnh tranh với bên ngoài. Cũng phải từ quan
điểm vừa trình bày mà xem xét, bố trí kinh tế quốc doanh vào
đâu, làm việc gì, với phương thức nào có lợi nhất. Ngoài
ra cần làm cho kinh tế quốc doanh trở thành yếu tố năng
động trong hệ thống điều hành kinh tế vĩ mô của nhà
nước.

Sự thật là năng suất lao động và hiệu quả của từng
đồng vốn trong kinh tế quốc doanh (ở đây không kể đến
những đơn vị kinh tế phải làm công ích xã hội hoặc phát
triển cơ sở hạ tầng) nhìn chung còn thấp so với số vốn
của các thành phần kinh tế khác trong xã hội. Tình trạng
thất thoát và lợi dụng vốn quốc doanh còn ở mức nghiêm
trọng. Hơn nữa, việc sắp xếp và cơ cấu lại kinh tế quốc
doanh, cổ phần hoá, xây dựng các liên kết liên doanh còn rất
chật vật, có nhiều sức tiêu cực chống lại. Ngoài ra chúng
ta hiện nay mới chỉ quan tâm đến xử lý hiệu quả của các
xí nghiệp, song chưa có sự quan tâm thoả đáng đến vấn đề
chuyển đổi các xí nghiệp để huy động vốn quốc doanh tập
trung vào những ngành nghề có thể chi phối sự phát triển kinh
tế của cả nước, việc sắp xếp lại và giải thể những
xí nghiệp không có hiệu quả kinh tế đáng kể thực hiện
chưa tốt nên chưa tạo ra chuyển biến mới.

Tóm lại để góp phần giữ được định hướng XHCN, đòi
hỏi bức xúc là phải nâng cao tính hiệu quả của kinh tế
quốc doanh, mhằm làm cho nó chiếm một vai trò chủ đạo trong
thị trường nước ta chứ không phải là dành cho nó quyền
"nắm" thứ nầy thứ khác.

<h2>3- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước.</h2>

Đã có nhiều cuộc trao đổi về nhà nước pháp quyền. Tôi
không đi vào lý luận của vấn đề nầy, mà muốn nhấn mạnh
yêu cầu bức xúc phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước,
với nhận thức cho rằng yếu kém hiện nay của chúng ta trong
nhiệm vụ quản lý nhà nước đang thách thức rất nghiêm
trọng khả năng vươn lên của nước ta.

Trước hết sống và làm việc theo pháp luật trở thành đòi
hỏi ngày càng bức thiết của cuộc sống và sự nghiệp phát
triển đất nước ta.

Đòi hỏi tất yếu và không thể tranh cãi được này đang làm
cho chúng ta lo lắng. Bởi vì một mặt, sự phát triển luật
pháp và năng lực thi hành luật pháp chưa theo kịp đà phát
triển của đất nước và xã hội ta hiện nay. Mặt khác, tình
trạng sống và làm ăn trái với pháp luật chưa có xu thế
giảm.

Có thể nói chúng ta đã làm rất nhiều việc để tiếp tục
phát triển hệ thống luật pháp, kết hợp với tăng cường
các tổ chức thi hành luật pháp, nhưng kết quả chưa như mong
đợi. Ngay bây giờ, tình trạng bất cập của bộ máy nhà
nước và những vấn đề nóng bỏng trong đời sống kinh tế
xã hội đã ở mức độ báo động. An ninh kinh tế, an ninh
chính trị và an ninh xã hội đều có nhiều vấn đề đáng lo
ngại do buông lỏng quản lý nhà nước. Chưa có thể nói chúng
ta đã tạo ra một môi trường kinh tế xã hội thông suốt, minh
bạch, rõ ràng cho từng người dân có thể an tâm làm ăn và
được bảo hộ chu toàn trong làm ăn. Chúng ta chưa có một môi
trường như vậy cho sự quản lý có hiệu quả của nhà nước.
Giới đầu tư và kinh doanh nước ngoài mặc dù đánh giá rất
cao sự ổn định chính trị và tiềm năng kinh tế của nước
ta, nhưng còn e ngại rất nhiều về môi trường làm ăn ở
nước ta. Không thay đổi căn bản tình hình nầy, ngay sự kiểm
soát của nhà nước ta đối với mọi quá trình diễn biến
trong xã hội nước ta ngày càng có nhiều hiện tượng "tuột
tay", "chệch hướng".

Hãy thử mổ xẻ tình trạng tham nhũng, tình trạng buôn lậu,
trốn thuế, tình trạng móc ngoặc ở trong nước hoặc với
nước ngoài trong kinh tế, tình trạng chồng chéo ách tắc trong
điều hành và quản lý đất nước, rừng núi tài nguyên bị
tàn phá trong thời bình, môi trường tự nhiên bị xâm phạm
nghiêm trọng, cơ sở hạ tầng nhiều nơi không được gìn
giữ, tình trạng dân kêu oan khiếu nại… chúng ta sẽ có
được những thước đo khả năng chính xác về mức độ báo
động này. Một trong những nguyên nhân chính là những yếu kém
trong nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Phải chăng cho đến nay mọi cố gắng của chúng ta trên mặt
trận nầy còn rất chấp vá, thiếu đồng bộ và chưa đụng
chạm vào những khâu cơ bản nhất – nghĩa là chưa trúng vào
những "nút" cần bấm để thay đổi hẳn tình thế? Xin
nhắc lại rằng những năm trước đại hội VI và sau đó một
ít, chúng ta loay hoay mãi trong việc ổn định giá cả và chống
lạm phát nhưng không kết quả, phải chờ cho đến khi thiết
lập được cơ chế kinh tế trên cơ sở thừa nhận giá trị
thị trường chúng ta mới xoay chuyển được tình hình và đạt
kết quả. Như vậy có việc phải đi tìm những cái "nút"
để xử lý?

Nói một cách khái quát, để tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước, chúng ta phải cùng làm một lúc và trong cùng một
tổng thể những chủ trương chính sách hài hoà cả 3 việc
lớn: kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn hệ thống điều
hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô, hoàn thiện và phát triển
thị trường. Nghĩa là việc tăng cường cơ sở quyền lực
của pháp luật phải gắn liền với việc nâng cao khả năng
điều hành và việc tạo môi trường kinh tế xã hội thuận
lợi cho sự hoạt động hữu hiệu của bộ máy nhà nước.

<h3>Về kiện toàn bộ máy nhà nước.</h3>

Có thể nói rằng hệ thống pháp luật và bộ máy nhà nước
của chúng ta được chú ý cũng cố và phát triển, song hiệu
lực của hệ thống bộ máy nhà nước và năng lực của cán
bộ viên chức còn nhiều mặt không đáp ứng đòi hỏi của
nhiệm vụ. Một hiện tượng rất nghiêm trọng khác là nhiều
cơ quan thuộc bộ máy quản lý nhà nước sa vào các công việc
kinh doanh và những sự vụ của cơ chế "chủ quản", sao
nhãng chức năng chủ yếu là quản lý nhà nước trong lĩnh vực
của mình.

Nói về hệ thống, điều quan trọng nhất là phải làm cho bộ
máy nhà nước vận hành hoàn toàn trên cơ sở hiến pháp và
pháp luật với những chức năng và kỹ năng ngày càng hoàn
thiện, có quyền lực thực chất và hiệu lực mạnh trong toàn
bộ lãnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Đi vào thời
bình xây dựng đất nước và khuyến khích sự năng động của
các thành phần kinh tế cũng như của từng thành viên trong xã
hội, càng đòi hỏi phải có hệ thống nhà nước như vậy,
với yêu cầu phát huy được mọi tiềm năng, nhưng nhà nước
vẫn kiểm soát đầy đủ. <span class="underlined-text">Đã đến
lúc bộ máy nhà nước các ngành và các cấp phải đoạn tuyệt
với cơ chế "chủ quản" và với bất kỳ hoạt động kinh
doanh nào, phải được cải cách để làm đúng chức năng quản
lý nhà nước</span>. Phải xem đó là nội dung chủ yếu của
nhiệm vụ cải cách hành chính.

Chúng ta cần sớm khắc phục những ảnh hưởng còn lại của
phương thức điều hành đất nước trong thời chiến với
những đặc điểm như: cơ chế chính ủy, quyền lực quyết
định tại chỗ, tính địa phương, cơ cấu bộ máy sắp xếp
cán bộ theo yêu cầu chính trị, bộ máy của đảng song trùng
và trên thực tế là có những việc đứng trên hoặc làm thay
bộ máy chính quyền, cơ chế trách nhiệm không rõ ràng và sự
yếu kém về nghiệp vụ do vận dụng nguyên tắc tập thể lãnh
đạo cá nhân phụ trách v.v…

Cũng có thể nói một cách khái quát, phải đẩy mạnh xây
dựng nhà nước pháp quyền với mục đích nâng cao hơn nữa
năng lực quản lý nhà nước của toàn bộ hệ thống bộ máy
quyền lực, đồng thời tạo mọi điều kiện cần thiết cho
việc bảo đảm thực hiện hiến pháp, pháp luật và chủ
trương chính sách của đảng. Yêu cầu nầy đòi hỏi phải
nâng cao khả năng nghiệp vụ và phẩm chất chính trị của các
cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ viên chức trong hệ
thống bộ máy quyền lực nhà nước ở trong tất cả các lĩnh
vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hơn bao giờ hết phải
nâng cao hơn nữa chất lượng thể chế hoá, chính huy hóa đối
với bộ máy chính quyền, cơ chế làm việc và đội ngũ cán
bộ viên chức nhà nước. Đây là đòi hỏi tất yếu bảo
đảm thực hiện mọi chủ trương chính sách của đảng trong
quá trình phát triển ngày càng cao của đất nước. Tình trạng
hiện nay là không ít những chủ trương chính sách đúng đắn
của đảng và luật lệ của nhà nước không thi hành được,
nguyên nhân chính là thiếu yếu tố quyết định vừa nói trên.

Một hướng khác trong đẩy mạnh cải cách hành chính là nên
sớm từng bước thực hiện chế độ đào tạo, bổ nhiệm,
bãi chức đối với cán bộ viên chức trong hệ thống hành
pháp bao gồm cả những chức vụ chủ tịch ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường, xã. Đồng thời cần
tăng cường quyền lực và khả năng hoạt động hữu hiệu
của các cơ quan dân cử – bao gồm quốc hội, hội đồng nhân
dân các cấp với nội dung: chú trọng tăng cường khả năng và
quyền lực lập pháp của quốc hội, tăng cường quyền lực
và khả năng giám sát của hội đồng nhân dân. Không nên nhầm
lẫn coi hội đồng nhân dân là những cấp "lập pháp" địa
phương dưới quốc hội. Cả nước chỉ có một cơ quan duy
nhất có tính năng và quyền lực lập pháp là quốc hội.

Nếu lên một hồ sơ về tổ chức của đảng hiện nay đang xen
vào hệ thống bộ máy nhà nước, chúng ta sẽ thấy nhiều
tầng, nhiều cấp chồng chéo, trên thực tế là làm giảm bớt
sự lãnh đạo của đảng và hiệu lực của bộ máy nhà
nước.

Cần xác định rõ các tổ chức cơ sở đảng trong bộ máy nhà
nước nói trên (Quốc hội, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân
dân các cấp) có nhiệm vụ chính trị hàng đầu là làm cho cơ
quan của đảng bộ mình làm tròn chức năng quyền hạn nhà
nước được giao. Các tổ chức cơ sở đảng không làm thay,
không quyết định thay. Các tổ chức cơ sở đảng vì vậy
cần được đổi mới và tổ chức lại một cách khoa học,
cần được kiện toàn phù hợp với nhiệm vụ chính trị mới
nầy. Công tác đảng cần làm tốt hơn nữa nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo đội ngũ cán bộ viên chức để đưa vào
những cương vị thích hợp thông qua quy chế đào tạo, tuyển
chọn bổ nhiệm, bãi miễn và sa thải rất nghiêm ngặt của
hệ thống chính quyền.

Quan điểm cần thông suốt là hệ thống bộ máy quản lý nhà
nước mạnh, chủ trương chính sách của đảng mới được
thực thi đầy đủ, và như vậy đảng mới mạnh. Đây còn là
phương thức khắc phục tình trạng lộng quyền, coi thường
pháp luật, mất dân chủ, mất đoàn kết, bản vị cục
bộ…khá phổ biến ở một số đảng bộ cơ sở hoặc một
số cấp ủy.

<h3>Về kiện toàn hệ thống điều hành và kiểm soát kinh tế
vĩ mô.</h3>

Điểm mới ở đây là coi nhiệm vụ nầy là một vế không
thể thiếu được trong nâng cao chức năng quản lý nhà nước.
Bởi vì quyền lực của nhà nước chúng ta sẽ không còn hiệu
lực nếu như nhà nước đó không có trong tay hệ thống điều
hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô có hiệu quả. Có lẽ vì
thiếu điều kiện nầy, việc quản lý nhà nước của chúng ta
còn nhiều sơ hở, vừa tăng thêm tính quan liêu đồng thời
vừa kém hiệu quả.

Trong tình trạng phải vận dụng kinh tế thị trường, phát huy
mọi thành phần kinh tế trong xã hội và mở rộng kinh tế
đối ngoại, luật pháp và các quy chế thường không đủ linh
hoạt, không phát triển kịp hoặc không bao trùm hết được
mọi vấn đề, lại càng đòi hỏi phải kiện toàn hệ thống
điều hành và kiểm soát kinh tế vĩ mô.

Yêu cầu trên đòi hỏi:

- Phải tích cực phát triển hệ thống các luật pháp trong đó
gấp rút nhất là luật dân sự (đang soạn thảo) và luật
thương mại.

- Phát triển và hoàn thiện hệ thống tài chánh tiền tệ –
bao gồm cải tổ lại hệ thống thuế và các sắc thuế, hệ
thông kiểm toán, kế toán, mở mang thị trường tà i chánh
tiền tệ (hệ thống ngân hàng thương mại, các thị trường
cổ phần, tín phiếu, chứng khoán…)

- Hoàn thiện thị trường để tăng thêm khả năng làm chủ cơ
chế thị trường.

Điều đáng lưu ý ở đây là đảng ta ít nhiều còn coi những
nhiệm vụ nói trên như một loạt công tác sự nghiệp đơn
thuần, nghĩa là chưa coi đó là nhiệm vụ chính trị phải
quyết tâm thực hiện. Thậm chí còn có ý kiến coi đó là
những vấn đề thuộc về kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đồng
thời cũng phải thẳng thắn nhận xét rằng một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên trong các ngành luật pháp, tài
chính, tiền tệ và trong hàng ngũ quản lý kinh tế, quản lý xí
nghiệp có những nhận thức và hành động không đúng trong cơ
chế kinh tế thị trường do nhà nước ta quản lý.

Cần nhấn mạnh rằng muốn thực hiện phát triển kinh tế có
định hướng, bắt buộc phải có hệ thống điều hành và
kiểm soát nầy, nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN
càng đòi hỏi như vậy. Nếu không, tính chất tự phát, vô
chính phủ và những hệ quả xấu khác của kinh tế thị
trường là không thể kiểm soát được.

<h3>Về hoàn thiện và phát triển thị trường.</h3>

Đây cũng là một vấn đề nhấn mạnh và cần thực hiện gắn
liền với quá trình tăng cường quản lý nhà nước, nhằm tạo
thêm một tiền đề kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng
để thực thi mọi luật pháp và thể chế của nhà nước.

Yêu cầu tối thượng của vấn đề nầy là cuối cùng mọi
hoạt động kinh tế của bất kỳ ai trong xã hội nước ta
đều chịu sự cọ sát, sàng lọc của một thị trường rõ
ràng, lành mạnh, được nhà nước kiểm soát, dẫn dắt bằng
pháp luật, bằng các chế tài và bằng các biện pháp khuyến
khích. Một nền kinh tế mạnh đòi hỏi phải có một thị
trường hạn chế được xuống mức thấp nhất các hiện
tượng đầu cơ, cửa quyền, độc quyền, kinh tế ngầm, các
ma-phi-a, sàng lọc các hoạt động kinh tế kém hiệu quả, cung
cấp những tín nhiệm hữu ích cho mọi quyết định của từng
thành viên kinh tế trong xã hội, có khả năng huy động mạnh
mẽ nguồn lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Với ý nghĩa nói trên, càng kiên trì định hướng XHCN, càng
phải hoàn thiện và phát triển thị trường, càng phải đẩy
mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội ra thị trường,
không thể có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào (trừ một
số hoạt động kinh tế phục vụ sự nghiệp, hạ tầng cơ
sở, an ninh quốc phòng). Cũng vì lẽ nầy cần sớm xoá bỏ sự
phân biệt hoặc sự hình thành các loại hình như: kinh tế dân
sự, kinh tế đoàn thể, kinh tế đảng, kinh tế các lực
lượng vũ trang v.v…

Không có một thị trường và một chính sách về thị trường
như vậy, sự kiểm soát của nhà nước sẽ kém hiệu quả, nguy
cơ chệch hướng sẽ tăng lên, và kinh tế sẽ sớm đi vào trì
trệ, ách tắc.

Đương nhiên yêu cầu về thị trường nêu trên đòi hỏi phải
có bộ máy hành chính có năng lực, hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn thiện và hệ thống các chính sách điều hoà điều
tiết đủ sức duy trì sự phát triển cân bằng, ổn định
bảo đảm phát triển phúc lợi xã hội. Mang danh là nhà nước
XHCN, nhà nước ta càng phải thực hiện tốt những đòi hỏi
nầy.

Với tinh thần và nội dung vừa trình bày, chúng ta nên coi 3
khâu công tác nói trên (kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện
toàn cơ chế điều hành vĩ mô, phát triển thị trường) là
một tổng thể hữu cơ của nhiệm vụ tăng cường năng lực
quản lý nhà nước.

<h2>4- Xây đựng đảng.</h2>

Có thể nói dự thảo báo cáo đánh giá khá đầy đủ những
ưu điểm lớn trong nhiệm vụ cực kỳ hệ trọng là xây đựng
đảng. Cần nhấn mạnh bản lĩnh của đảng ta, trước hết
thể hiện qua sự vững vàng trước những biến động sâu sắc
trên thế giới trong hai thập kỷ vừa qua và những thành tựu
giành được trong sự nghiệp đổi mới. Cần khẳng định
điều nầy để tự tin, để nâng cao hơn nữa ý chí cách mạng
và tinh thần đổi mới.

Song chúng ta đang đứng trước thực tế là tính tiền phong
chiến đấu của đảng viên và của các tổ chức cơ sở
đảng có nhiều mặt giảm sút, nhiều tổ chức cơ sở đảng
chỉ hoạt động hình thức, hoặc tê liệt, thoái hóa. Quan hệ
giữa đảng và dân ngày càng có nhiều vấn đề. Chàà- nào
cũng có đảng viên, song tình trạng bê bối, tiêu cực ở các
ngành, các địa phương khá phổ biến.

Những hiện tượng nầy đang thách thức trực tiếp vai trò
lãnh đạo của đảng.

Đại hội VIII cần đem lại một động lực mới thực sự
thúc đẩy sự chỉnh đốn và khả năng tự đổi mới của
đảng. Bên cạnh việc rèn luyện ý chí cách mạng, cần đặc
biệt phát huy dân chủ trong đảng, để đẩy mạnh đấu tranh
chống những thoái hóa, để phát huy sức sống mới và trí
tuệ mới của toàn đảng, đặc biệt là để có cơ sở vững
chắc cho sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn đảng
và trong mọi cấp ủy.

Dưới đây xin nêu lên một số vấn đề đáng lưu ý nhất
trong nhiệm vụ xây dựng đảng.

<h3>a) Xây dựng đảng về đường lối</h3>

Có thể nói đây là nhiệm vụ hàng đầu. Có đường lối
đúng sẽ có tất cả. Không nên tiếp tục cách suy nghĩ chỉ
đơn thuần quy mọi nhiệm vụ, mọi mục tiêu không thực hiện
được hoặc thực hiện không tốt cho việc thực hiện đường
lối chưa tốt.

Hơn thế nữa, cách mạng VN đang chuyển sang một giai đoạn
mới, diễn ra trong một bối cảnh quốc tế hoàn toàn thay đổi
so với thời kỳ còn tồn tại hệ thống thế giới XHCN, đòi
hỏi đảng ta bắt buộc phải đề ra đường lối mới thích
hợp. Trước hết là dựa trên cơ sở nhận định tình hình
mới, đảng ta cần xác định chính xác những nhiệm vụ phải
thực hiện, tính toán việc huy động lực lượng, và tổ chức
thực hiện, xác định những thách thức phải vượt qua.

Thực ra chúng ta đã bắt đầu công việc nầy và đề ra
đường lối đổi mới. Sắp tới chúng ta phải tập trung
nhiều công sức cho việc tạo ra động lực phát triển từ bên
trong của đất nước.

Vì lẽ đó, đổi mới chỉ là bước đầu của quá trình xây
dựng một đường lối mới phù hợp.

Trước mắt, có thể nói khái quát: mục tiêu chiến lược của
chúng ta là thực hiện công nghiệp hoá đất nước theo định
hướng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng
và văn minh.

Chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ chiến lược ấy trong bối
cảnh quốc tế không có sự tồn tại của hệ thống thế
giới XHCN; nước ta phải cọ sát, đương đầu cạnh tranh với
cả thế giới, nhưng đồng thời cũng có cơ hội mở rộng quan
hệ kinh tế với cả thế giới, có điều kiện tạo ra tập
họp lực lượng mới. Bên cạnh thách thức kinh tế rất gay
gắt, nước ta phải đương đầu với những thách thức quân
sự và chính trị có lúc rất nhậy cảm và tế nhị.

Có thể nói, đặc điểm nổi bật là nước ta hiện nay phải
một mình đương đầu với tất cả, đồng thời cũng có khả
năng tạo ra tập họp lực lượng bên ngoài hoàn toàn mới.

Để giành được thắng lợi, chúng ta phải huy động mức độ
cao nhất sức mạnh của toàn thể dân tộc ta và phải tập
họp được lực lượng rộng rãi nhất trên trường quốc tế.
Chỉ có như vậy nước ta mới tự bảo vệ được mình, tranh
thủ được thời gian và khả năng sớm vươn lên thành quốc
gia già u mạnh. Chỉ có như vậy, mới giữ được độc lập
tự chủ, bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, thoát khỏi hiểm
họa tụt hậu, bảo vệ được thành quả cách mạng và chế
độ XHCN.

Vì những lẽ trên, động lực để thực hiện nhiệm vụ
chiến lược nầy là hun đúc tinh thần quật khởi dân tộc và
thực hiện mạnh mẽ dân chủ. Điều nầy chẳng những không
trái, mà còn là tiền đề không thể thiếu được cho thực
hiện định hướng XHCN ở nước ta. Đó chính là thực tiễn
cách mạng VN trong bối cảnh quốc tế mới.

Bây giờ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là
nói với nội dung như vậy. Bởi vì, không tạo ra được thực
lực nầy, sẽ không còn độc lập tự chủ và cũng không có
định hướng XHCN.

Trên chặng đường mới nầy của đất nước, hơn bao giờ
hết là đảng cầm quyền, đảng ta cần giương cao ngọn cờ
dân tộc và dân chủ. Đảng ta là lực lượng chính trị có
đủ tư cách nhất và uy tín cao nhất để làm trọng trách
nầy, nhất thiết không để ai nắm lấy. Đảng ta chẳng những
phải phấn đấu vươn lên làm đội tiên phong của giai cấp,
mà còn phải trở thành bộ phận tinh hoa nhất, tiêu biểu cho
trí tuệ, nghị lực và phẩm chất cao quý của toàn thể dân
tộc VN ta bao gồm cả toàn thể cộng đồng người VN ở nước
ngoài đang hướng về tổ quốc.

Phải chăng đây chính là một tư tưởng lớn, là nội dung cốt
lõi của nhiệm vụ xây đựng đảng mà đại hội VIII cần làm
rõ, là kim chỉ nam xây dựng đường lối và mọi chủ trương
chính sách mới của đảng.

<h3>b) Xây dựng đảng về tổ chức</h3>

Có thể nói nhiệm vụ cách mạng VN chuyển sang giai đoạn phát
triển mới, với những đặc điểm mới như đã trình bày trong
những phân tích nêu trên. Song tổ chức của đảng về cơ cấu
vẫn giữ như thời chiến. Đã đến lúc cần xem xét những gì
có thể duy trì và nâng cao thêm, những gì cần cải tiến hay
loại bỏ trong công tác xây dựng đảng về tổ chức cho phù
hợp với những nhiệm vụ và đòi hỏi mới.

Ưu điểm cần phát huy là đảng ta có một hệ thống tổ chức
cách mạng, chẳng những đáp ứng nhu cầu lãnh đạo thắng
lợi trong chiến tranh, mà còn đủ năng lực đưa đất nước
vào thời kỳ đổi mới. Trên phương diện tổ chức, chúng ta
cần nghiên cứu sâu, tìm hiểu những nguyên nhân và yếu tố
gì đã giúp cho đảng ta chuyển mình được, đổi mới tư duy,
đổi mới phương thức hoạt động, đem lại những thành quả
chẳng những tránh cho đất nước khỏi sụp đổ trong cuộc
khủng hoảng ác liệt vừa qua của hệ thống thế giới xã
hội chủ nghĩa, mà còn mở ra triển vọng chưa từng có của
sự nghiệp phát triển nước ta. Có thể nói, chúng ta chưa
nghiêm túc làm tốt việc nghiên cứu, đúc kết những kinh
nghiệm của vấn đề có ý nghĩa sống còn nầy.

- Một vấn đề bức xúc khác đang đạt ra là: trong tình hình
đòi hỏi phải tăng cường nhà nước pháp quyền (của dân, do
dân và vì dân), mở rộng dân chủ để phát huy tối đa sự
năng động của các thành phần kinh tế trong cơ chế thị
trường, đảng ta cần được đổi mới và tăng cường về
mặt tổ chức như thế nào? Chúng ta chưa nghiên cứu sâu vấn
đề nầy. Có lẽ không thể đơn thuần tiếp tục duy trì tổ
chức và phương thức sinh hoạt các tổ chức cơ sở đảng như
hiện nay, bởi vì đã xuất hiện tình trạng đảng hầu như
không có mặt hoặc không thâm nhập sâu được vào nhiều hoạt
động kinh tế xã hội mới phát triển; hoặc tác dụng kiểm
tra nắm bắt của đảng đối với những hoạt động rất yếu
nầy, chưa thỏa đáng. Hiện nay, trong nông nghiệp kinh tế hộ
giữ vai trò chủ yếu, lực lượng kinh tế các thành phần
ngoài quốc doanh chiếm tới 60% GDP, cơ chế thị trường còn
nhiều mảng nằm ngoài pháp luật, các hoạt động xã hội, văn
hoá – lành mạnh và không lành mạnh, các hoạt động giao lưu
với bên ngoài đang nở rộ… Vai trò và tác dụng thực chất
của đảng đối với những phát triển này như thế nào?

- Chúng ta khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng
CSVN. Điều nầy đòi hỏi một mặt phải tăng cường khả năng
lãnh đạo của đảng, mặt khác phải tạo ra được cơ cấu
chính trị và môi trường xã hội đủ sức ngăn chặn xu thế
quan liêu, độc đoán, mất dân chủ, xu thế xem thường và
đứng trên pháp luật. Hơn thế nữa, vai trò lãnh đạo của
đảng cần được tăng cường trên cơ sở mở rộng dân chủ
trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của toàn xã hội.
Như vậy tổ chức và phương thức sinh hoạt đảng cần phải
được cải tiến như thế nào cho phù hợp? Mối quan hệ giữa
đảng và nhà nước, giữa đảng và các đoàn thể nhân dân
cần được thiết kế lại như thế nào?

Đảng ta là đảng cầm quyền với nghĩa lãnh đạo đất nước
dựa trên quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
song nhất thiết không là m thay. Một đòi hỏi rất khó phải
thực hiện là: đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng phải
đi đầu trong việc giữ gìn trật tự kỷ cương, nhưng lại
phải biết phát huy sự năng động và khả năng sáng tạo của
nhân dân theo định hướng của đảng. Đảng cần đặc biệt
quan tâm nâng cao dân trí, giáo dục, phát huy và bảo vệ quyền
công dân để phát huy sức mạnh của cả nước. Đó là sức
mạnh của chính đảng ta, là con đường tiếp tục duy trì và
tăng thêm sự chấp thuận tự nguyện của nhận thức sâu sắc
nhất của toàn dân đối với vai trò lãnh đạo của đảng ta
mà tình hình nhiệm vụ mới đòi hỏi, đồng thời là một
trong những yếu tố quan trọng bảo vệ đảng.

- Chúng ta thảo luận nhiều về nguyên tắc "dân chủ tập
trung", hoặc "tập trung dân chủ". Tôi đề nghị bỏ cách
suy nghĩ rất công thức như vậy. Nên chăng khẳng định lại
một cách không thể hiểu lầm như sau: Để huy động trí tuệ
của toàn đảng và bảo vệ sự trong sáng trong đảng, cần
phải triệt để dân chủ; đồng thời để bảo đảm sức
chiến đấu của đảng mọi đảng viên phải tuyệt đối tuân
theo điều lệ và phục tùng các nghị quyết của đảng. Tổ
chức và phương thức sinh hoạt đảng cần được đổi mới
nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nầy. Trong thực tiễn hiện nay,
đảng ta đang đứng trước yêu cầu phải đẩy mạnh đấu
tranh chống các hiện tượng vô tổ chức vô chính phủ, cực
bộ bản vị (đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế), đồng thời
nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc dân chủ trong đảng.

Có thể nói công tác nghiên cứu đường lối chính sách, nghiên
cứu tình hình và con đường phát triển của đất nước, công
tác bồi dưỡng đảng viên, công tác tuyển chọn, bố trí cán
bộ… của chúng ta hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao vai
trò lãnh đạo của đảng. Hiện nay nếu nhìn vào lịch sử quá
trình hình thành sự nghiệp đổi mới, chưa thể nói đảng ta
thực sự đi tiên phong về mặt tư duy, đang đào tạo ra đủ
và bố trí được lực lượng cán bộ xuất sắc theo kịp đòi
hỏi của đất nước; cũng chưa thể nói trình độ tư tưởng,
lý luận của tuyệt đại đa số đảng viên phù hợp với
những đòi hỏi mới của nhiệm vụ cách mạng. Tiếp tục công
tác đào tạo và bố trí cán bộ như hiện nay còn tăng thêm
nguy cơ cục bộ, địa phương chủ nghĩa và cắt cử, tăng thêm
tính cơ hội dựa dẫm hoặc nguy cơ bè phái trong đảng, khó là
m bộc lộ và đào tạo nhân tài, khó tạo ra sinh lực mới cho
những đảng bộ hoặc tổ chức cơ sở đảng yếu kém… Chúng
ta phải nhìn thẳng vào những mặt còn thiếu sót để tự
chỉnh đốn, tự vươn lên.

Có thể kết luận, trên con đường đi lên đầy gian khổ và
thử thách của đất nước, phải chăng cái khó nhất hiện nay
là tình trạng trình độ, phẩm chất cán bộ đảng viên chưa
theo kịp sự phát triển của đất nước?

Tình trạng bất cập với đòi hỏi của nhiệm vụ là nguy cơ
lớn đối với đảng. Cần gấp rút sắp xếp, cải tiến các
ban, viện của đảng. Đặc biệt cần nhấn mạnh giáo dục cho
đảng viên chủ nghĩa yêu nước với nội dung sớm làm cho
đất nước già u mạnh, cần nâng cao ý chí của đảng viên
phấn đấu thực hiện các mục tiêu của đảng, trau dồi
những tri thức mới mà nhiệm vụ mới của đảng đòi hỏi.

Hơn bao giờ hết, nâng cao năng lực lãnh đạo và phẩm chất
cách mạng của đảng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước
của chúng ta là hai nhân tố quyết định nhất để nắm lấy
thời cơ đang đến với đất nước.

Xin trình bày để các anh tham khảo.

Võ Văn Kiệt

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7690), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét