nên nỗi</a></em>" của Lữ Phương, tác giả "<em>xin hưởng ứng
bằng những ghi chép điều mình quan sát được</em>".
<h2>I. "VÌ ĐÂU NÊN NỖI?"</h2>
Hiện nay, cả xã hội đang hết sức bức xúc trước tình
trạng đạo đức băng hoại. Nhà thơ Đỗ Trung Quân viết:
"<em>Làm từ thiện cũng thích nói dối; Lu loa trên truyền thông
với gương mặt của 'con giả vờ'</em>". Giáo sư Tương Lai
cho rằng quốc nạn tham nhũng và nhiều vấn đề xã hội nghiêm
trọng khác không nguy hại bằng thói đạo đức giả. Giáo sư
đưa ra phương thuốc của cố Thủ tướng Phạm văn Đồng đã
cho từ năm 1999: "<em>Tình hình nguy kịch không thể coi
thường... Cần thấy hết tình hình rút ra kết luận nghiêm
khắc với ý chí cách mạng tiến công</em>". Rất tiếc, cụ
Đồng không cho biết cần phải tiến công vào đâu! Nhà văn Võ
thị Hảo đi "<em>Tìm thủ phạm 'ám sát' văn hiến</em>", đã
nhận diện được: "<em>Với cây quyền trượng trong tay, những
người lãnh đạo có thể xây dựng văn hiến, hoặc nhanh chóng
ám sát văn hiến</em>". Mới đây, nhà nghiên cứu Lữ Phương có
bài viết "<em><a href="http://danluan.org/node/7195">Vì đâu nên nỗi?
Tác động văn hoá của "đổi mới" xét như một mô thức phát
triển</a></em>", đã phân tích sâu sắc "<em>cái mô thức mệnh
danh "đổi mới" nói trên rõ ràng đã không còn phù hợp nữa...
mô thức đó cũng tạo ra quá nhiều hỗn loạn và mất mát trong
lĩnh vực tinh thần, phá vỡ lòng tin của con người về những
giá trị nhân văn phổ biến, về niềm tự trọng dân tộc
chính đáng, xâm phạm đến lợi ích tối thượng của quốc
gia</em>"[1]. Ông cho rằng có thể bị cho là động đến vấn
đề nhạy cảm, nhưng "<em>nếu không dấy lên được một phản
ứng thức tỉnh</em>" thì có "<em>nguy cơ rơi vào một hình thức
lệ thuộc kiểu thực dân mới nào đó về văn hoá, hoặc một
cái gì tương tự tinh vi hơn, không thể loại trừ là không
xảy ra</em>". Nhận thức sự hệ trọng của điều ông cảnh
báo, tôi xin hưởng ứng bằng những ghi chép điều mình quan
sát được.
Nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng văn hoá. "<em>Văn
hoá biểu hiện trong lý tưởng sống, trong các quan niệm về
thế giới và nhân sinh, tín ngưỡng, đạo đức, trong lao động
và đấu tranh, trong tổ chức đời sống, tạo dựng xã hội,
thể hiện lý tưởng thẩm mỹ. Có thể tìm thấy biểu hiện
của văn hoá trong các phương thức và công cụ sản xuất,
phương thức sở hữu, các thể chế xã hội, phong tục tập
quán, giao tiếp giữa người và người, trong trình độ học
vấn và khoa học kỹ thuật, trong trình độ sáng tạo và
thưởng thức văn học nghệ thuật</em>" (Từ điển Bách khoa
Việt Nam). Cuộc khủng hoảng văn hoá bắt đầu từ sau ngày
thống nhất nước nhà năm 1975, khi mọi người dân thất vọng
vì những lý tưởng cao đẹp hoà bình, thống nhất, độc lập,
tự do, hạnh phúc, hoà giải, hoà hợp dân tộc đã không
được như mong muốn.
Với đường lối tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, Nhà nước chuyên chính vô sản đã thực
hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa toàn diện về kinh tế, văn
hoá, xã hội. Hàng vạn cán binh chế độ Sài Gòn cũng phải
tập trung cải tạo. Cuộc xáo động quá lớn đã xua hàng
triệu người, từ những nhà tư sản dân tộc, tiểu thương,
tiểu chủ, cho đến những người dân cày xưa kia bom đạn
không đẩy nổi họ rời mảnh ruộng quê, vậy mà nay cũng kéo
nhau ùn ùn vượt biển. Tiếp theo đó, 2 cuộc chiến biên giới
Tây Nam và phía Bắc, thúc đẩy nhanh cuộc khủng hoảng toàn
diện trùm lên đất nước. Các văn kiện của Đảng cộng sản
gọi đó là "<em>khủng hoảng kinh tế - xã hội</em>". Lạm phát
ba con số. Cả nước nhai bo bo. Truyện tiếu lâm mới, ca dao
mới lan tràn, ông Trần Ta-bit đã sưu tầm thành một tập sách.
Xin nhắc lại mấy câu:
"<em>Tông Đản là chợ vua quan.</em>
<em>Nhà thờ là chợ trung gian nịnh thần,</em>
<em>Bắc Qua là chợ thương nhân,</em>
<em>Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.</em>"
Và:
"<em>Bác Hồ chết nhằm ngày trùng,</em>
<em>Cho nên con cháu dở khùng dở điên.</em>
<em>Thằng khôn thì đã vượt biên;</em>
<em>Những thằng ở lại toàn điên với khùng</em>".
Các nhà văn đã sớm thổ lộ tâm tư dằn vặt. Chế Lan Viên
nhận rằng niềm tin của mình là "Bánh vẽ". Nguyễn Đình Thi
thấy mình vướng nhiều "Đồ bỏ". Nhà thơ trẻ Phạm thị
Xuân Khải viết Mùa xuân nhớ Bác đăng trên báo Tiền Phong:
"<em>Có mắt giả mù, có tai giả điếc.</em>
<em>Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung,</em>
<em>Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ,</em>
<em>Thoái hoá, bê tha khi dân, nước gian nan</em>"...
Đại hội 6 của Đảng quyết định Đổi mới, bắt đầu là
đổi mới tư duy và trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.
Sau đó, tuy có nói phải đổi mới toàn diện nhưng từ năm 1991
đã bị chựng lại sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Vượt qua những cấm kỵ của nguyên lý kinh tế xã hội chủ
nghĩa (chấp nhận kinh tế thị trường; để nhiều thành phần
kinh tế cùng tồn tại; thực hiện khoán 100 trong nông
nghiệp...) nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, phát triển nhanh
chóng. Nhân dân vui mừng, phấn khởi. Nhưng do đổi mới không
đồng bộ, cho nên các căn bệnh của khủng hoảng văn hoá vẫn
âm ỉ không hề dứt. Chính trị chậm đổi mới, mâu thuẫn
tăng lên, khiến cho khủng hoảng văn hoá bùng phát. Tham nhũng
từ là "quốc nạn" đã trở thành "ung thư". Lý tưởng xã hội
chủ nghĩa làm bình phong cho "lý tưởng kiếm tiền". "Mình vì
mọi người" trở thành "tất cả vì mình". Niềm tin giả vờ.
Dân chủ, tự do, công bằng cũng đều giả vờ. Đày tớ của
nhân dân là những kẻ hành dân. Một dân tộc từng có câu
châm ngôn cao cả "Thương người như thể thương thân", nhưng
tháng 9 năm 2010, Quỹ từ thiện Anh và Viện Gallup xếp hạng
chỉ số thiện nguyện của Việt Nam đứng hạng thứ 138 trên
153 quốc gia (vẫn còn vinh dự là đứng trên nước Trung Hoa
của hiền triết Khổng Khâu từng dạy lấy chữ nhân làm
đầu!). Sau vụ buôn lậu, ăn cắp của nhân viên Việt Nam
Airlines, người Nhật chửi rủa người Việt Nam là "bọn dòi
bọ". Các nhà hàng Singapore ở phòng ăn buffet chỉ thông báo
bằng tiếng Việt: "Xin lấy thức ăn vừa đủ!".
Bạn bè Nhật Bản và khách nước ngoài đã từng chứng kiến
những người Việt Nam lao vào giành giật, giẫm đạp nhau, gây
ra "thảm hoạ hoa Anh đào". Mới đây, sau lễ hội 1000 Thăng
Long, khắp Hà Nội là những bãi rác khổng lồ, nhà văn Nguyên
Ngọc viết : "<em>Không khác nhau giữa cái diêm dúa, phô trương,
ồn ĩ, xa xỉ, phản cảm, cả vô cảm nữa (trước đại lũ
miền Trung) của lễ hội... với cái bừa bãi xấu xa đáng
buồn ngay sau lễ hội. Cái này chỉ là tiếp tục logic của cái
kia</em>".
Nhà thơ Trần Ái Dân viết về sa đoạ đạo đức:
"<em>Thời buổi thế này là thế nào hả trời,</em>
<em>Làm xịt lốp xe, đinh rải đầy đường sá.</em>
<em>Giữa phố đông, người rạch mặt người.</em>
<em>Khách tàu hỏa tha hồ ăn đá.</em>
"...
"<em>Đến cục cứt cũng là cứt rởm.</em>
<em>Nông phu phải miết tay, phải ngửi kiểm tra.</em>
<em>Thời buổi thế này là thế nào hở trời,</em>
<em>Trò giữa lớp phang thày; Con nện cha trước bàn thờ
tổ</em>"
"...
"<em>Xương trâu bò thế xương liệt sĩ.</em>
<em>Trâu bò lên ngôi Tổ quốc ghi công</em>"
Có người lo lắng viết: "<em>Vô đạo đức đang trở thành dân
tộc tính</em>". Tháng 9 năm 2010, trong lễ trao giải cuộc thi
"Văn học tuổi 20" ở thành phố Hồ Chí Minh, nhà văn trẻ Hải
Miên đoạt giải 3, đã phát biểu như sau:
"<em>Chúng ta đang sống trong một thời đại đổ vỡ, nơi
khủng hoảng những giá trị, những niềm tin va đập không
ngừng, cùng những cách nhìn về xã hội Việt Nam trong giai
đoạn những giá trị chuẩn mực thì đã cũ, còn những giá
trị mới thì chưa hình thành. Sống trong giai đoạn như thế
đôi khi có cảm giác không còn điều gì thiêng liêng, nguyên
vẹn và có cảm giác đau đớn. Tôi nương vào chữ để mở
cửa thoát hiểm cho mình</em>".
Có lẽ đó cũng là tâm trạng của số đông người trẻ tuổi
Việt Nam có tri thức, có lương tri. Những người lãnh đạo xa
cuộc sống, lúc nào cũng nói to về lòng tự hào, về phẩm
chất anh hùng của dân tộc từ xa xưa rất cần lắng nghe, để
biết phải làm gì hòng cứu nguy cho phẩm chất Việt Nam.
Tại sao người Việt Nam sa doạ đến như vậy? Engels, trong lời
tựa cho bản Tuyên ngôn của đảng cộng sản xuất bản bằng
tiếng Đức năm 1883, đã viết:
"<em>Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của bản Tuyên ngôn là:
Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu
xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà
ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị
và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy</em>".
Nhiều luận điểm trong Tuyên ngôn, sau đó chính Marx và Engels
cho rằng đã lỗi thời, tuy nhiên cái "tư tưởng cơ bản" nói
trên vẫn còn nguyên giá trị, nó cho ta hiểu rằng, nền kinh
tế thị trường phát triển đòi hỏi phải có một cơ cấu xã
hội tương ứng. Nếu nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
tương thích với cơ cấu chính trị chuyên chính vô sản, nhà
nước toàn trị, thì nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải
có nhà nước pháp quyền (với tam quyền phân lập chứ không
phải quyền lực thống nhất, phân công ba quyền, dưới sự
lãnh đạo của Đảng), phải xây dựng xã hội công dân, thực
hiện tự do, dân chủ, nhân quyền.
Do cố giữ những điều phi lý, cố tìm đường đi "chưa từng
có tiền lệ" mà lớp trẻ thông minh, có học, nhận ra những
điều nhà cầm quyền cho rằng thiêng liêng cao cả, khi đặt
vào thực tế cuộc sống sẽ hiện ra là giả dối. Giáo sư
Tương Lai chỉ mới nói tới cái giả dối "thứ cấp", chứ
chưa phải cái gốc, mẹ đẻ của mọi thứ giả dối. Đó là:
- Nói chúng ta kiên trì chủ nghĩa xã hội, nhưng ai cũng thấy
chủ nghĩa tư bản hoang dã đang lồ lộ, ngang nhiên.
- Nói giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng chính
người công nhân cũng không thể tin được, bởi vì họ nhận
rất rõ thân phận mình, đi tìm nơi xin được việc làm đã
khó, khi có việc làm rồi thì nhận đồng lương chết đói,
muốn đình công để đòi hỏi quyền lợi thì không thấy một
tổ chức đủ tin cậy để mà gửi gắm, tự tổ chức đình
công bị coi là bất hợp pháp!
- Nói đảng viên là những người lo trước thiên hạ và vui sau
thiên hạ, nhưng sờ sờ trước mắt nhân dân là họ vui trong
nhà chưa đủ, còn vui thâu đêm ở các nhà hàng bia ôm.
Có lẽ người nói về cái giả dối "gốc" sâu sắc nhất là
nhà văn Nguyễn Khải, đảng viên 60 tuổi đảng, nhà văn
được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu, trong tùy bút
chính trị cuối cùng "<em>Đi tìm cái tôi đã mất</em>":
"<em>Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn
biết nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì, vì không
một ai tin, nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về
dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là
người làm chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ
là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối
lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ, vì
người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu
giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả
hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ
gặp tai hoạ, nên không hỏi gì cũng là một phép giữ
mình</em>".
Làm gì để không còn những cái giả dối mà nhà văn Nguyễn
Khải đã nhận ra ?
<h2>II. KHÔNG PHẢI LỦNG CỦNG MÀ LÀ ĐẶT Ý THỨC HỆ TRÙM LÊN
VĂN HOÁ.</h2>
Ông Trần Trọng Tân, nguyên Trưởng ban tuyên giáo trung ương,
ngày 8 - 10 - 2010, có bài viết trên Tuần Việt Nam: "<em>Định
nghĩa văn hoá trong dự thảo Cương lĩnh lủng củng</em>". Ông
nhắc lại Nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng,
Khoá 8, ngày 16-7-1998 định nghĩa nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc có nội dung:
"<em>Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Marx
- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc và phát triển phong phú, tự do toàn diện
của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và công
đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về
nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các
phương tiện chuyển tải nội dung.</em>"
"<em>Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun
đắp qua lịch sử ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước.</em>"
Ông Trần Trọng Tân cho rằng "<em>Nền văn hoá Việt Nam ở
thời nào cũng có tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của
thời ấy, không phải đến văn hoá xã hội chủ nghĩa mới mang
tính tiên tiến và bản sắc dân tộc</em>".
Ông đề nghị gọi tên là "<em>Nền văn hoá Việt Nam vì độc
lập tự do hạnh phúc, vì hoà bình hữu nghị.</em>" Tôi hiểu ý
ông Trần Trọng Tân và đồng tình với ông nhiều điểm. Nhưng
vấn đề không giản đơn như ông nghĩ.
Năm 1943, ông Trường Chinh viết Đề cương văn hoá Việt Nam,
đưa ra nội dung Dân tộc, Khoa học, Đại chúng dựa theo Mao
Trạch Đông thời Diên An, đề cao văn hoá công nông, tức là
văn hoá phải có tính giai cấp. Sau cách mạng Tháng Tám, Nguyễn
Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi viết chung quyển Một nền văn
hoá mới tuy dựa vào Đề cương văn hoá của Trường Chinh,
nhưng dẫn giải không quá nặng ý thức hệ:
"... <em>Nhà ở mới, cách ăn mặc mới sẽ sửa đổi cho giản
dị và hợp vệ sinh mà không mất vẻ đẹp riêng của dân tộc
; Ngôn ngữ mới, cử chỉ mới sẽ biểu lộ một tinh thần tự
cường và trọng bình đẳng, tự do mà không kém vẻ thanh nhã ;
Xã giao mới sẽ giản dị hơn, thành thực hơn; Lễ nghi mới
trong nhà hay ngoài xã hội cũng sẽ trang nghiêm hơn, sơ sài hơn,
mạnh mẽ hơn, có ý nghĩa hơn và hợp với điều kiện sinh
hoạt mới hơn</em>"...
Nội dung Nền văn hoá mới tuy do hai nhà lãnh đạo văn hoá
thời ấy viết ra, nhưng không được coi là tiếng nói chính
thức của Đảng và nó chưa thực hiện được bao nhiêu thì
tiếng súng kháng chiến đã nổ.
Năm 1948, tại Đại hội Văn hoá toàn quốc lần thứ 2, thành
lập Hội Văn hoá cứu quốc Việt Nam, ông Trường Chinh đã
đọc bài diễn văn có tựa đề "<em>Chủ nghĩa Marx và vấn
đề văn hoá Việt Nam</em>" đặt yêu cầu chính trị bao trùm
lên nền văn hoá.
Từ năm 1950 trở đi những nguyên lý văn hoá vô sản dần dần
chi phối nền văn hoá Việt Nam. Theo hai quyển hồi ký của nhà
văn Võ Văn Trực (Chuyện làng ngày ấy và Cọng rêu dưới đáy
ao) thì ở Nghệ An quê ông, người ta phá đình chùa, tập thể
hoá cả mồ mả ông bà, sửa đổi phong tục tập quán bị coi
là hủ lậu. Ở các vùng khác chưa ai viết ra, nhưng nói chung
cũng na ná như vậy. Đến sau 1975, những người lãnh đạo văn
hoá ở Thừa Thiên Huế còn dùng nội cung cố đô Huế làm kho
giấy và cho phá bỏ Đàn Nam Giao khiến lòng dân bức xúc có
nhiều câu ca dao phản đối.
Sau Đổi mới, với chủ trương khôi phục cơ chế thị
trường, chấp nhận nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là
kinh tế tư nhân đã đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng
và phát triển vượt bậc. Tuy nhiên tự do kinh tế làm cho nền
chính trị chậm đổi mới ngày càng bộc lộ những bất cập
kéo theo những bất cập về văn hoá, giáo dục...
Năm 1992, nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang, trong bài "<em>Nhìn
nhận thực trạng văn hoá Việt Nam hiện nay</em>" đã viết:
"<em>Cuối cùng, còn một đặc trưng hết sức quan trọng nữa
của khủng hoảng văn hoá ở nước ta hiện nay (nói là cuối
cùng, nhưng về ý nghĩa lại đứng hàng đầu). Đó là sự hoà
lẫn văn hoá và chính trị, trong đó chính trị vừa trực tiếp
quyết định văn hoá, vừa bao trùm lên cả văn hoá. Trong các
xã hội công dân, chính trị chỉ là một lĩnh vực của đời
sống xã hội, chỉ tác động đến các quan hệ giữa nhà
nước và người dân. Các lĩnh vực của đời sống xã hội
cũng chịu ảnh hưởng của chính trị đến một mức độ nào
đó, và đến lượt chúng, lại tác động ngược lại đối
với chính trị, nhưng mỗi lĩnh vực lại có tính độc lập
riêng. Đặc biệt văn hoá là lĩnh vực có tính độc lập cao
hơn cả. Nhưng trong xã hội nước ta, văn hoá phụ thuộc hoàn
toàn, hoặc gần như hoàn toàn vào chính trị. Nói như vậy có
nghĩa là khủng hoảng văn hoá không tách rời khỏi đời sống
chính trị của xã hội. Chúng tôi không bàn tới tất cả
những vấn đề có liên quan tới mối quan hệ này, mà chỉ nêu
bật lên một điểm : Hệ tư tưởng chính trị của Đảng
Cộng sản từ lâu đã được nhiều người coi là giá trị
chính thống của mình, nó đảm nhận vai trò "chất kết dính "
xã hội, thống nhất xã hội trong một thời gian tương đối
dài, nhất là trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hệ tư
tưởng đó cũng đang khủng hoảng sâu sắc trước những
chuyển biến sâu sắc của xã hội</em>".
Thực trạng văn hoá Việt Nam theo nhận xét của Nguyễn Kiến
Giang 18 năm trước đã không thay đổi đáng kể, bởi định
nghĩa từ Nghị quyết 5, cũng như cách lãnh đạo văn hoá mà
ông Trần Trọng Tân nhắc lại với ý không đồng tình, vẫn
không được thay đổi.
Vậy nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm gì
khiến cho nó không tương thích với cuộc sống của một xã
hội đổi mới và hội nhập quốc tế ?
<h3>1 - Đặt ý thức hệ lên trên đạo đức truyền thống dân
tộc.</h3>
Có lẽ điều này bắt nguồn từ sự vận dụng "lý luận kinh
điển". Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, trả lời câu hỏi vì
sao chủ nghĩa cộng sản xoá bỏ tôn giáo và đạo đức cũ,
Marx và Engels viết: "<em>Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự
đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ
truyền; không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong
tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách
triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền</em>" (Nhà
XBST, 1974, trang 78). Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "<em>Gia đình to
(cả nước) và gia đình nhỏ: Cái nào nặng? Cái nào nhẹ?
Người cách mạng chọn gia đình to.</em>" (HCM, Tuyển tập, Tập
4, trang 389).
Trước khi tiến hành một đợt "hành động cách mạng", các
cán bộ Đảng và các đoàn thể tiến hành công tác tuyên
truyền giáo dục làm cho nhân dân tin rằng: thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ cách mạng, bảo vệ lợi ích của giai cấp là
đạo đức thiêng liêng cao cả nhất, tình cảm gia đinh, thậm
chí là tình mẫu tử, phụ tử đều phải đặt xuống dưới.
Đó là nguyên nhân xảy ra con tố cha, vợ tố chồng trong cải
cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp. Khuyến khích
việc "tố" như thế chẳng những trái luân thường, mà sau này
còn được biết là do quá khiếp sợ, muốn tâng công với chế
độ, họ bịa chuyện vu khống người ruột thịt của mình.
Nói dối ở trường hợp này đồng nghĩa với tội ác.
Nhiều tác phẩm văn học cũng thể hiện quan điểm đó.
Kịch bản về Lê văn Tám đốt kho xăng miêu tả Lê vănTám lân
la cầu thân với lính gác kho, dần dà được họ tin yêu coi
như con em. Lợi dụng sự tin cậy của các chú lính, Tám dễ
dàng xâm nhập đốt kho xăng. Gần đây, bộ phim truyền hình
Cuồng phong có chủ đề chống tội phạm buôn ma túy. Trong phim,
công an đã giác ngộ cô Phượng nhận thức được việc buôn
ma túy là tội ác, sau đó giao cho cô nhiệm vụ theo dõi, gài
bẫy người bạn đồng hương muốn giúp đỡ cô có tiền giúp
mẹ bằng việc buôn ma túy, và theo dõi tố giác người tình
rất yêu cô là một tay buôn ma túy.
Để tồn tại trong một chế độ đặt ý thức hệ lên trên
đạo đức truyền thống, người ta phải khai man lý lịch, mang
cái mặt nạ "lập trường giai cấp" để che giấu suy nghĩ
thực.
<h3>2 - Văn hoá xã hội chủ nghĩa đặt chủ nghĩa Marx- Lenin
thành chân lý độc tôn.</h3> Tự do tư tưởng chỉ được phép
trong vùng soi chiếu của quan điểm Marx -Lenin. Mọi tư tưởng
khác với nó đều là thù địch. Phân biệt ranh giới tư
tưởng thù địch rất khó, do vậy mà nhiều ủy viên Bộ chính
trị của Đảng cộng sản Liên Xô, Trung Quốc lần lượt bị
trở thành kẻ thù của cách mạng và bị giết. Nhiều đảng
viên cộng sản cấp cao ở Việt Nam bị quy là "bọn chống
Đảng", bị tù tội cũng chỉ vì có mấy ý kiến khác Nghị
quyết của Đảng. Đó là nguyên nhân khiến nhiều đảng viên
cán bộ không dám nói thật ý mình, nghĩ một đàng nói một
nẻo, báo cáo láo... Ông Hoàng Minh, chủ tịch Công đoàn quận
11, một đảng viên có công thời chống Mỹ, luôn luôn được
đánh giá "4 tốt", bỗng bị phát hiện trước khi tham gia cách
mạng ông có theo đạo Hồi mà không khai trong lý lịch. Ông bị
đuổi ra khỏi Đảng và cho về hưu.
Độc tôn tư tưởng rất trái với văn hoá truyền thống Việt
Nam, luôn luôn rộng mở đối với mọi tư tưởng, tôn giáo.
Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo được người Việt Nam đón
nhận, hợp lưu, hoà đồng, biến những điều tích cực trở
thành yếu tố bản sắc văn hoá dân tộc. Người Việt gọi là
"tam giáo đồng nguyên". Đạo Cao Đài còn thoáng hơn, thờ tất
cả danh nhân văn hoá thế giới.
Chủ nghĩa độc tôn tư tưởng gây ra tệ giáo điều nghiêm
trọng và làm cho con người trở thành thụ động, ỉ lại,
thiếu sáng tạo. Đó là nguyên nhân đưa tới chủ trương
"chống tự diễn biến", cản trở sự đổi mới của Đảng,
kéo theo sự trì trệ của nhiều ngành, giáo dục, văn học,
nghệ thuật...
<h3>3 - Văn hoá xã hội chủ nghĩa đề cao tuyệt đối chủ
nghĩa tập thể, đồng nhất chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa
vị kỷ và triệt để xoá bỏ.</h3>
Bảo vệ lợi ích cá nhân bị coi là vị kỷ, là xấu, cho nên
nguyện vọng được hưởng thụ lợi ích chính đáng của cá
nhân mình cũng luôn phải che giấu. Con người phải sống hai
mặt, bên ngoài thì ca ngợi tập thể, bên trong thì toan tính cho
riêng mình.
Các quyền con người đều là quyền của tập thể chứ không
phải của cá nhân. Quyền tự do báo chí là quyền của đoàn
thể được ra báo. Quyền hội họp là quyền của các đoàn
thể đã được cho phép thành lập và chịu sự lãnh đạo
tuyệt đối của Đảng. Các đoàn thể ở chế độ xã hội
chủ nghĩa không phải là tổ chức dân sự, phi chính phủ (NGO)
mà là tổ chức chính trị, những cánh tay nối dài của Đảng.
Các đoàn thể này có chức năng tổ chức những phong trào
thực hiện nghị quyết của Đảng, như phong trào thi đua tập
thể, phong trào xây dựng khu phố văn hoá ; phong trào dạy tốt,
học tốt... Những phong trào này là nguồn sản xuất ra những
báo cáo láo, tô vẽ những điển hình theo khẩu vị cấp trên.
Thời bao cấp, thủ tướng Phạm văn Đồng thăm trại lợn hợp
tác xã, đã thắc mắc mà không được giải thích: "<em>Tại sao
lợn cùng một chuồng mà cắn nhau quá dữ dội?</em>" (Hoá ra
chỉ vì ông chủ nhiệm hợp tác xã mượn lợn của người
nuôi cá thể bỏ thêm vào chuồng lợn tập thể để báo cáo
láo với thủ tướng ).
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" làm cho
mọi sai lầm, thất thoát không thể quy trách nhiệm cho ai. Nạn
hội họp lu bù chính là con đẻ của nguyên tắc "trách nhiệm
tập thể", vì cần phải họp để có quyết nghị của tập
thể, mai sau hư hại không ai bị kỷ luật hoặc phải ra toà.
Vụ Vinashin không thể tìm ra người chịu trách nhiệm chính là
một ví dụ của cơ chế "trách nhiệm tập thể". Hội họp lu
bù đã trở thành một yếu tố văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Có lẽ cũng là do "trách nhiệm tập thể" mà không có một cá
nhân nào trong những người lãnh đạo Việt Nam chịu đứng tên
trả lời thư công dân. Trong hồi ký Nhớ Lại, nhà thơ Đào
Xuân Quý có ghi lại một thắc mắc: Trước Đại hội Nhà văn
lần thứ 4, năm 1989, ông có gửi thư xin ý kiến ông Cố vấn
Trung ương Đảng Võ Chí Công về tình hình các nhà văn có quan
điểm trái nhau rất nghiêm trọng. Ông Quý mong ngóng mãi mà
không được ông Cố vấn trả lời! Mấy năm nay[2], hiện
tượng không trả lời đã trở thành chuyện thường ngày: Các
vị đại công thần của chế độ và có tuổi tác đáng cha
chú các nhà lãnh đạo đương quyền như Võ Nguyên Giáp, Võ Văn
Kiệt, Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng Sĩ Nguyên... gửi nhiều thư cho
Bộ chính trị, Quốc hội, Chính phủ đều không được trả
lời. Các kiến nghị của hàng ngàn trí thức cũng không được
trả lời!
"Không trả lời" là một yếu tố văn hoá xã hội chủ nghĩa?
Trong nền văn hoá truyền thống ông bà ta có câu "Nhiều sãi
không ai đóng cửa chùa" phải chăng đó là lời răn dành cho
những con cháu hôm nay còn tôn thờ chủ nghĩa tập thể?
"<em>Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để
phát triển tự do của mọi người</em>", tuyên ngôn ấy của
Marx, Engels từ năm 1848 đã không thành hiện thực trong các chế
độ xã hội chủ nghĩa khoa học do hai ông sáng lập!
<h3>4 - Đề cao nghệ thuật vị nhân sinh, nhưng cuối cùng chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tầm thường hoá văn học,
nghệ thuật, khuyến khích văn học nghệ thuật minh hoạ chính
trị.</h3>
Cùng thời với K. Marx, nhà văn Dostoïevski của Nga cho rằng "Cái
đẹp cứu rỗi thế giới" và "Không có một tác phẩm chân
chính nào lại không vị nhân sinh". Trong chế độ xã hội chủ
nghĩa, những tác phẩm có tính nhân văn, bênh vực các quyền
con người đều bị cấm đoán, như Bác sĩ Jivago của Boris
Pasternak ở Liên Xô ; Con nai đen của Nguyễn Đình Thi, Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm...
Tác phẩm hay nhất phải là tác phẩm phục vụ kịp thời cho
chính trị. Tố Hữu gọi tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức
là "hòn ngọc", mặc dù về nghệ thuật rất non kém. Cũng theo
Tố Hữu, quyển tiểu thuyết hay nhất miền Bắc là Cái sân
gạch của Đào Vũ ca ngợi cuộc sống ở hợp tác xã nông
nghiệp (sự thật là các hợp tác xã đang làm cho năng suất
lúa sút giảm, khiến những người trung thực như ông Kim Ngọc
tìm cách khoán chui để cứu nông dân!).
Năm 1967, tôi đến tỉnh Quảng Ninh, được nghe câu chuyện về
"ông Các Mác của tỉnh ta". Trong cuộc triển lãm hội hoạ của
tỉnh, ông Ủy viên Ban thường vụ tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên
giáo đến xem và dừng lại trước bức tranh vẽ một cây cổ
thụ, đã có ý kiến chỉ đạo: "<em>Tác giả này chưa quán
triệt quan điểm lập trường của người thợ mỏ! Chúng ta
đang thiếu gỗ chống lò. Nếu trồng ra toàn những cây có thân
uốn éo như trong bức tranh này thì lấy đâu ra gỗ chống lò
để khai thác than?</em>"!
Kể sao cho hết những chuyện cười ra nước mắt! Chính vì
thế mà lúc cuối đời, nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu đã
viết "Ai điếu cho nền văn học minh hoạ". Nhưng đến nay nền
văn học ấy vẫn còn được khuyến khích.
Thưa ông Trần Trọng Tân, vì những điều kể trên tôi xin tỏ
đồng tình với ông về đề nghị đưa nội dung văn hoá vào
Cương lĩnh: "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam vì
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, vì hoà bình hữu nghị." Về cách
dẫn giải nội dung này, tôi cũng cơ bản đồng ý với ông và
có vài suy nghĩ thêm xin sẽ đề cập ở các bài sau.
<h2>III. VÌ SAO HỌC ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH MÀ KHÔNG THỂ LÀM
THEO?</h2>
Các nhà lãnh đạo của Đảng đều thấy mối nguy của tình
trạng cán bộ đảng viên thoái hoá, biến chất, nhưng có lẽ
chưa thấy nguyên nhân chính là do không đổi mới toàn diện,
kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội. Hoặc có
thấy, nhưng lại sợ đổi mới toàn diện thì gây mất ổn
định, đe doạ quyền lãnh đạo của Đảng. Chúng tôi tin rằng
đổi mới toàn diện sẽ đưa tới phát triển hài hoà, xã hội
lành mạnh, tổ chức Đảng và Nhà nước trong sạch và đó
chính là cơ sở để tìm lại được niềm tin của nhân dân,
tăng thêm sức mạnh cho Đảng.
Bộ chính trị chủ trương phát động cả nước học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với mục đích
đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ Đảng
và cán bộ công chức, khôi phục đạo đức xã hội. Dự thảo
Báo cáo chính trị Đại hội 11 nhận định: "<em>Cuộc vận
động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn có biểu
hiện hình thức</em>". Nhận định ấy đúng, nhưng chưa đủ.
Chúng ta có thể kể hằng loạt tên tuổi những cán bộ ở
tất cả các cấp, không chỉ là người học mà còn là người
đứng trên bục giảng về đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng họ
lại vi phạm ngay những điều chính họ vừa rao giảng, họ tham
nhũng lớn hơn, nhận hối lộ to hơn, chiếm đất đai nhiều
hơn... Chỉ cần giở danh sách những người phạm kỷ luật
gần đây thôi đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của sự sa
sút về tư tưởng đạo đức trong cán bộ trung, cao cấp: Ủy
viên Trung ương Đảng, bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình bị kỷ luật
vì sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống; Ba ủy viên Ban
Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Trà Vinh bị kỷ luật vì vi phạm
pháp luật về nhà, đất; Thành phố Hà Nội có 282 đảng viên
bị kỷ luật, trong đó có lãnh đạo Tổng công ty Đầu tư -
Phát triển nhà, 5 lãnh đạo cấp Sở; 3 lãnh đạo thành phố
Sơn Tây, 91 đảng viên phạm pháp. Phó bí thư Tỉnh ủy kiêm
Chủ tịch tỉnh Hà Giang có lối sống sa đoạ, được cảnh
báo mà không sửa. Bí thư, hai phó bí thư, một ủy viên
Thường vụ tỉnh ủy Cà Mau, Bí thư tỉnh ủy Tỉnh ủy Tiền
Giang, Phó bí thư Tỉnh ủy Thái Bình đều bị "thực hiện quy
trình xử lý kỷ luật". Đặc biệt có các vị lãnh đạo ngành
tuyên huấn như ủy viên Trung ương Đảng, Tổng giám đốc Đài
Truyền Hình Việt Nam; Giám đốc Học viện chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh cũng phải bị "thực hiện quy trình
xử lý kỷ luật". Còn ở cấp cơ sở? Có thể nói, ở đâu
cũng có tham nhũng, có nơi đã bị phát hiện và những nơi còn
lại có thể chỉ vì "chưa bị lộ"! Chỉ một xã An Ninh đã có
đến 60 đảng viên bị kỷ luật vì ăn xén, ăn bớt tiền cứu
tế người nghèo thì có thể đoán được tình trạng chung về
đạo đức ở các địa phương khác trong cả nước.
Tại hội trường Quốc hội, ngày 1 tháng 11 năm 2010, đại
biểu Lê Văn Cuông phát biểu ngắn, nhưng có giá trị tổng
kết: "<em>Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh đã được triển khai 4 năm trên phạm
vi cả nước, nhưng kết quả làm theo lời Bác chưa được
nhiều, trái lại có một số vấn đề bức xúc như chạy
chức, chạy quyền, tham nhũng, lãng phí, tư lợi, đạo đức
xuống cấp trong một bộ phận cán bộ công chức ngày càng có
biểu hiện tinh vi, phức tạp</em>". Ngày 30 tháng 11 -2010 tại
Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, ông
Trương Vĩnh Trọng Phó thủ tướng, thay mặt Ban chỉ đạo công
tác này báo cáo: "<em>Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và diễn
biến phức tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành,
nhiều cấp...</em>"
Vì sao nhiều lần học đi học lại đạo đức Hồ Chí Minh mà
số đông cán bộ đảng viên vẫn không thực hiện được?
Những người đặt trọn niềm tin vào cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa nắm
được những kiến thức về khoa học giáo dục.
Khoa học giáo dục đã kết luận: Việc giáo dục đạo đức
không giống như giáo dục kiến thức. Sau khi học Luật giao
thông, người đi đường có thể vận dụng được. Nhưng kẻ
thiếu đạo đức học xong bài đạo đức, hắn vẫn tiếp tục
sống vô đạo đức. Vấn đề này đã được nhân loại tranh
cãi từ 2500 năm trước. Socrates và Platon là những người đầu
tiên đồng nhất sự hiểu biết với đạo đức. Các ông cho
rằng người ta làm điều vô đạo đức là do không hiểu biết
điều đó là xấu, nếu được dạy bảo những điều nào đó
là vô đạo đức, là xấu thì họ sẽ không làm. Aristotle sớm
phát hiện ý kiến đó không chính xác. Nhà giáo dục Mỹ đầu
thế kỷ 20 John Dewey cho rằng, hiểu biết lý thuyết về mìn
của tên trộm két sắt có thể giống hệt như hiểu biết của
một nhà hoá học, nhưng hai bên hoàn toàn khác nhau về mục
đích thói quen, tính cách, đạo đức, cho nên tên trộm dùng
hiểu biết về mìn là để phá cho được chiếc két sắt, lấy
trộm của cải.
Triết gia lớn của Đức ở thế kỷ 18, Emmanuel Kant cho rằng,
lý trí đã là sự hoàn chỉnh, không cần nối tiếp hành
động. Lý trí là trung tâm chỉ bảo cho con người biết phải
làm gì, mơ ước gì. Lý trí có khả năng sinh ra trực giác
đạo đức, cung cấp động cơ cho đạo đức. Ông đã bị
người đời sau châm biếm bằng một câu chơi chữ: "<em>Về
mặt đạo đức, thế kỷ 19 đã không do Kant quản lý mà do
thói đạo đức giả quản lý.</em>" (Đối lại chữ Kant là tên
của ông với chữ Cant có nghĩa là thói đạo đức giả ).
Nhiều nhà giáo dục cho rằng phải cân bằng việc bồi dưỡng
lý trí và tình cảm, khi tình cảm ổn định có khi còn quan
trọng hơn lý trí. Nhà giáo dục J. Donald Walters viết: "<em>Một
mái trường yên tĩnh, một không khí gia đình, và một nền
giáo dục tập trung vào việc nuôi dưỡng trẻ đạt đến độ
trưởng thành về cảm xúc sẽ giúp trẻ dễ dàng ứng phó với
sự tiêu cực trong bản thân của trẻ.</em>"
Khoa giáo dục học cho biết, tính cách của một người liên
quan đến đạo đức của người đó và tính cách của con
người hình thành rất sớm, từ sự dạy dỗ, sự nêu gương
của cha mẹ, gia đình, sự giáo dục của nhà trường và ảnh
hưởng của môi trường xã hội.
Phân tích những lý luận về đạo đức, nhà giáo dục John
Dewey trong tác phẩm Dân chủ và Giáo dục đã nêu ra 4 nội dung,
xin được tóm tắt 15 trang sách của ông như sau:
1 - Cái bên trong và cái bên ngoài: Nếu ta cho rằng ông A là
người có đạo đức, liêm khiết, còn việc ông vòi hối lộ
chẳng liên quan gì đến cái nền đạo đức vốn có của ông.
Nhận định như vậy là tách rời cái tinh thần ở bên trong và
hành vi ứng xử bên ngoài. Thực ra ông A đó mang mặt nạ đạo
đức để che đậy cái bên trong thối nát vô đạo đức. Tinh
thần, cái bên trong của con người và hành vi ứng xử của
người đó là thống nhất, không thể chia cắt.
2 - Có sự đối lập giữa nghĩa vụ sự hứng thú? Một người
trước khi vào học ngành y, chưa nghĩ tới sau này công việc
buộc mình phải tiếp xúc với bệnh dịch rất nguy hiểm. Tuy
nhiên, nếu là người có tinh thần sẵn sàng vì người khác
thì khi biết rõ nghề nghiệp buộc mình phải làm việc trong
tình trạng nhiều rủi ro, người ấy chẳng những sẵn sàng
chấp nhận và còn tận tình chăm sóc người bị bệnh truyền
nhiễm. Người có đạo đức là người thực hiện nghĩa vụ
một cách hứng thú.
3 - Trí thông minh và tính cách: Trí thông minh không đồng nhất
với tính cách. Sự hiểu biết không đồng nhất với đạo
đức. Bài học đạo đức chỉ có tác dụng khi người học
vốn có sẵn lòng nhân hậu, tôn trọng, đồng cảm và thành
thật với người khác. Một người thông minh học rộng có
thể thuyết trình về đạo đức Hồ Chí Minh rất thuyết
phục, nhưng không hẳn anh ta sẽ làm được những điều mình
nói, nếu như bản chất anh ta là kẻ ích kỷ, tham lam.
Có những hành vi đạo đức theo tập quán tuân phục quyền uy,
tuy cũng đem lại kết quả tốt, song đó không phải là kết
quả của tính cách, của đạo đức. Trong một xã hội dân
chủ, tính cách, đạo đức của mỗi cá nhân mới là điều
đáng cho ta mong đợi.
4 - Có câu châm ngôn: gieo thói quen sẽ gặt tính cách; gieo tính
cách sẽ gặt số phận. Gia đình gia giáo, xã hội lành mạnh,
nhà trường có nội dung và phương pháp giáo dục tiến bộ,
nơi làm việc có quy chế chặt chẽ, sẽ tạo cho con người
những thói quen lành mạnh, dần dần thói quen trở thành tính
cách trong sáng, tốt đẹp. Tính cách có quan hệ với đạo
đức như bộ xương đối với cơ thể sống vậy.
Trước thế kỷ 20, các nhà hiền triết giúp cho nhân loại mỗi
ngày có thêm những nhận thức mới về thiên nhiên và bản
thân mình. Đến đầu thế kỷ 20, Sigmund Freud phát hiện hành vi
của con người không chỉ được điều khiển bởi ý thức mà
nó còn bị chi phối, thúc đẩy bởi động lực của vô thức
nằm sâu tận đáy tâm thức. Có thể hiểu điều ấy theo cách
nói ví von nôm na của nhiều hôm nay là "Trong con người có một
phần "con" và một phần "người"; phần "người" thì lộ ra,
còn phần "con" thì bị che giấu. Tốt thì khoe, xấu thì che mà!
Học thuyết phân tâm học của S. Freud là một trong những học
thuyết khoa học tinh thần lớn nhất của nhân loại, nó làm
đảo lộn những quan niệm truyền thống về thế giới tinh
thần của con người, trong đó có vấn đề đạo đức. Học
thuyết của ông có ảnh hưởng đến nhiều ngành, từ y học,
tâm lý học, đạo đức học, văn học...
Từ học thuyết của ông, người ta đánh giá lại cách nhìn
nhận đạo đức của thế kỷ 19 : "<em>Đi qua nhanh, quay mặt
không nhìn tất cả những gì là khó chịu, luôn luôn làm như
không trông thấy gì: Đó là tóm tắt toàn bộ quy tắc đạo
đức của thế kỷ 19</em>" (S. Freud, của Stephan Zweig). Đó chính
là thói đạo đức giả.
Vậy sự ý thức được mà đạo đức học trước kia cho là
một mối nguy hiểm cơ bản thì nay S. Freud xem là một phương
cứu chữa; Sự dồn nén (ẩn ức) được đạo đức cũ đánh
giá là lành thì Freud chứng minh là nguy hiểm. Cái mà phương
pháp cũ che giấu, ông lại muốn trưng ra giữa ban ngày ban mặt.
S. Freud cho rằng, ở mọi lúc, mỗi khi ta phát ra một lời, mỗi
khi ta hoàn thành một hành vi nào đó, chúng ta bị bắt buộc
phải kìm hãm hay đúng hơn dồn nén những động tác vô thức:
Tình cảm đạo đức hay khai hoá phải luôn luôn tự bảo vệ
chống lại bản năng dã man của sự hưởng thụ.
Do vậy - cách nhìn của khái niệm cơ sở ghê gớm mà S. Freud
gợi ra lần đầu tiên - Toàn bộ cuộc sống tâm linh hiện ra
như một cuộc đấu tranh không ngừng và bi thảm, giữa cái ý
muốn hữu thức và vô thức, giữa hành động có chịu trách
nhiệm và những bản năng không chịu trách nhiệm của chúng ta
(sách đã dẫn). Triết gia Reinhol Niebuhr còn cho rằng: "<em>Freud
không nghĩ rằng bản ngã có khả năng chống lại cộng đồng
vì quyền lợi của chính nó</em>"...
<center>* * *</center>
Từ những kết quả nghiên cứu khoa học về giáo dục đạo
đức kể ở trên, chúng ta có thể hiểu nguyên nhân vì sao
việc tổ chức học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh
không thu được kết quả. Ngược lại, cách tổ chức học
tập như vậy còn gây ra một số tác hại như sau:
1 - Với quy mô tổ chức rộng khắp và kéo dài nhiều năm rất
tốn kém tiền bạc, nhất là tốn nhiều thời gian quý báu. Sau
mỗi đợt học tập, mỗi người được phát giấy để viết
thu hoạch nộp lên ban tổ chức. Mỗi chi bộ, đảng bộ đều
có cuộc họp tổng kết biểu dương khen thưởng những người
viết thu hoạch sâu sắc. Sau đó những người có thu hoạch sâu
sắc lại được đưa lên cấp trên dự cuộc thi thuyết trình
để chọn ra người xuất sắc nhất của phường, rồi của
quận, tỉnh, thành phố...
Cách làm này khuyến khích những người có khiếu nói, tô vẽ
những điều do họ nghĩ ra. Những người thực sự có đạo
đức thường khiêm tốn thực thà, ít nói, nhiều người còn
xin không đi học vì nghĩ rằng mình đã học nhiều lần rồi,
vấn đề còn lại là chưa thực hành tốt.
2 - Sau một thời gian dài, hậu quả xấu bộc lộ thành "quy
luật", gây phản cảm đối với những đảng viên và người
dân trung thực. Họ nhìn ra những người mồm lúc nào cũng nói
làm theo đạo đức Hồ Chí Minh mà hành vi, lối sống thì
ngược lại. Nhà văn, cựu chiến binh, đảng viên Phạm Đình
Trọng trong bài Ăn mày dĩ vãng đã coi cách tổ chức Cuộc vận
động học tập đạo đức Hồ Chí Minh như hiện nay đã làm
cho những người học trở thành "những diễn viên đang diễn
vở kịch học tập đạo đức Hồ Chí Minh". Và "Một bộ máy
nhà nước tham nhũng cao giọng rao giảng đạo đức Hồ Chí
Minh... thì đó là sự giả dối vô liêm sỉ...Cuộc vận động
học tập đạo đức Hồ Chí Minh trở thành cuộc vận động
làm điều giả dối", "núp bóng ăn theo vinh quang của quá khứ
để tồn tại. Đó là sự ăn mày dĩ vãng."
3 - Nhà văn Phạm Đình Trọng còn có một nhận xét rất xác
đáng là cuộc vận động mang "Tính hình thức, áp đặt, duy ý
chí, đầy tính tôn giáo, tụng niệm. Cách công tác tư tưởng
theo lối mòn xưa cũ, không thích hợp với thời đại công
nghệ thông tin."
Vì bài viết trên, đảng viên Phạm Đình Trọng một người
trung thực, thẳng thắn bị kiểm điểm nặng nề, đưa tới
việc phải ra khỏi Đảng !
Trình bày lại những điều nói trên, những mong Bộ chính trị
cân nhắc lại việc đặt cho Cuộc vận động học và làm theo
đạo đức Hồ Chí Minh nhằm đạt mục tiêu làm trong sạch bộ
máy Đảng và Nhà nước. Chúng tôi cho rằng nên trao mục tiêu
vô cùng quan trọng và khó khăn này cho sự nghiệp Đổi mới
toàn diện mà, trước tiên là xây dựng cho được một hệ
thống tư pháp độc lập và một nền báo chí tự do.
Tại sao lại không tổ chức học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
nhỉ? "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân"; "Chính quyền từ xã
đến chính phủ trung ương do dân cử ra"; "Nếu chính phủ làm
hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ"; "Hội hè tín
ngưỡng, báo chương; Họp hành đi lại có quyền tự do"; "Bảy
xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền". "Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất
liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp
gì"...
Nếu tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hiện thực thì chẳng
những Đảng, Nhà nước trong sạch mà đạo đức, văn hoá của
xã hội cũng sẽ nhanh chóng hồi phục.
<h2>IV. XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ HIỆN ĐẠI.</h2>
Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước, trong đó phải hiện đại hoá nền văn hoá.
Thế kỷ 18 nước Pháp sản sinh nhiều nhà tư tưởng vĩ đại
đề cao giá trị cá nhân con người, Con Người viết hoa. Ánh
sáng tư tưởng của họ làm cho thế kỷ 18 mệnh danh là Thế
kỷ ánh sáng : Nhân loại nhận ra mình có những quyền được
tạo hoá ban cho. Niềm tin đó tạo ra sức mạnh và trí tuệ
đưa tới cuộc Cách mạng Pháp với khẩu hiệu Tự do - Bình
đẳng -Bác ái. Hai trăm năm qua, ánh sáng đó lan tỏa khắp châu
Âu, châu Mỹ, trở thành nền văn hoá hiện đại của toàn nhân
loại. Nhật Bản là những người châu Á đầu tiên sớm biết
hấp thu nền văn hoá đó để trở nên một dân tộc có nền
văn hoá hiện đại, trước khi trở thành một quốc gia công
nghiệp hiện đại. Người Hàn Quốc, Đài Loan cũng theo hướng
đó và tìm được phồn vinh về vật chất và phong phú cho tâm
hồn.
Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Việt Nam ta đã bắt
đầu phong trào Âu hoá, chủ yếu là tiếp thu văn hoá Pháp và
Việt hoá nó, biến nó thành của mình. Lúc ấy cũng có sự
tranh chấp giữa nho học với tân học, giữa một số tập tục
với sinh hoạt mới, nhưng cái mới đã tỏ rõ ưu thế. Nhờ
tiếp thu văn hoá hiện đại mà chúng ta có chữ quốc ngữ, có
báo chí, có tiểu thuyết mới, thơ mới, kịch nói, tân nhạc,
đàn ông cắt tóc ngắn,đàn bà tóc uốn, có thói quen người
lớn uống cà phê, trẻ con uống sữa. Cả chiếc áo dài niềm
tự hào hiện nay của thời trang dân tộc cũng là sản phẩm
đẻ ra bởi một nhà thiết kế người Pháp trong cuộc hiện
đại hóa văn hóa đầu tiên này. [3]
Nền văn hoá Việt Nam ngừng tiếp thu văn hoá hiện đại suốt
30 năm chiến tranh. Nói cho đúng là nó ngừng tiếp nhận những
giá trị gọi là "văn hoá tư sản Phương Tây", để bắt đầu
tiếp nhận văn hoá xã hội chủ nghĩa. Ở các vùng Pháp chiếm
và sau này ở các đô thị miền Nam vẫn tiếp tục giao lưu,
tiếp thu văn hoá phương Tây và đạt được một số hiệu
quả đáng kể. Tuy nhiên, việc này không được số đông nhân
dân Việt Nam đang sôi sục lao vào cuộc chiến tranh giải phóng
chấp nhận. Giữa Sài Gòn có phong trào Bảo vệ văn hoá dân
tộc nhằm chống lại cái gọi là "văn hoá thực dân mới của
đế quốc Mỹ. Quyển "Người Việt cao quý" của Vũ Hạnh là
tác phẩm đẻ ra từ phong trào đó.
Sau Đổi mới, gia nhập WTO, Việt Nam mở cửa hội nhập kinh
tế toàn cầu, văn hoá hiện đại cũng du nhập vào đất nước
ta: Công nghệ tin học phát triển như vũ bão; nhạc rock được
lớp trẻ yêu thích; Các hoạ sĩ sáng tác với nhiều phương
pháp: tả thực, trừu tượng, ấn tượng, nghệ thuật sắp
đặt; Nhiều nhà thiết kế thời trang Việt Nam được thế
giới biết tới; Người mẫu thời trang là một nghề mới
được xã hội hâm mộ... Cùng với nhiều hình thức văn hoá
hiện đại, cũng có những xu hướng bệnh hoạn xâm nhập làm
trầm trọng thêm tình trạng khủng hoảng văn hoá như phim ảnh
khiêu dâm, bạo lực. Nhiều clip sinh hoạt tình dục, bạo lực
ở trường học bị tung lên mạng...
Điều cực kỳ quan trọng hiện nay là chúng ta cần xác định
những mục tiêu nào cấp thiết nhất để hiện đại hoá nền
văn hoá Việt Nam trong thời đại mà "Thành quả của hoạt
động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung
của tất cả các dân tộc " (Tuyên ngôn Cộng sản). Chúng tôi
cho rằng các mục tiêu có thể tìm thấy ngay trong chủ nghĩa
nhân văn từ thế kỷ ánh sáng mà tới hôm nay vẫn còn là mơ
ước xa vời của người Việt Nam. Đồng thời khôi phục và
gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
<h3>1 - Khôi phục những giá trị văn hoá thiêng liêng:</h3>
Tình yêu Tổ quốc, từng tấc đất thấm máu tổ tiên và
đồng bào ruột thịt là thiêng liêng. Mọi tổ chức, cá nhân
dù là vĩ nhân cũng không được đặt ngang hàng vị trí đó.
Các quyền sống và quyền tự do là những giá trị thiêng
liêng.
Tình yêu cha mẹ, gia đình ruột thịt là thiêng liêng.
"Lửa tình yêu dù nước dâng cao bao nhiêu cũng không thể dập
tắt " (Thánh kinh) phải là cơ sở của hôn nhân.
Sống và làm việc theo pháp luật và sống trong tình nhân ái là
hai nét song đôi của nếp sống văn hoá hiện đại.
Những điều kể trên tưởng không có gì phải tranh cãi, ấy
vậy mà nhiều năm qua đã có những ngăn cách :
- Tổ quốc phải gắn liền với xã hội chủ nghĩa? Có hay
không? Câu hỏi đó đang chia rẽ Việt Nam, gây bầm giập tâm
can Việt Nam. Nhiều người, có cả những đảng viên cộng sản
phải vào trại cải tạo vì dám nói không, chỉ có một Tổ
quốc! Vì sao phải bảo vệ một tín điều không tưởng để
gây chia rẽ, đau đớn đến thế? Một tín điều đã gây ra
cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, nông
nghiệp, đàn áp Nhân văn Giải phẩm! Nguy hại hơn vì tin theo
nó mà những người cộng sản Việt Nam khi đối mặt với kẻ
thù dân tộc cứ lầm tưởng là những đồng chí thân thiết,
ngược lại lắm khi nhìn đồng bào ruột thịt của mình lại e
sợ đó là những kẻ thù giai cấp!
- Nền giáo dục Việt Nam đặt nội dung giáo dục ý thức hệ
Marx - Lenin là trọng tâm. Trẻ vào mẫu giáo đã nghe những bài
hát chính trị. Những người soạn sách giáo khoa bất cứ môn
học nào cũng cố lồng chính trị vào, coi đó là một thành
tích. Chị Trần Mai Liên mẹ của một học sinh ở huyện Gò
Vấp thành phố Hồ Chí Minh, gửi cho báo Phụ Nữ điều ước
đầu năm 2009: "<em>Mong sửa đổi sách giáo khoa sao cho thiết
thực. Môn giáo dục công dân dạy những lý tưởng cao xa không
phù hợp với trẻ. Đối với trẻ cần phải dạy cho chúng
biết yêu ông bà, cha mẹ, anh chị em và mọi người; Biết
sống có trách nhiệm với bản thân mình, với cộng
đồng,không tham lam ích kỷ.</em>"
<h3>2 - Xây dựng con người Việt Nam tự tin, tự lập, không
thụ động, ỉ lại hoặc phụ thuộc vào tập thể cộng
đồng, có tư duy độc lập, luôn luôn sáng tạo, dũng cảm bảo
vệ niềm tin, quan điểm của mình trước số đông, trước
bạo lực.</h3>
Thời mông muội, con người sống quần thể, cá nhân hoàn toàn
phụ thuộc, phục tùng tập thể. Cá nhân là thành viên của
tập thể, khi thấy cần cộng đồng dễ dàng hi sinh mạng sống
của cá nhân như ném cô gái trẻ cho Hà Bá để ngăn lụt lội.
Những người cầm đầu nhân danh đấng chí tôn, con trời toàn
quyền cai trị cộng đồng, đất nước.
Thân phận của mỗi người trong mối quan hệ với cộng đồng
là mối suy ngẫm nghìn năm của loài người; Được nung nấu
suốt thời Phục hưng và bừng nở thành một sự khám phá:
"Mỗi người sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các
quyền" (Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp, 1789).
Vừa qua, giải Nobel Hoà bình 2010 trở thành một thách thức
lớn đối với lương tri toàn nhân loại.
Một bên chủ yếu là Trung Quốc cho rằng "Lưu Hiểu Ba là kẻ
thủ ác, một tên tội phạm đang thụ án 11 năm tù vì tội
kích động bạo loạn, mưu toan lật đổ nhà nước xã hội
chủ nghĩa".
Sau đây là nội dung "tội ác" của Lưu Hiểu Ba:
"<em>Gạt bỏ khái niệm độc đoán của việc lệ thuộc vào
một chúa tể hoặc một quan chức, thay vào đó, một hệ thống
tự do,dân chủ, pháp trị,đồng thời tiến tới việc khuyến
khích cổ vũ cho ý thức của các công dân mới,những người
xem quyền con người là cơ bản và việc góp phần mình vào là
một nhiệm vụ</em>" (Linh bát Hiến chương do Lưu Hiểu Ba chấp
bút).
Ủy ban Nobel Hoà bình đánh giá Lưu Hiểu Ba là bậc đại hiền,
một nhân cách cao cả, dũng cảm bảo vệ các quyền con người
.
Các quốc gia dân chủ đều hoan nghênh sự kiện này. Báo chí
Việt Nam chỉ thuật lại phản ứng của Trung quốc. Không có
một người Việt Nam nào phát biểu quan điểm của riêng mình
đối với sự kiện này trên báo chí trong nước. Chẳng lẽ
người Việt Nam thụ động chỉ chờ nghe ý kiến của những
người lãnh đạo cộng đồng? Dân tộc ta đang rất cần một
môi trường văn hoá chấp nhận tự do tư tưởng, phản biện,
tranh luận, để hình thành những cá nhân có đức tính tự tin,
tự lập, tự chủ. Ngay trong chế độ này, giữa tháng ngày cay
đắng nhất cũng đã từng có những con người giữ được
phẩm chất ấy, như ông Kim Ngọc. Tiếc thay mẫu người ấy,
phẩm chất ấy không được trân trọng, nhân lên! Càng đáng
buồn hơn là những người có phẩm chất ấy đã bị trù giập
đày ải! Con người Việt Nam co rúm lại!
<h3>3 - Trong nền văn hoá hiện đại, mỗi người dân phải ý
thức sâu sắc mình là một công dân, chứ không phải thần
dân. Hiện nay dù đã trải qua 65 năm cách mạng, dù Hiến pháp
ghi nhà nước là của dân, do dân, vì dân, cán bộ là đày tớ
của dân, nhưng trong thực tế người dân vẫn bị đối xử
như những thần dân. Các đày tớ của dân bày ra đủ thứ
thủ tục để hành dân để vòi của đút.</h3>
Thế nào là ý thức công dân ở một nước dân chủ? Công dân
ở tư thế của người chủ nhân đất nước, có quyền ứng
cử, bầu cử tự do, lập ra nhà nước theo thể chế mà mình
chọn để phục vụ cho mình, hành pháp có quyền lực bị hạn
chế và kiểm soát theo luật định. Chỉ có như vậy Nhà nước
mới thực sự là của dân do dân, vì dân. Công dân có quyền
tự do trong đó có quyền tự do báo chí, tự do lập hội phù
hợp với nghề nghiệp, để bảo vệ quyền lợi của mình,
trong xã hội dân sự.
Những người cầm quyền Việt Nam vẫn tiếp tục khuyến khích
cách suy nghĩ theo địa vị thần dân:
- "Ơn Bác, ơn Đảng...Ơn Đảng, ơn chính phủ..."
Mới đây người dân Miền Trung bị lũ lụt mất cả mạng
sống, tài sản, khi được tặng mấy bao mì gói vẫn khúm núm
nói lên lòng biết ơn Đảng, chính phủ. Báo chí, đài truyền
hình đưa nguyên văn những lời này để "định hướng công
tác tư tưởng ".
- "Đảng cử dân bầu" trong tất cả các cuộc bầu cử từ
Quốc hội cho đến các đoàn thể, đó là biểu hiện của nền
chính trị và văn hoá của xã hội thần dân.
- Các danh hiệu "ưu tú", "nhân dân" các nhà giáo, nghệ sĩ đều
phải làm đơn "kính gửi... xin được phong tặng. Vài năm nay
nhiều nghệ sĩ ở miền Nam phản ứng không chịu làm đơn theo
gợi ý. Nhiều nghệ sĩ được nhân dân hâm mộ nhưng không có
"danh hiệu", trong khi nhiều vị có danh hiệu "nhân dân" nhưng khi
xuất hiện không được nhân dân vỗ tay!
<h3>4 - Thời mông muội, con người luôn run sợ trước thiên
nhiên. Từng bước khám phá, khuất phục, cải tạo thiên nhiên,
khai thác thiên nhiên phục vụ cho mình, con người tìm cách
sống hoà hợp với thiên nhiên. Nhưng suốt quá trình công
nghiệp hoá, càng ngày con người càng tàn phá thiên nhiên rất
dữ dội. Đến nay, sức khỏe trái đất đang lâm nguy. Các
quốc gia công nghiệp có nhiều cuộc hội họp bàn thảo, đề
ra những nghị định thư, nhưng vì còn nhiều quốc gia bo bo
giữ lợi ích riêng, đến nay vẫn chưa có tiếng nói đồng
lòng cứu trái đất.</h3>
Ở nước ta, nạn phá rừng được cảnh báo hằng chục năm
trước và gần đây là làm thủy điện vô tội vạ. Thiên
nhiên đáp trả lại bằng sự trừng phạt, lũ lụt năm sau cao
hơn năm trước. Bình luận viên Đài Truyền hình Việt Nam mới
đây nhận xét, mức nước ngập ở Miền Trung năm 2010 cao hơn
mức ngập của " trận lũ lịch sử năm 2007"!
Các nhà máy, xí nghiệp bí mật hoặc công khai xả nước thải
giết chết nhiều con sông từ Nam chí Bắc. Làng có nhiều
người bị nhiễm độc chết vì bị ung thư được gọi là
"làng ung thư".
Một "chủ trương lớn" trao cho Trung quốc khai thác bauxite Tây
nguyên trên nóc nhà Tổ quốc, treo cái chết trên đầu hàng
chục triệu nhân dân mà bao nhiêu lời can ngăn vẫn chưa được
lọt tai lãnh đạo.
Vừa qua, lễ hội ngàn năm Thăng Long để lại những bãi rác
không lồ. Trước đây, những hội hoa anh đào, hội hoa xuân
cũng đã bị dẫm đạp xâu xé, để lại những bãi rác môi
trường và bãi rác đạo đức.
Bảo vệ trái đất, bảo vệ rừng, sông, biển, bảo vệ môi
trường sống... đang là bài học chưa thuộc của Việt Nam từ
những người lãnh đạo cho tới người dân.
Bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống là một tiêu
chí quan trọng của nền văn hoá hiện đại.
<h3>5 - Lâu nay chúng ta nói nhiều về "đậm đà bản sắc dân
tộc", nhưng chưa ai dẫn giải thật xác đáng nội dung của
nó.</h3>
Nhiều người nghĩ rằng, phục hồi các lễ hội, các tục cúng
bái ở đình miếu, sáng tác nhạc theo làn điệu ca cổ là
phục hồi bản sắc dân tộc. Gần đây xuất hiện khái niệm
các bài hát "dân gian hiện đại". Ca sĩ Trần Hiếu không đồng
ý khái niệm này. Không ai cãi ông, nhưng cũng chẳng ai tiếp thu
ý kiến ông.
Tôi nhớ cách đây nhiều năm, trong một lần trả lời báo chí,
nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo cho rằng: Một tác phẩm đậm đà
bản sắc dân tộc là khi nó thể hiện sâu sắc tinh thần yêu
nước. Tôi rất tán thành ý kiến ông. Bài thơ mà ngày nay
được xem là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của
dân tộc, anh hùng Lý Thường Kiệt viết bằng chữ Tàu và dùng
thể thơ tứ tuyệt đời Đường của Tàu. Thế nhưng ai cũng
nhận thấy bài thơ này đầy khí phách và bản sắc dân tộc.
Hồi Thơ mới xuất hiện, các nhà nho cực lực phản đối cho
rằng nó là thứ ngoại lai nghịch nhĩ. Nhờ những người đi
tiên phong thời ấy như Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên... mà chúng ta có
được một gia tài thơ mới đáng tự hào. Suốt 30 năm chống
"văn hoá thực dân mới" làm cho văn học nghệ thuật chúng ta
gần như dừng lại ở nội dung giáo điều và hình thức thể
hiện của thế kỷ 19. Sau khi mở cửa, người Việt Nam mới
nhận ra nền văn học nghệ thuật của mình yếu kém đến
thảm hại! Sách dịch chiếm trọn tất cả các gian hàng của
các nhà sách. Trên truyền hình, phim Hàn Quốc, Trung Quốc chiếm
tất cả các kênh. Có người kêu lên chúng ta đang bị xâm lăng
văn hoá! Thanh thiếu niên Việt Nam đổ xô đi mua sắm thời
trang sao cho quần áo, tóc tai giống như y các sao Hàn Quốc! Sau
đó, hàng trăm cô gái Việt Nam xếp hàng cho một anh Hàn Quốc
sờ nắn chọn lựa!
<center>* * *</center>
Vấn đề xây dựng nền văn hoá hiện đại của dân tộc là
công việc vô cùng lớn lao. Tôi không phải nhà nghiên cứu văn
hoá mà chỉ có tấm lòng, đọc bài của ông Lữ Phương và các
nhà văn hoá, nhà văn, lòng tôi thêm bức xúc, viết mấy bài
này chỉ muốn kích thích thêm sự quan tâm của các bậc thức
giả, hòng được nghe nhiều cao kiến.
Ngày 3 - 12 - 2010
TVC
_____________________________
[1] Xem Diễn Đàn.
[2] Thực ra thì từ lâu rồi chứ không phải chỉ mấy năm nay.
Nhưng ở đây tác giả chỉ nói về việc "không trả lời" các
thư, kiến nghị. Còn việc "tiếp thu" các ý kiến được phát
biểu trong các thư, kiến nghị đó cũng như trên các phương
tiện truyền thông, thì chắc phải đợi đến Tết Congo? (DĐ)
[3] Người sáng tạo ra chiếc áo dài vẫn thường được biết
là hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường, người Hà Nội. Có lẽ tác giả
nhầm chăng, vì ông Cát Tường hay dùng tên Pháp là Lemur (dịch
chữ "tường" ra tiếng Pháp)? (DĐ)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7218), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét