Mai Thái Lĩnh - Về mối quan hệ giữa Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường (phần I)

Gần đây, sau một loạt bài viết rất có giá trị về chủ
đề "Nhân văn Giai phẩm" phổ biến trên trang mạng của
đài RFI (Pháp), nhà phê bình văn học Thụy Khuê đã mở rộng
đề tài, trong đó có phần đề cập đến những hoạt động
của<strong> nhóm Ngũ Long</strong> tại Pháp vào cuối thế kỷ 19
- đầu thế kỷ 20. Nhóm Ngũ Long (năm con rồng) bao gồm 5
người: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (sau này trở thành Hồ Chí
Minh). Riêng danh xưng Nguyễn Ái Quốc – một cái tên lúc đầu
được dùng chung cho cả nhóm nhằm để đánh lạc hướng thực
dân Pháp, về sau lại trở thành tên riêng của Nguyễn Tất
Thành. Điều này đã gây ra sự lẫn lộn cho việc nghiên cứu
các hoạt động của nhóm Ngũ Long (nhất là các tác phẩm ký
tên Nguyễn Ái Quốc), khiến nhiều điều tồn nghi mãi đến nay
vẫn chưa thể xác minh rõ ràng.

Trong phạm vi của bài viết này, tôi chỉ tập trung vào một
số chi tiết có liên quan đến cuộc đời hoạt động của Phan
Châu Trinh - nhất là mối quan hệ giữa nhà dân chủ yêu nước
này với nhà yêu nước Phan Văn Trường nhằm giúp cho độc
giả có được cái nhìn khách quan, đúng đắn hơn về một
trào lưu đã có ảnh hưởng nhất định đến lịch sử của
nước ta trong thế kỷ 20, nhưng những di sản để lại vẫn
còn có ảnh hưởng kéo dài qua thế kỷ 21.

<h2>I) Về việc thành lập Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité
des Compatriotes):</h2>

Tiến sĩ Thu Trang viết về việc thành lập Hội này như sau:
<div class="special_quote"><em>"Trong khi thực dân yên chí về Phan
Châu Trinh trong quan hệ với vị luật sư mang quốc tịch Pháp,
có tác phong và ngôn ngữ rất Tây, thì hai vị cùng họ Phan này
đã bàn bạc và thực hiện nhiều việc quan trọng: - Họ chuẩn
bị thành lập tổ chức Người Việt yêu nước đầu tiên tại
Pháp. Hội lấy một tên rất dung dị dễ hiểu nói lên tình
nghĩa giữa những người xa xứ: "Hội Đồng Bào Thân Ái" do
chính Phan Văn Trường làm chủ tịch. Hội đã ra mắt ngày
18.1.1912 tại trường Parangon nơi có đông sinh viên Việt Nam
học. Phát biểu tại buổi Hội ra mắt có Phan Châu Trinh, Phan
Văn Trường và Jules Roux. (…) Hội không khai báo với sở cảnh
sát. Các buổi họp thường tiến hành ở các tiệm cà phê hay
ở tiệm ăn Tàu. Phan Châu Trinh không chính thức tham gia Hội
nhưng cuộc họp nào ông cũng có mặt, có phát biểu và được
lắng nghe một cách "thành kính". Các cuộc họp đều có
biên bản được đánh máy ra và phân phát."</em> (Thu Trang, tr.
48)</div>

Trong bài viết của Thụy Khuê, bà đã trích lại từ hồi ký
của ông Phan Văn Trường các đoạn văn như sau:

<div class="special_quote">

<em>"Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An
Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học],
một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái hữu Sinh viên
An Nam tại Pháp (Association amicale des étudiants annamites en France).
Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng
sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp có luật
1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải
tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu
ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm
cách dẹp ngay."</em> (Phan Văn Trường, trang 87). Tuy nói vậy,
nhưng ông cũng làm: <em>"Tôi bắt tay vào việc. Viết bản nội
quy và thảo một chương trình [hành động] dài. Hội được
thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách
nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là <strong>Thân Ái (La
Fraternité)</strong>. Hội có mục đích:</em>

<em>1- Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp
gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp
rủi ro, bệnh hoạn.</em>

<em>2- Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và
văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp, và
diễn thuyết."</em> (Hồi ký Phan Văn Trường, chương 13, trang
87-88). </div>

Dựa vào những đoạn hồi ký trên đây, bà Thụy Khuê đã đưa
ra kết luận: <em>"Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn Trường
gặp Phan Châu Trinh năm 1912. Sau này, người ta thường viết Phan
Châu Trinh và Phan Văn Trường lập hội là không đúng. Người
lập hội là Phan Văn Trường."</em> (Thụy Khuê, XV, Phan Khôi,
ch. 1b)

Nhiều tài liệu được tìm thấy trong văn khố của Pháp có
thể giúp chúng ta làm rõ sự kiện này:

- Trong một tài liệu lưu trữ tại Pháp (CAOM-SLOTFOM XV/3), có
bản báo cáo của một người Việt làm chỉ điểm cho thực
dân Pháp, với nội dung tường trình lại cuộc họp thành lập
Hội Đồng bào Thân ái vào ngày 18.1.1912 ở trường Parangon.
Chúng ta đọc được đoạn văn đây: <em>"Sau đám tang của
Dang, ông Trinh và những người cùng đi đã mời tất cả
người Đông Dương đến họp nghe nói chuyện tại Parangon. Đó
là một cuộc mời họp đột xuất. Ông Trinh cùng một người
tôi không biết rõ tên đã nói trước tiên."</em> Cuối bản
báo cáo, kẻ chỉ điểm này viết: <em>"Ông Trường và ông
Trinh không căn dặn chúng tôi đừng nói lộ việc trên ra. Nhưng
tôi mong Ngài đừng nói việc đó với ai vì sẽ gây cho bản
thân tôi một sự trở ngại nghiêm trọng mà Ngài chưa thể
nhận thấy được."</em> (Lê Thị Kinh, I, 3, tr. 134-136)

Như vậy là Phan Châu Trinh có mặt ngay tại cuộc họp thành
lập Hội và còn là người phát biểu trước tiên để giới
thiệu Hội với đồng bào của mình. Phải chăng đây là một
trong những căn cứ khiến cho nhiều người tin rằng Phan Châu
Trinh là người đồng sáng lập Hội chứ không phải chỉ là
người tham gia về sau?

- Bà Thụy Khuê đã viết: <em>"Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn
Trường gặp Phan Châu Trinh năm 1912."</em> Thật ra, không phải
đợi đến năm 1912, sau khi thành lập Hội Đồng Bào Thân Ái,
hai người mới gặp nhau, mà hai người đã gặp nhau từ những
tháng cuối năm 1911. Báo cáo của J. Fourès gửi Toàn quyền
Đông Dương đề ngày 30.12.1911 viết: <em>"Tôi xin báo Ngài là
người Annam Phan Châu Trinh được mạnh khỏe, có một cuộc
sống bình thản và biệt lập trong nhà trọ ông ta đã ở từ 4
tháng nay tại đường Assas số 78. Ông ta rất ít ra ngoài và
chỉ tiếp rất ít đồng bào ông ta đang sống ở Paris. Người
Annam Phan Văn Trường, cử nhân luật, phụ giảng tiếng Annam ở
trường Ngôn ngữ Phương Đông hay đến thăm ông ta nhiều hơn
các người khác và Phan Châu Trinh thỉnh thoảng có đến thăm
ông ta. Thỉnh thoảng cả hai đến tiệm ăn Tàu để có dịp ăn
một bữa cơm để nhớ quê hương. Không có gì đặc biệt
được báo cho tôi."</em> (CAOM-SPCE 372, Lê Thị Kinh, I, q.3,
tr.72)

- Điều khiến ta ngạc nhiên là qua các đoạn văn mà bà Thụy
Khuê vừa trích, dường như Phan Văn Trường không chủ động
lập hội, mà chỉ lập hội do yêu cầu của người khác. Nhưng
ai là người gợi ý lập hội? Ông Trường không nói rõ, chỉ
nói một cách mơ hồ: lập hội là do <em>"một số đồng bào
đưa ra ý kiến"</em>. Hơn nữa, theo ông, ý kiến được đưa
ra <em>"sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh
trường Parangon"</em>, có nghĩa là sau ngày đưa tang đó ông
mới chuẩn bị việc thành lập hội. Trong thực tế, việc
thành lập hội đã được công bố đúng vào ngày đưa tang
(nghĩa là vào ngày 18.1.1912), điều đó có nghĩa việc bàn bạc,
chuẩn bị phải diễn ra từ trước.

Hơn thế nữa, việc lập hội lại liên quan đến trường
Parangon. Tiến sĩ Thu Trang giới thiệu trường này như sau:
<em>"Người Việt Nam sống ở Pháp lúc Phan Châu Trinh mới qua
không quá 100 người, ngoài số bồi bếp được chủ đưa về
và một số quan chức nhỏ, còn có khoảng 40 sinh viên phần
lớn là con cháu các gia đình có thế lực được học bổng
sang học ở trường Parangon do Nhóm giáo dục Đông Dương quản
lý với mục đích không dấu diếm là để "Pháp hóa tối
đa" tạo ra những người tuyệt đối trung thành với "mẫu
quốc". Nhưng các sinh viên này đã cùng các trí thức Việt Nam
khác rủ nhau đến với Phan Châu Trinh."</em> (Thu Trang, tr.
45-46).

Qua tài liệu lưu trữ tìm thấy, chúng ta được biết theo đề
nghị của Toàn quyền Pháp Albert Sarraut, lúc đầu J. Fourès
(Giám đốc Nhóm giáo dục Đông Dương) đã có ý định đưa
Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật vào trường Parangon,
nhưng đề nghị này đã vấp phải sự chống đối của Salles
– Phó Tổng thư ký của <em>Alliance française</em> [1] đồng
thời cũng là tổng thư ký Ủy ban Paul Bert. Lá thư của Fourès
gửi Toàn quyền đề ngày 18.10.1911 có đoạn: <em>"Ngài đã
bảo tôi đưa Phan Châu Trinh và con trai ông ta vào trường
Parangon, nhưng mặc dầu tôi đã hết sức vận động nhưng ông
Hiệu trưởng Rousseau vẫn khăng khăng không chịu nhận vì ông
Salles - Tổng thư ký Ủy ban Paul Bert, đã phản đối; ông này
cho rằng y sẽ biến học trò An nam đang học ở đây thành đồ
đệ các tư tưởng cải cách của y. Sự phản đối của ông
Salles khá bất ngờ vì ta nhớ chính ông Salles đã là người
đầu tiên muốn bảo vệ Phan Châu Trinh khi ông này mới tới.
Và chỉ cách đây 3 tháng chính ông ta đã đưa Phan Châu Trinh
đến Parangon như là khách danh dự của trường này và trong
suốt một buổi chiều đã đưa ông ấy đi xem khắp lượt cho
thấy tất cả tiện nghi của trường."</em> (CAOM - SPCE 372, Lê
Thị Kinh, I, 3, tr. 68-69) Như vậy là Phan Châu Trinh đã từng có
dịp tham quan ngôi trường này vào lúc ông đặt chân đến Paris
- khoảng tháng 7 năm 1911.

- Sự chống đối của Salles bắt nguồn từ sự lo ngại của
ông ta về việc Phan Châu Trinh có thể gây ảnh hưởng đến
những du học sinh này. Salles đã viết trong lá thư đề ngày
3.10.1911 gửi cho một quan chức của Bộ Thuộc địa: <em>"Tôi
suy nghĩ về thông tin của Ngài báo tôi sáng nay là Phan Châu
Trinh sẽ được đến ở Parangon và tôi rất lo ngại về điều
đó. (…) Tôi không tin là những kẻ lãnh đạo, những tên cầm
đầu ấy đã từ bỏ kế hoạch của họ. Trong những điều
kiện ấy tôi cho rằng sẽ rất phi chính trị, rất nguy hiểm
nếu để Phan Châu Trinh tiếp xúc hàng ngày trực tiếp với
nhóm học sinh An nam khá đông mà chúng ta đã bố trí ở
Parangon."</em> (CAOM-SPCE, Lê Thị Kinh, I, 3, tr. 66-67). Do sự
phản đối của Salles mà Phan Châu Trinh và con trai đã không
thể đến ở tại Parangon. Cuối cùng thì hai cha con phải
chuyển đến trọ tại số 78 đường Assas. Phan Châu Dật tiếp
tục việc học tại trường làng trong quận Montparnasse.

Bà Thu Trang có trích một văn bản của Salles trong đó có
đoạn: <em>"Không nên để Phan Châu Trinh gặp các sinh viên An
Nam khá đông (40 người) ở Parangon. Chúng ta đang cố gắng Pháp
hóa tư tưởng chúng, Phan Châu Trinh sẽ cản trở, thậm chí còn
lôi kéo họ bằng những cuộc nói chuyện. Bà quản lý ký túc
xá nơi Phan Châu Trinh ở rất ngạc nhiên khi thấy đám sinh viên
quý trọng ông như thế nào… Ông ta nói một giờ rưỡi, hai
giờ và họ há hốc mồm nghe một cách say mê. Ông ta hoạt bát
và năng động, mới đến mà đã quen biết và quan hệ với
nhiều người châu Á tại tiệm ăn Tàu đường Cardinal Lemoine.
Đã có lệnh tránh các cuộc tiếp xúc báo chí nhưng ông ta
phớt lờ vì vậy đã có bài phỏng vấn ngày 17.7.1911 trên báo
Le Temps."</em> (Thu Trang, tr. 46)

Nhưng mặc dù đã tìm cách tách Phan Châu Trinh ra khỏi số học
sinh của trường Parangon, Bộ Thuộc địa Pháp và những người
chủ trương chính sách thực dân vẫn không thể ngăn cản việc
họ đến với Hội Đồng bào Thân ái. Sáu tháng sau khi Hội
Đồng Bào Thân Ái được thành lập, trong lá thư gửi Capus
(Phái viên của Toàn quyền Đông Dương tại Bộ Thuộc địa)
đề ngày 30.6.1912, Salles viết:

<em>"Hôm qua sau khi Ngài rời đi, tôi đã có suy nghĩ thêm: Ông
Fourès hay có thói quen tập trung các học trò của ông ta về
trường Parangon vào cuối tháng 7 rồi từ đó đưa chúng đi
với nhau về những nơi chúng sẽ nghỉ hè tập thể. Như vậy
nếu Ngài cũng thực hiện cùng cách đó thì sẽ tạo cho Trinh
một cơ hội để tác động vào các trẻ hiện nay ở xa Paris
bằng cách hoặc là gọi chúng đến hội Đồng Bào, hoặc y
đến nghỉ hè cùng với chúng nó dù được Ngài cho phép hay
không. Ngài có thấy tốt hơn nên phân tán các trẻ ra và cho
chúng ở các gia đình ở gần hoặc xa các trường chúng đang
học để tránh lây nhiễm? Gì thì gì, tốt hơn là đưa Trinh đi
xa sau ngày 14.7 và trước khi các trẻ được tập trung về
Parangon. Tuy nhiên tôi lo y không chịu vậy đâu. Ngài nghĩ thế
nào?"</em> (CAOM-SPCE 373, Lê Thị Kinh, I, 3, tr.89).

Như vậy là nửa năm sau khi Hội Đồng Bào Thân Ái được
thành lập, những người Pháp thực dân vẫn tìm mọi cách ngăn
cản Phan Châu Trinh lôi kéo các học sinh của trường vào sinh
hoạt của Hội. Và điều đáng ngạc nhiên là người mà họ lo
sợ lại là Phan Châu Trinh chứ không phải là ông Chủ tịch
Hội Phan Văn Trường.

Những chi tiết nêu trên khiến cho ta phải đặt giả thuyết
rằng chính Phan Châu Trinh mới là người chủ động lập Hội,
còn Phan Văn Trường chỉ là người chăm lo các thủ tục pháp
lý và đứng tên làm Chủ tịch. Điều này lại càng hợp lý
khi ta so sánh quá trình hoạt động của hai người: Phan Văn
Trường vào lúc này chỉ là một trí thức dấn thân chưa có
kinh nghiệm gì trong khi Phan Châu Trinh đã là một nhà hoạt
động chính trị có nhiều kinh nghiệm trong việc tập hợp và
giáo dục quần chúng. Trong bản thảo <em>"Pháp-Việt liên
hiệp hậu chi tân Việt Nam"</em>, ông có kể ra những hội mà
ông đã thành lập trong Phong trào Duy Tân. Những hội đã lập:
hội buôn, trường tiểu học phổ thông ở hương thôn, hội
tân học, hội diễn thuyết, hội trồng cây, hội cắt tóc,
mặc áo ngắn; những hội lập mà chưa thành: hội cải lương
tơ tằm, hội cải lương vải Nam. (Tuyển tập PCT, tr. 592) Việc
thành lập hội trở thành chủ trương suốt cả cuộc đời
của PCT. Trong những năm ở Pháp, ông lập hết hội này đến
hội khác. Vào năm 1922, ông đã dự định thành lập Hội xã
hội chủ nghĩa Đông Dương tại Pháp (Association Socialiste
Indochinoise en France) tại Marseille. Hội cuối cùng mà ông thành
lập là Hội Liên hiệp Pháp – Đông Dương tại Paris vào đầu
năm 1925, do đích thân ông làm Chủ tịch.

- Ngày 13.11.1912, Salles đã gửi thư cho một quan chức ở Bộ
Thuộc địa trong đó có đoạn: <em>"Như tôi đã hứa với
bạn mấy hôm trước đây, nay tôi xin cung cấp cho bạn các
thông tin tôi đã thu lượm gần đây về Hội Đồng Bào do Phan
Châu Trinh thành lập với Phan Văn Trường làm chủ tịch. Anh
này làm phụ giảng ở trường Ngôn ngữ Phương Đông. (…)
Người ta cũng thông báo với tôi là Hội Đồng Bào có 3000 frs
trong quỹ, riêng Phan Châu Trinh đã đóng 500 f tiền túi của y.
(…) Hội Đồng Bào năm 1912 có vẻ muốn nối tiếp truyền
thống của Hội Đồng Bào năm 1908 ở Trung Kỳ. Ngày trước
họ muốn học đòi các cuộc biểu tình hòa bình của dân
trồng nho phía nam nước Pháp. Ngày nay họ chỉ đòi quyền tự
do lấy trong chương trình giáo dục của chúng ta những gì thích
hợp cho họ, và thêm vào đó họ xin được nhập quốc tịch
Pháp. Chủ trương mới này mang tính lâu dài hơn nhưng còn khôn
khéo hơn nhiều, có thể tóm tắt như sau: "nấp dưới luật
pháp của Pháp để chống chính sách của Pháp ở Đông
Dương."</em> (CAOM-SPCE 371, Lê Thị Kinh, I, 3, tr. 153-157)

Trong đoạn văn trên đây, Salles nhận định rằng: <em>"Hội
Đồng Bào do Phan Châu Trinh thành lập với Phan Văn Trường làm
chủ tịch"</em>. Ý kiến này rõ ràng là một nhận định dựa
vào thực tế, căn cứ vào cả một quá trình theo dõi suốt
gần một năm trời, không phải chỉ là một nhận xét vu vơ.

<h2>II) Ai là tác giả của bản Thỉnh nguyện thư của Nhân dân
An Nam gửi Hội nghị Versailles năm 1919?</h2>

Trong lời tựa viết cho cuốn sách Những hoạt động của Phan
Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 của Tiến sĩ Thu Trang, học giả
Hoàng Xuân Hãn nhận xét về bản văn này như sau: <em>"Hình
như ta còn thấy dấu vết sự phân công: Phan Châu Trinh soạn
Hán văn, Phan Văn Trường dịch ra Pháp văn, Nguyễn Tất Thành
dịch ra Việt văn bằng bài ca lục bát đề là</em> <strong>Việt
nam yêu cầu ca</strong>. (Thu Trang, trang 8). Trong bài viết của
mình, bà Thụy Khuê đã bác bỏ ý kiến này. Bà viết:
<em>"Nhưng qua văn bản, chúng tôi có thể xác định: Phan Văn
Trường viết thẳng phần tiếng Pháp, vì đây là chủ đề
một buổi diễn thuyết của ông năm 1913 (Les revendications
indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ), như đã
nói ở trên. Lời văn trong bài phù hợp với lối viết của
Phan Văn Trường: Kín đáo, kiêu kỳ, mỉa mai, thâm thuý. Phan
Châu Trinh dịch sang Hán Văn. Nguyễn Tất Thành làm bài thơ
(đúng hơn là vè)."</em> (Thụy Khuê, XV, Phan Khôi, 1b)

Như vậy là theo Thụy Khuê, không phải Phan Văn Trường dịch
sang Pháp văn mà ngược lại, chính Phan Châu Trinh mới là
người dịch sang Hán văn. Bà đã dựa trên chứng cứ sau đây:
<em>"Ngày 13/3/1914[2], Phan Văn Trường diễn thuyết về đề
tài Les revendications indigènes (Những thỉnh nguyện của người
bản xứ) tại trường Cao Đẳng Xã Hội (Ecole des Hautes Études
Sociales), bài nói chuyện này là nguồn cội của bản Thỉnh
nguyện của Dân tộc An Nam (Revendications du Peuple Annamite) gửi
Hội nghị hoà bình thế giới ở Versailles, năm 1919."</em>[3]

Khi cho rằng <em>"Phan Văn Trường viết thẳng phần tiếng Pháp
vì đây là chủ đề của một buổi diễn thuyết của ông năm
1913"</em> (hay 1914?), còn Phan Châu Trinh chỉ là người
<em>"dịch sang Hán văn"</em>, có lẽ bà Thụy Khuê cho rằng
toàn bộ tư tưởng chứa đựng trong bản văn nói trên là của
Phan Văn Trường, còn Phan Châu Trinh chỉ là người dịch - nghĩa
là không có tư tưởng gì của riêng mình?

Nhiều tư liệu thu thập được cho chúng ta thấy: ngay khi đặt
chân đến Pháp, trước khi gặp Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh
đã gửi cho Bộ trưởng thuộc địa và Toàn quyền A. Sarraut 5
bản kiến nghị, tất cả đều do Roux dịch sang tiếng Pháp (Lê
Thị Kinh, I, q.3, tr.34-40).

Năm kiến nghị vắn tắt đó có nội dung như sau:

<div class="special_quote">1)Yêu cầu xét lại các bản án xử các
nho sĩ Trung Kỳ (31.5.1911)

2) Về báo chí và diễn thuyết (tự do báo chí, tự do ngôn
luận, tự do hội họp) (2.6.1911)

3) Về các điều luật và về việc thành lập tòa án bổ sung
(4.6.1911)

4) Bãi bỏ các biện pháp cấm sách Trung Hoa (lập hội dịch các
sách Pháp và Trung Hoa sang chữ quốc ngữ và mở các phòng đọc
sách) (5.6.1911)

5) Về việc đóng cửa các trường học (sự trừng phạt đối
với những người lập trường học và việc họ bỏ trốn ra
nước ngoài) (5.6.1911)</div>

Cả 5 lá thư này đều được soạn từ cuối tháng 5 đến
đầu tháng 6 năm 1911 và được gửi cho Albert Sarraut trước
ngày 20.7.1911 (ngày Roux viết thư báo tin cho Phan Châu Trinh).

Hãy so sánh nội dung của 5 kiến nghị nói trên với 8 yêu cầu
ghi trong <strong>Bản thỉnh nguyện của Nhân dân An Nam</strong>
<strong><em>(Revendications du Peuple Annamite)</em></strong>, gửi Hội
nghị Versailles năm 1919:

<div class="special_quote">
1- Ân xá toàn diện tất cả những chính trị phạm người bản
xứ.

2- Cải tổ ngành tư pháp Đông dương bằng cách bảo đảm cho
người bản xứ những điều kiện về luật pháp như người
Âu châu. Bãi bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt - những công
cụ khủng bố và đàn áp chống lại bộ phận lương thiện
nhất của dân tộc An Nam.

3- Tự do báo chí và tự do tư tưởng.

4- Tự do lập hội và hội họp.

5-Tự do di dân và du lịch ở nước ngoài.

6-Tự do giáo dục và thiết lập những trường kỹ thuật và
chuyên nghiệp dành cho người bản xứ.

7- Thay thế chế độ pháp luật.

8- Phái đoàn đại diện thường trực của người bản xứ
được bầu hoạt động bên cạnh Nghị viện Pháp để thông
báo những nguyện vọng của người dân bản xứ.</div>


Chúng ta có thể thấy 7 điểm đầu tiên trong bản thỉnh
nguyện thư chính là sự phát triển của các ý kiến nằm trong
5 bản kiến nghị, tức là các ý tưởng mà Phan Châu Trinh đã
tích lũy trong đầu trước khi gặp Phan Văn Trường.

Ba yêu cầu (1), (2) và (7) liên quan đến việc ân xá cho các tù
chính trị, cải tổ hệ thống pháp lý ở Đông Dương, chính
là các vấn đề mà Phan Châu Trinh đặc biệt quan tâm. Vào
tháng 7 năm 1911, khi trả lời phỏng vấn báo Le Temps, Phan Châu
Trinh tập trung vào 3 vấn đề:

(1) tổ chức tòa án,

(2) tuyển chọn quan lại và

(3) thu thuế.

Về vấn đề (1), ông nói: <em>"Chúng tôi mong muốn có sự
phân quyền để một viên quan không đồng thời cai trị và xử
án. Sự phân quyền này đã có ở Nam Kỳ và mặc dầu chưa
phải việc xét xử luôn được công minh nhưng tổ chức tòa án
nhìn chung khả dĩ được dân chúng chấp nhận. Tiếc thay, ở
Bắc kỳ và Trung kỳ thì không được như vậy. Các viên chức
Chính phủ tự quyền xét xử hay ra lệnh cho các tòa án xét xử
mọi vụ án."</em> (Lê Thị Kinh, I, q. 3, tr. 42-43)

Việc gặp gỡ Phan Văn Trường trên đất Pháp đã giúp ích cho
Phan Châu Trinh rất nhiều. Qua trao đổi, thảo luận, vị luật
sư này chắc chắn đã giúp cho Phan Châu Trinh phát triển, hệ
thống hóa và cô đúc các yêu cầu đó một cách sắc bén hơn,
logic hơn. Nhưng điều ta có thể khẳng định là trước khi
gặp Phan Văn Trường, trong đầu của Phan Châu Trinh đã hình
thành phần lớn các ý tưởng này.

Riêng điểm thứ 8, chúng ta thấy yêu cầu đó chỉ có thể
xuất phát từ một người không chỉ quan tâm đến các quyền
tự do mà còn nghĩ đến dân chủ - tức là xây dựng một chế
độ đại nghị. Ý kiến này chính là của Phan Châu Trinh. Sáu
năm sau khi bản thỉnh nguyện thư ra đời, ông đã trình bày
lại ý kiến đó một cách rõ ràng hơn trong một cuộc họp
của Hội Liên hiệp Pháp – Đông Dương vào chiều ngày
22.2.1925. Cuộc họp này với khoảng 200 người tham dự đã
diễn ra tại số 8 đường Danton – Paris, dưới sự chủ tọa
của Phan Châu Trinh. Bản mật báo của Désiré có ghi như sau:
<em>"Trước mắt, Phan Châu Trinh muốn có càng đông càng tốt
người An nam nhập Pháp tịch để có đại diện ở Hạ viện,
vì Đông Dương có 20 triệu dân, từ đó có thể có số Hạ
nghị sĩ khá lớn. Số này có thể thành một nhóm đông và
với sự ủng hộ của những người Pháp bênh vực dân bản
xứ thì có thể đạt được đa số… và với cách đó, chúng
ta có thể được giải thoát."</em> (CAOM-SLOTFOM 15/2, Lê Thị
Kinh, II, tr. 492)

Trong bản báo cáo của Vụ chính trị Bộ thuộc địa gửi Bộ
trưởng Daladier đề ngày 11.5.1925, cũng có ghi: <em>"Hồi tháng
2 năm 1925, ông (tức Phan Châu Trinh) nêu ý kiến trong một cuộc
họp do ông chủ tọa là cần có thật đông người An Nam vào
Pháp tịch để được cử ra nhiều hạ nghị sĩ nhằm giải
phóng dân Nam. Tháng 4-1925, ông ta khẳng định ý đồ về Đông
Dương sau khi nhập Pháp tịch để khỏi bị "khuấy
rầy".</em> (CAOM, SLOTFOM 15/2, Lê Thị Kinh, II, tr. 500).

Rõ ràng <em>"đưa người Việt Nam vào Hạ viện Pháp"</em> là
chủ trương của Phan Châu Trinh, và giải pháp này hoàn toàn phù
hợp với đường lối đấu tranh chính trị một cách ôn hòa
để đòi tự trị, vừa kết hợp sức mạnh của dân tộc vừa
tận dụng sức mạnh của những người Pháp cấp tiến tại
chính quốc. Mặc dù đối với người Việt Nam và đối với
hệ thống thuộc địa của Pháp, đây là một sáng kiến rất
mới lạ; nhưng điều này lại không hề xa lạ đối với hệ
thống thuộc địa của Anh. Ngay từ năm 1892, người Ấn đã có
đại diện tại Hạ viện Anh. Vị dân biểu Hạ viện (MP) đó
là chính là Dadabhai Naoroji (1825-1917), một trong những người có
công trong việc hình thành tổ chức Đại hội Quốc dân Ấn
Độ (Indian National Congress - tiền thân của Đảng Quốc Đại
ngày nay). Ông là một lãnh tụ thuộc phái ôn hòa ba lần
được bầu làm Chủ tịch INC (1886, 1893 và 1906).

Tóm lại, chúng ta có thể xác định: các yêu cầu nêu trong
thỉnh nguyện thư 1919 xuất phát từ quan niệm chính trị của
Phan Châu Trinh, gắn bó với đường lối đấu tranh chính trị
ôn hòa để đòi các quyền tự do căn bản và thiết lập một
chế độ dân chủ đại nghị.

Riêng về mặt văn bản, giữa nhận xét của giáo sư Hoàng Xuân
Hãn (Phan Châu Trinh soạn Hán văn, Phan Văn Trường dịch ra Pháp
văn) và nhận xét của bà Thụy Khuê (Phan Văn Trường viết
thẳng phần tiếng Pháp, Phan Châu Trinh dịch sang Hán Văn), ý
kiến nào gần với sự thật hơn, xin nhường lại sự phán xét
cho các nhà ngôn ngữ học và phê bình văn học.

Về vai trò của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, không phải
ngẫu nhiên mà Hồ Hữu Tường đã viết những dòng như sau:
<em>"Khi ra tù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở
Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối
được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ
gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An
Ninh ở Sài gòn sang nhập bọn. Người ngoài cho đó là năm con
Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của
nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh." </em>(Hồ Hữu
Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 18-19; trích
theo Thụy Khuê).

<em>"Phan Châu Trinh là linh hồn của nhóm Ngũ Long"</em>. Nhận
xét đó của Hồ Hữu Tường có thể được coi là một nhận
xét mang tính khách quan, vô tư, bởi vì xét về mặt tư tưởng
và khuynh hướng chính trị, Hồ Hữu Tường gần gũi và có
thiện cảm với Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường hơn là với Phan
Châu Trinh. Cho nên, nếu không tìm được những chứng cứ nào
khác để bác bỏ điều này, chúng ta có thể khẳng định: ít
nhất là cho đến đầu thập niên 1920, Phan Châu Trinh vẫn là
linh hồn của nhóm Ngũ Long.

(Còn tiếp)
__________________________________________

<strong>Ghi chú</strong>:

[1] Alliance française (Liên minh Pháp) là một tổ chức do một
số nhân vật nổi tiếng của nước Pháp thành lập vào năm
1883 với nhiệm vụ truyền bá ngôn ngữ và văn hóa Pháp trên
toàn thế giới. Tổ chức này tự gây quỹ nhưng cũng nhận
được trợ cấp hàng năm của chính phủ Pháp. Theo bà Thu
Trang, Salles là Tổng thư ký của Alliance française. Nhưng theo
Wikipédia tiếng Pháp, Tổng thư ký của tổ chức này trong
những năm 1909-1914 là Émile Salone. Phó Tổng thư ký là chức
vụ ghi ở cuối lá thư của Salles gửi một quan chức ở Bộ
Thuộc địa đề ngày 3.10.1911 (LTK, I, 3, tr. 68).

[2] Ở đoạn trích phía trên ghi là 1913.

[3]Thụy Khuê, Phụ Lục : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản
(phần 1)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7211), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét