Trần Vinh Dự - Vinashin và câu chuyện dư thừa công suất

Từ đầu năm 2010 trở lại đây Vinashin đã trở thành điểm
nóng về kinh tế ở Việt Nam. Nóng tới mức ở trong nước
Vinashin liên tục xuất hiện trên các tiêu điểm của hầu hết
các tờ báo lớn, trên các diễn đàn của Quốc hội, Chính
phủ, và các cơ quan của Đảng. Còn ở nước ngoài thì chỉ
từ đầu tháng 9 trở lại đây tờ báo lớn nhất của Mỹ về
tài chính là tờ Wall Street Journal đã có tới 7 bài viết đề
cập tới vấn đề này.

Đã có vô số các bài viết và phân tích chỉ ra các nguyên
nhân dẫn tới tình trạng khủng hoảng ở Vinashin. Riêng chúng
tôi cũng đã có <a
href="http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/14955/">bài viết
cảnh báo</a> từ cuối năm 2008 và đăng trên Thời Báo Kinh Tế
Sài Gòn vào đầu tháng 2 năm 2009.

Chúng tôi không phản đối các lý do của khủng hoảng ở
Vinashin được nhiều người đặt ra gần đây như sự lạm
quyền, vô trách nhiệm của một số cán bộ lãnh đạo chủ
chốt của tập đoàn này; chiến lược đầu tư dàn trải,
thiếu hiệu quả của của Vinashin sang các lĩnh vực không
thuộc ngành nghề kinh doanh chính (non-core businesses); hay câu
chuyện Vinashin được các bộ ngành quá nuông chiều và làm ngơ
trong một giai đoạn dài.

Thế nhưng cũng cần nhìn vào sự thực là lý do nặng ký nhất
đẩy Vinashin vào chỗ khủng hoảng không khác hơn là bẫy dư
thừa công suất mà tôi sẽ trình bày dưới đây:

<h2>Tính chu kỳ của kinh tế</h2>

Kinh tế vĩ mô nói chung và kinh tế ngành nói riêng thường có
tính chu kỳ. Có nghĩa là có những giai đoạn có tốc độ phát
triển cao và liên tục trong nhiều năm, sau đó đến giai đoạn
thoái trào, thậm chí khủng hoảng. Ngành đóng tàu cũng không
phải ngoại lệ. Gần đây nhất thì ngành đóng tàu thế giới
bước vào giai đoạn phát đạt từ năm đầu 2003 và kéo dài
đến năm 2008 thì thoái trào, và dự kiến sớm nhất cũng phải
qua năm 2011 thì mới bắt đầu phát triển trở lại (xem báo
cáo của Deutsche Bank "<a
href="http://www.passivelifeincome.com/.../shipbuilding-industry-161008-db.pdf">Shipbuilding
Industry – Super Down Cycle</a>" xuất bản tháng 8 năm 2008 để
biết thêm chi tiết).

Cuộc thoái trào trước đó của ngành đóng tàu kéo dài khoảng
10 năm, từ năm 1977 đến năm 1988. Trong giai đoạn này, hơn 100
xí nghiệp đóng tàu khắp thế giới đã phải đóng cửa. Nhân
công trong ngành này ở Châu Âu và Nhật – 2 siêu cường về
đóng tàu thời kỳ đó, đã giảm xuống còn có một nửa.
Ngành đóng tàu thương mại của Châu Âu trên thực tế đã
không thể vực dậy được kể từ hồi đó. Ngay cả Nhật
cũng dần dần nhường lại vị trí đầu đàn trong ngành cho 2
cường quốc nổi lên sau này là Hàn Quốc và Trung Quốc.

<h2>Lợi thế về quy mô</h2>

Ngành đóng tàu nói riêng và các ngành công nghiệp nặng khác
nói chung đều đòi hỏi nguồn vốn đầu tư ban đầu rất
lớn. Lý do có hai lớp: thứ nhất là đầu tư máy móc thiết
bị trong các ngành này đã tốn kém, cộng thêm thứ hai là các
ngành này thể hiện rất rõ lợi thế nhờ quy mô – có nghĩa
là quy mô càng lớn thì chi phí sản xuất biên (marginal cost)
càng thấp đi, vì thế năng lực cạnh tranh càng cao so với các
đối thủ nhỏ hơn.

Vì thế, không ngạc nhiên là để biến Vinashin thành một doanh
nghiệp đóng tàu có khả năng cạnh tranh với các hãng đóng
tàu lớn trên thế giới thì Việt Nam đã phải đầu tư nhiều
tiền, thậm chí rất nhiều tiền. Điều này về nguyên tắc
thì không có gì sai về chiến lược nếu như chúng ta đã chấp
nhận xây dựng một tập đoàn đóng tàu tầm cỡ.

<h2>Bẫy dư thừa công suất</h2>

Vấn đề nằm ở chỗ khi đầu tư mở rộng quy mô sản xuất
đúng vào thời điểm giai đoạn cực thịnh sắp tàn và thời
kỳ suy thoái đang đến thì doanh nghiệp sẽ bị rơi vào bẫy
dư thừa công suất. Đối với các ngành mà đầu tư đòi hỏi
càng nhiều thì tính nghiêm trọng của bẫy công suất này càng
lớn. Các doanh nghiệp càng dựa nhiều vào tiền vay để mở
rộng sản xuất thì khả năng khủng hoảng và phá sản càng
lớn.

Thực tế ở Việt Nam cũng như nhiều nơi trên khắp thế giới
hiện nay có vô số doanh nghiệp tư nhân đang bị kẹt trong bẫy
công suất này: Họ bắt đầu đầu tư xây dựng thêm nhà
xưởng từ những năm 2007 và 2008. Tới nay, một số doanh
nghiệp đã xây xong nhà máy nhưng đang gặp tình trạng không có
đầu ra cho sản phẩm. Một số doanh nghiệp khác thậm chí còn
trong tình trạng nhà xưởng mới gần xong nhưng không còn đủ
tài chính để hoàn thành do tín dụng bị thắt chặt vì khủng
hoảng kinh tế. Bị kẹt trong bẫy này, doanh nghiệp phải gánh
vác nghĩa vụ trả nợ tiền vay lớn nhưng lại không có doanh
thu để có nguồn tiền trả nợ.

Vinashin cũng bị rơi vào tình trạng y hệt như vậy, thậm chí
bi đát hơn. Kể từ khi có khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tập
đoàn này không những đã không nhận được các hợp đồng
đóng tàu mới mà nhiều hợp đồng đã ký còn bị hủy ngang.
Tờ Wall Street Journal trong <a
href="http://online.wsj.com/article/SB10001424052748704652104575493520176041784.html">bài
viết ngày 22 tháng 9</a> vừa rồi đã phản ánh về bi kịch này
như sau "nhưng khi cuộc khủng hoảng kinh tế ập đến vào năm
2008, Vinashin đã mất số hợp đồng đóng tàu trị giá tới 8
tỉ đô la, làm cho công ty mất nguồn tiền cần thiết để
hoàn thành nốt các dự án còn đang dang dở cũng như để thực
hiện nghĩa vụ trả nợ."

Trên thực tế thì bẫy dư thừa công suất không chỉ giáng
xuống đầu Vinashin, một doanh nghiệp non trẻ trong ngành đóng
tàu thế giới, mà ngay cả các bậc đàn anh lớn trong ngành này
cũng chịu số phận tương tự. Tính tới tháng 2, 2010, có tới
9 doanh nghiệp đóng tàu Hàn Quốc đã đệ đơn xin vào hệ
thống "workout system" – một dạng quy chế đặc biệt cho
các doanh nghiệp sắp phá sản. Tình trạng tại một số doanh
nghiệp như Kwang Sung đã thê thảm tới mức họ không thể trả
lương cho công nhân trong nhiều tháng trời. Hồi năm 2009, chính
phủ Hàn Quốc đưa ra hai phương án để tăng sức cạnh tranh
của ngành đóng tàu nhưng đều không thành. <a
href="http://english.hani.co.kr/arti/english_edition/e_business/404457.html">Báo
Hankyoreh của Hàn Quốc</a> trích lời một quan chức Bộ Kinh tế
Tri thức cho biết "thực tế là chẳng có hợp đồng mới nào
cả, mà ngay cả nếu có thì các doanh nghiệp đóng tàu vừa và
nhỏ cũng không cạnh tranh lại được với Trung Quốc về
giá" và "cuộc khủng hoảng này là không có lối thoát".

<h2>Xem lại câu chuyện Vinashin</h2>

Nếu gạt ra ngoài các lý do như cơ chế quản lý, vi phạm pháp
luật của lãnh đạo Vinashin, hay đầu tư dàn trải, mà chỉ
nhìn thuần túy dưới góc độ kinh tế thì có thể thấy
Vinashin là một trong nhiều nạn nhân của bẫy dư thừa công
suất trong hai năm vừa qua. Vinashin có lẽ đã không (hoặc nói
cẩn trọng hơn là <em>chưa</em>) gặp khủng hoảng nếu kinh tế
thế giới không rơi vào giai đoạn thoái trào của chu kỳ kinh
tế.

Bài học Vinashin, vì thế, là một bài học hữu ích cho không
chỉ các doanh nghiệp nhà nước mà còn cho tất cả các doanh
nghiệp tư nhân ở Việt Nam. Nó cho thấy rất rõ tầm quan
trọng sống còn của việc hoạch định chiến lược, dự báo
vĩ mô và dự báo ngành, cũng như hoạt động quản trị rủi ro
của các doanh nghiệp nói chung – một lĩnh vực mà giới doanh
nghiệp Việt Nam đều rất yếu kém.

<em>* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài
viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA
nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ
Hoa Kỳ.</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7183), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét