Trần Thành Nam - Tập đoàn kinh tế nhà nước: từ đâu ra và đi về đâu? (hay: con nhà ai và sẽ dựng được nghiệp gì?)

<div class="special_quote">Bài sau đây đưa ra quan điểm của cá
nhân tác giả, lý giải sự sụp đổ của hệ thống xã hội
chủ nghĩa trên toàn thế giới như là sự thất bại của mô
hình tổng công ty nhà nước. Từ đó vụ Vinashin chìm tàu
được cho là hệ quả tất yếu của não trạng muốn duy trì
mô hình tổng công ty nhà nước của thời "xã hội chủ
nghĩa" xưa kia. Tác giả mạnh bạo dưa ra lời tiên tri: "Rồi
sẽ đến ngày các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà
nước Việt Nam đồng loạt "chuyển lượng thành chất", hay
đồng loạt sụp đổ, hay sụp đổ theo dây chuyền – anh này
kéo anh kia theo. Lúc đó là chúng hoàn thành "sứ mệnh" của
mình – làm cho nền kinh tế quốc gia sụp đổ (vì chúng là
lực lượng chủ đạo), nhờ có cái gen mà chúng mang theo trong
mình từ khi cha sinh mẹ đẻ – cái gen tài năng vừa đá bóng
vừa thổi còi."

Bauxite Việt Nam</div>

Hiện nay hầu như mọi tầng lớp xã hội đều quan tâm sâu
sắc đến thực trạng và tương lai của mô hình tổng công ty
và tập đoàn kinh tế nhà nước.

<h2>Con cái nhà ai?</h2>

Vậy mô hình kinh tế này của Việt Nam sinh ra từ đâu?

Dù là người ủng hộ hay phản đối mô hình này thì đại đa
số các chuyên gia đều nhất trí cho rằng các tổng công ty
chuyên ngành và đầu ngành, các tập đoàn kinh tế nhà nước
của Việt Nam (xuất thân từ 17 tổng công ty 91 và hơn 80 tổng
công ty 90 cũ) đã được sinh ra trên cơ sở chính sách coi lực
lượng kinh tế nhà nước là chủ đạo của nền kinh tế quốc
gia trong cơ chế thị trường. Đa số cũng cho rằng đó là kết
quả từ những cố gắng của chính phủ nhằm xây dựng lực
lượng trên theo mô hình các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn và
thành công như các keiretsu của Nhật hay các chaebol của Hàn
quốc, với hy vọng để chúng có thể cạnh tranh với chính các
hình mẫu đó trong nền kinh tế thị trường tương lai.

<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Ngoài tưởng đó là các
keiretsu của Nhật hay các chaebol của Hàn Quốc, nhưng thực
chất thì các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam là con
đẻ của mô hình kinh tế XHCN cũ...<img class="quoright"
src="/misc/quoright.png"/> <br class="quoteclear"></div></div>
Khoan hãy nói đến chuyện chúng có cơ hội cạnh tranh được
với "cha mẹ nuôi" hay không, mà hãy xem xét lại nguồn gốc
sinh ra chúng – có phải là theo các hình mẫu keiretsu hay chaebol
hay không, bởi vì điều này vô cùng quan trọng, quyết định
việc dự đoán tương lai của chúng.

Theo tôi, chúng ta đã vội vã quên về nguồn gốc sinh ra thực
sự của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của
Việt Nam hiện nay. Có lý do "chính đáng" cho sự cố tình
lảnh tránh hay lãng quên này. Chính sự lãng quên và nhầm lẫn
nghiêm trọng về nguồn gốc sinh ra – sự nhầm lẫn về cha
sinh mẹ đẻ của mô hình doanh nghiệp này – làm chúng ta luôn
tranh cãi nhau về nó, vì không hiểu bản chất thực của mô
hình đó, và càng không thể thống nhất trong dự đoán tương
lai của nó.

Đó chắc chắn không phải là những đứa con của sự kết hôn
giữa kinh tế nhà nước Việt Nam với các ông Chaebol hay các bà
Keiretsu trong điều kiện kinh tế thị trường đang toàn cầu
hóa. Đó chỉ là báo chí nước ngoài họ gọi so sánh thế và
chúng ta ngộ nhận vậy, tưởng thế là hay. Nếu Việt Nam có
các keiretsu, có các chaebol thì đích thị chúng ta là rồng rồi
còn gì? Thực ra các ông chaebol các bà keiretsu chẳng dính líu
gì đến mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước
của Việt Nam cả.

Để tìm hiểu điều này, chúng ta hãy quay lại ít nhất với
nền kinh tế kế hoạch tập trung những năm 50 và 60 của các
nước phe XHCN, mà Việt Nam (Miền Bắc) là một. Dù còn non trẻ
và gặp nhiều khó khăn về lý luận, chính trị, kinh nghiệm và
thực tiễn, nhưng nói chung các nền kinh tế kế hoạch tập
trung của các nước XHCN đều đã phát triển khá ngoạn mục,
nhanh và đồng đều giai đoạn này. Đó là nhờ mô hình kinh
tế kế hoạch tập trung giai đoạn đầu đã vô tình tách biệt
được việc sở hữu và quản lý của nhà nước (thổi còi) ra
khỏi nhiệm vụ sản xuất theo những kế hoạch đó (đá bóng)
vốn được giao cho rất nhiều các xí nghiệp vừa và nhỏ, các
hợp tác xã và nông trường thực hiện. Việc phân phối kết
quả lao động cũng theo kế hoạch và quyền phân phối được
tập trung vào trung ương, nên nó cũng vô tình vừa gắn và vừa
tách rời hai khu vực với nhau. Trong giai đoạn này, sức sản
xuất của con người và cả xã hội được giải phóng tương
đối hiệu quả do vấn đề sở hữu phương tiện và thành
quả lao động chưa tạo ra những mâu thuẫn xã hội trực
tiếp, do người đá bóng (sản xuất) và người thổi còi
(quản lý nhà nước) được tách biệt khá rõ ràng ở cấp cơ
sở là nơi thực hiện/sản xuất, đều yên tâm (toàn tâm toàn
ý) làm tốt công việc của mình. Rất tiếc, sự tăng trưởng
này tuy nhanh và mạnh nhưng chỉ thiên về lượng mà không
được chú trọng về chất, thiên về hình thức, thiếu nội
dung trong mọi khía cạnh cuả nền kinh tế, từ vật chất đến
văn hóa, tinh thần, khoa học kỹ thuật, nhất là xã hội, lý
luận, tinh thần. Những thiếu hụt, yếu kém về chất của
nền kinh tế cũng đã xuất hiện rất nhiều và tích tụ, nhưng
bị cố tình bỏ qua, cố tình không được nhận biết để
đề phòng, tránh né, ai nhắc đến thì bị trù dập cô lập
hoặc cho là phản động…

Đến những năm 70 và 80 tại các nước XHCN Đông Âu và Liên
Xô bắt đầu có phong trào hình thành các Liên hiệp xí nghiệp
theo ngành trong mọi ngành kinh tế, được thúc đẩy do sự phát
triển về lượng nói trên tạo điều kiện tích lũy tài sản,
công cụ, vốn sản xuất. Đây là qua trình chuyển biến tất
yếu của sự tích tụ vật chất lớn thành lớn hơn để tăng
hơn nữa hiệu quả kinh tế, trình độ kỹ thuật, tập trung
nguồn lực đầu tư và nhiều mục tiêu hợp lý khác… Vì sự
hợp lý của các mục tiêu và hiệu quả cao mà nó mang lại mà
mô hình Liên hiệp các Xí nghiệp hay Tổng công ty phát triển
rất nhanh và không thể cưỡng lại, hình thành các tổ chức
kinh tế siêu lớn nhiều tầng lớp lên đến cấp các bộ
ngành, đối trọng lại với các tập đoàn kinh tế quốc gia và
siêu quốc gia của các nước tư bản trong môi trường của
chiến tranh lạnh. Vấn đề là sự phát triển này vẫn chỉ là
sự liên kết cơ học, lỏng lẻo, bề ngoài, rất hình thức và
không có chất lượng, không có sự kết dính cũng như sự
đồng nhất, nhất quán nào… Tóm lại, sức mạnh bên trong là
không có, trỗng rỗng, không tương xứng qui mô bên ngoài.

Nhưng đến lúc này thì các Liên hiệp xí nghiệp hay các Tổng
Công ty nhà nước lớn nhất nghiễm nhiên trở thành các cơ quan
quản lý thực chất ngành của mình, có nghĩa là chúng bắt
đầu vừa đá bóng, vừa thổi còi. Nói là "quản lý thực
chất" là bởi vì vẫn còn đó các nhà quản lý nhà nước
đang bị mất dần thực quyền vì xa rời thực tế và không
nắm quyền lực vật chất…

Thế là, trên sân bóng "nền kinh tế XHCN" xuất hiện nhiều
người vừa thổi còi cùng lúc vừa đá bóng. Họ vốn là các
huấn luyện viên của các đội hay các cầu thủ giỏi, nay
được giao vừa đá bóng vừa thổi còi, bên cạnh những tiếng
còi ngày càng yếu ớt và lạc điệu của trọng tài chính
(quản lý nhà nước) vì họ không "đá bóng" được… Trên
sân bóng đó ngày càng ít cầu thủ đá bóng thực sự vì họ
phải đá theo nhiều tiếng còi quá. Cuối cùng là họ chỉ đá
vờ… là hiệu quả nhất!

Trong các công ty, liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty nhà
nước… của nền kinh tế XHCN phát triển và lây lan nhanh chóng
bệnh "đá vờ": quan liêu, hình thức, lãng phí, giả dối,
tham nhũng, quyền hành và lợi ích nhóm… Sự mâu thuẫn của
việc các đơn vị kinh tế lớn vừa quản lý vừa kinh doanh
trên qui mô lớn tạo ra môi trường nguy hiểm cho các "cú đá
vờ" lớn, và thuận lợi cho rất nhiều tệ nạn xã hội,
đạo đức vốn đã ấp ủ từ giai đoạn phát triển trước
đó. Xã hội các nước Đông Âu và Liên Xô từ đó nhanh chóng
rối loạn các bậc thang giá trị, đạo đức cá nhân và xã
hội xuống cấp, các tổ chức tan rã hàng loạt.

Chính quá trình hình thành và phát triển chưa đầy 20 năm của
mô hình kinh tế Tổng công ty nhà nước đã trực tiếp phá vỡ
các nền kinh tế và góp phần làm bệnh hoạn không thuốc chữa
cho cả xã hội của hệ thống các nứớc XHCN những năm 80,
tạo môi trường hỗn loạn rồi góp phần chính yếu và quyết
định vào sự sụp đổ của cả hệ thống các nước XHCN tại
Châu Âu, vào chính thời điểm khi mà họ tưởng như đã mơ
thấy mình vượt qua chủ nghĩa tư bản và sờ tay vào chủ
nghĩa cộng sản.

Đáng lẽ ra những năm 70 và 80 của thể kỷ trước phải là
giai đoạn phát triển cực thịnh của các nền kinh tế XHCN,
mang tính chất tập trung lượng lớn để chuyển thành chất
mới, để "lên chế độ cộng sản chủ nghĩa" như các
chính phủ đó tin tưởng và kỳ vọng. Điều bất ngờ đã
xảy ra là bởi cái chất bên trong không có gì vì không được
coi trọng nhiều năm trước đó của chính thể, hay cái có đó
lại là sự nhu nhược, ung thối tràn lan nay được nhanh chóng
phát tán dẫn đến tan nát cả hệ thống và toàn xã hội!

Những kẻ những năm 50-60 đã bỏ qua và bao che tội trộm gà
của những đứa trẻ lớp con cháu mình thì đến năm 80-90 đã
phải đắng họng chấp nhận bị chúng (lớn khôn và có quyền
hành rồi) ngang nhiên trộm hết trâu bò cày kéo của các
"hợp tác xã" xã hội chủ nghĩa đem thịt hay chiếm dụng
riêng, làm thương hiệu HỢP TÁC XÃ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA sập
tiệm hoàn toàn trên Trái Đất.

Khi các nước XHCN châu Âu sụp đổ, cả Trung Quốc và Việt Nam
đều choáng váng vì số phận của các bậc tiền bối và lo
sợ cho tương lại của chính mình. Họ nhanh chóng qui các nguyên
nhân và trách nhiệm làm sụp đổ cho các đường lối chính
trị sai lầm hay/và sự yếu kém của tổ chức cá nhân lãnh
đạo trong các đảng cầm quyền của các nước "đàn anh"
đó, mà không ai thực sự nhìn thấy và chỉ ra nguyên nhân
chính sâu xa và quyết định nhất chính là sự nguy hại bệnh
hoạn của mô hình kinh tế dựa trên các tổng công ty nhà
nước làm lực lượng chủ đạo (khi đó thậm chí gần như là
duy nhất).

Công bằng mà nói, mô hình liên hiệp xí nghiệp hay tổng công
ty nhà nước XHCN chỉ là những mảnh đất màu mỡ cho tham
nhũng, bất công và các loaị bệnh hoạn xã hội khác nẩy mầm
và phát triển man rợ mà thôi, bản thân chúng không làm sụp
đổ cả thể chế được, nhưng các thể chế XHCN lại đứng
trên chúng, dồn vốn xã hội cho chúng, hy vọng được dựa vào
chúng để có sức mạnh kinh tế. Tác nhân phá hủy nằm ở
chính "cơ chế", chính sách, đường lối và đạo đức con
người trong các tổ chức trong toàn xã hội. Còn những hạt
giống bệnh hoạn đã luôn có sẵn trong mỗi con người. Khi có
thêm trong những sai lầm lý luận chính trị, cơ sở lý thuyết
và các phương thức tổ chức xã hội của các nền kinh tế
tự gọi mình là XHCN chăm vun vào, khuyến khích thêm, chúng phát
triển và "phát huy tác dụng" nhanh đến không ai có thể
ngờ tới.

Tại Trung Quốc và Việt Nam những năm cuối 80 đầu 90 cũng đã
hình thành các tổng công ty toàn ngành với tất cả các hệ
lụy bệnh hoạn của chúng như ở các nước XHCN châu Âu
trước đó. Nhưng do đặc thù văn hóa châu Á, do đặc thù của
các đảng cộng sản châu Á ("chuyên chính vô sản" hơn), và
nhất là do họ là người phải học theo Liên Xô và Đông Âu
nên các tổng công ty nhà nước XHCN ở châu Á được hình
thành muộn hơn chừng 5-10 năm. Các tổng công ty nhà nước XHCN
châu Á chưa kịp "biến lượng lớn thành chất mới" để
làm nền kinh tế XHCN của nước mình sụp đổ thì các đảng
cộng sản cầm quyền đã phải tiến hành gấp rút các cuộc
cải tổ chính trị rộng khắp để cứu vãn chế độ. Trung
Quốc thì tiến hành "mở cửa", Việt Nam thì "đổi
mới", còn Bắc Triều Tiên thì "đóng cửa"… Các tổng
công ty nhà nước ở Việt Nam thì thoi thóp như người bị ung
thư giai đoạn cuối, ở Trung Quốc thì chúng hung hăng như
người bị tâm thần, còn ở Bắc Triều Tiên thì chúng trở
nên độc đoán như những kẻ quản ngục…

Hai mươi năm sau sự sụp đổ của hệ thống XHCN, nhân dân
Việt Nam thần kỳ vực dậy đất nước mình, nền kinh tế
từng bước phục hồi với nhiều thành phần mới. Những kẻ
vượt qua "ung thư giai đoạn cuối" vẫn được coi là
"lực lượng chủ đạo", đã vô thức quên mất cha sinh mẹ
đẻ của chúng là ai. Lý do: điều đó nhắc đến cái chết
hàng loạt đã nói trên của các nền kinh tế XHCN Châu Âu! Tâm
thức con người có bản năng tránh né sự đau buồn, tâm thức
xã hội và nhà nước hóa ra cũng vậy! Thay vào lý lịch đó,
chính phủ khoác lên chúng hai chữ "tập đoàn" mới mượn
từ các nền kinh tế tư bản mà cụ thể là từ Nhật và Hàn
quốc, và chỉ sang tư bản bảo với chúng rằng cha mẹ chúng
là nền kinh tế thị trường, hãy ra đó mà tung hoành và chủ
đạo!

Không ai muốn nhớ và nhắc nhở rằng chúng là con cháu thực
và mang gen di truyền của những tổng công ty toàn ngành nhà
nước bên trời Âu đã từng phá vỡ nhanh chóng các nền kinh
tế từng khá hùng mạnh của các nước XHCN châu Âu thuở nào.

Đến đây thì chúng ta đã hiểu và trả lời được câu hỏi:
cha sinh mẹ đẻ của mô hình tổng công ty và tập đoàn nhà
nước là ai? Khi biết thân cha thế mẹ của một người là ai
thì chúng ta dễ đoán sự nghiệp tương lai của kẻ đó, thông
qua hiểu biết về sự nghiệp của cha mẹ họ. Điều đó giúp
chúng ta không cần tranh luận về sứ mệnh và tương lai của
mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam
nữa.

Nếu sự nghiệp vang dội của cha mẹ – mô hình mẫu – của
các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam là
phá vỡ nhanh chóng trong thời gian chưa đầy 20 năm và phá hủy
toàn diện một loạt các nền kinh tế XHCN khá hùng mạnh của
đất nước họ, thì có lẽ sự nghiệp của các tổng công ty
và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam hiện nay cũng
sẽ như thế thôi, hay có khi còn vang dội hơn. Điều mà cha mẹ
phải làm trong 20 năm, thường con cái chỉ cần làm trong 5-10
năm thôi.

<h2>Sẽ đi về đâu?</h2>

Vậy là chúng ta cũng đã trả lời được cả câu hỏi thứ
hai: Các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của
Việt Nam sẽ đi về đâu? Đó là: Chúng sẽ thực hiện sứ
mệnh của chúng. Chúng sẽ phá vỡ hoàn toàn và nhanh chóng nền
kinh tế của Việt Nam.

Chúng ta đã có một số "kết quả ban đầu" qua thành tích
gần đây của tập đoàn kinh tế Vinashin. Giống như trước
Khởi nghĩa 1945 đã có Xô viêt Nghệ tĩnh 1930, trước Đồng
Khởi 1960 đã có Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940 vậy. Nhưng tại sao
lại là Vinashin "nổ phát súng đầu tiên" mà không phải
tập đoàn nào khác? Có vài ba nguyên nhân góp lại làm nên
chuyện này.

Thứ nhất, Vinashin hoạt động trong ngành công nghiệp cần vốn
rất lớn nhưng lại chỉ bán được sức lao động của công
nhân là chính. Ở đấy không có dầu bơm lên mà đổi đôla,
không có than đào lên mà bán, không có điện nước cứ đo
đếm mà thu tiền, chỉ có nhân công lao động chất lượng và
hiệu quả mới đổi lấy tiền của người khác được. Ở
đó cứ phạm sai lầm làm mất mát lớn, rất lớn qua đồng
tiền lãi vay, qua số vốn đầu tư lớn nằm chết và qua số
tiền để nuôi giữ lực lượng lao động cực lớn… Ở đó
cần nhất cái tâm sáng của những con người và cơ cấu tài
chính minh bạch. Cả hai điều này đã không có tại Vinashin;
tất cả các tập đoàn khác có lẽ cũng thế thôi, không có.

Thứ hai, Vinashin lại được nhà nước kỳ vọng và giao trọng
trách làm trụ cột cho việc thực hiện chiến lược biển
quốc gia, với một số vốn cực lớn và sự ưu ái đặc biệt
thông thoáng. Việc này giống như một gia đình nghèo giao cả
tài sản cho cậu trai út đóng thuyền đi buôn và tìm đường
đi cho cả nhà, chỉ vì cậu hứa sẽ làm được. Thực tế là
cậu không đủ sức, ít kinh nghiệm nhất, cậu còn không thích
sửa chữa tàu bè và chưa bao giờ biết quản lý tiền cả nên
cậu mang tiền đi đầu tư đất đai và ăn tiêu sạch, con tàu
để ra khơi vẫn chưa mua ván để đóng… Tóm lại cậu út đã
bị số tiền vốn đè bẹp dí trước khi có thể điều khiển
nó.

Thứ ba, mô hình tổng công ty rồi tập đoàn kinh tế cho Vinashin
quá nhiều quyền quản lý và huy động vốn đầu tư mà không
đòi hỏi phải có năng lực và kết quả gì tương xứng. Thế
là Vinashin sát nhập mọi loại đơn vị khác đang hấp hối vào
với mình để "phát triển" theo chiều rộng. Số tiền
Vinashin vay chỉ đủ để làm lễ khởi công các công trình
hoành tráng khắp đất nước là đủ… bốc hơi hết. Điều
này giống hệt các công trình lớn của các tổng công ty nhà
nước bên Liên Xô và Đông Âu những năm 80, để lại cảnh
hoang tàn khắp nơi mà nhiều năm sau người ta vẫn phải dọn
dẹp.

Các tập đoàn khác cũng có ba vấn đề đầu tiên trên ở mức
độ khác nhau không hề kém nghiêm trọng, nhưng họ có vốn kinh
doanh tự có rất lớn từ việc bán rẻ tài nguyên đất nước
(dầu khí, điện, nước, than, khoáng sản…) – cái mà họ có
thực quyền quản lý, nên họ còn đang xoay sở, chưa sụp đổ
mà thôi.

Rồi sẽ đến ngày các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà
nước Việt Nam đồng loạt "chuyển lượng thành chất", hay
đồng loạt sụp đổ, hay sụp đổ theo dây chuyền – anh này
kéo anh kia theo. Lúc đó là chúng hoàn thành "sứ mệnh" của
mình – làm cho nền kinh tế quốc gia sụp đổ (vì chúng là
lực lượng chủ đạo), nhờ có cái gen mà chúng mang theo trong
mình từ khi cha sinh mẹ đẻ – cái gen tài năng vừa đá bóng
vừa thổi còi. Người biết chuyện gọi đó là cuộc cách
mạng đổi màu sở hữu chủ. Vật chất không tự nhiên sinh ra
và cũng không tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ chủ này
sang chủ khác.

Ở đây nảy sinh câu hỏi thứ ba: Ai sẽ được lợi khi điều
đó xảy ra? Ai sẽ là chủ mới của các Tổng công ty và tập
đoàn đó khi không còn nhà nước vốn bảo hộ cho chúng? Câu
hỏi này hơi phức tạp và xin để làm chủ đề cho phần sau.

T. T. N.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6577), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét