Nguyễn Ngọc Lanh - Tiến lên chủ nghĩa xã hội từ phương thức sản xuất châu Á

<h2>Ca ngợi chưa xứng với công lao và sự cống hiến vĩ
đại</h2>

<em>Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô được Đảng ta
đánh giá là thành quả vĩ đại do chủ nghĩa Mác- Lênin đem
lại. Chỉ cần 30 năm, nước Nga từ một nước quân chủ tiền
tư bản đã thu hút nhiều nước nhược tiểu quanh mình để
thành Liên Bang Xô Viết chiếm diện tích 1/6 địa cầu và trở
nên hùng mạnh, đủ sức đập tan cuộc xâm lược của trên 300
sư đoàn phát xít Đức, mà hệ quả ngoạn mục sau đó là phe
XHCN ra đời. Rồi, Liên Xô đuổi kịp Mỹ về vũ khi nguyên tử
và vượt Mỹ khi phóng thành công vệ tinh nhân tạo.</em>

Công lao đương nhiên thuộc Stalin - lãnh tụ của đảng CS Liên
Xô, của phong trào CS quốc tế, phong trào thuộc địa và phong
trào Hoà Bình. Đảng CS VN đặt Stalin ở vị trí bất tử, ngay
sau Mác, Enghen và Lê nin, nhất là khi tác phẩm Những vấn đề
kinh tế của CNXH ra đời - được coi như một trong tam bảo
pháp đưa Liên Xô và các nước trong phe đi lên CNXH (hai phép
quý khác là chuyên chính vô sản và tập trung dân chủ).

Dẫu hiện nay dân Nga và các nhà sử học nhận định về Stalin
ra sao, nhưng Đảng ta trước sau vẫn tôn vinh và đặt Stalin vào
vị trí cao cả trong lịch sử.

<em>Stalin mặc dù có những khuyết điểm nhưng ông có niềm tin
chính trị kiên định và ý chí thép, năng lực tổ chức và
khả năng vận dụng tổ chức hơn hẳn người khác. Stalin tham
gia cách mạng rất sớm; từ năm 1902 đến năm 1913, từng tám
lần bị bắt, bảy lần bị lưu đày, sáu lần trốn thoát khi
bị lưu đày. Cuộc đấu tranh đã tôi luyện nên tính cách kiên
cường của Stalin. Từ lúc tham gia cách mạng cho đến khi qua
đời, niềm tin cách mạng của ông không hề lung lay. Trong suốt
thời gian cầm quyền, điểm xuất phát và điểm đích của ông
đều vì sự lớn mạnh của đất nước, vì sự sung túc của
nhân dân (báo Nhân Dân điện tử ngày 04/10/2010)</em>

Tuy nhiên, mọi lời ca ngợi đều chưa xứng với công lao và
cống hiến của Stalin, vì đã quên điều quan trọng dưới
đây.

<h2>Stalin: Người sáng tạo thuật ngữ "Chủ nghĩa
Mác–Lênin"</h2>

<div class="boxright220"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Một số bài ca ngợi,
tôn vinh và biết ơn Stalin (từ năm 2008 đến nay)

- <a
href="http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30681&cn_id=235970">Iosif
Vissarionovich Stalin (1879-1953)</a> (trang web của Đảng CSVN)
- <a href="http://antgct.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=53391">Lãnh tụ
Xôviết Yosif Stalin: Người chiến sĩ gang thép</a>
- <a
href="http://dantri.com.vn/c36/s36-221513/nhin-lai-cuoc-doi-nha-lanh-dao-xo-viet-oseph-stalin.htm">Nhìn
lại cuộc đời nhà lãnh đạo Xô Viết Joseph Stalin</a>
- <a href="http://antgct.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=53548">Nước
Nga lại tôn vinh lãnh tụ Stalin</a>
- <a
href="http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2010/2/53437.cand?Page=1">Con
người của tư tưởng</a>
- <a
href="http://tintuc.xalo.vn/001596785147/65_nam_cuoc_chien_vi_dai_nhat_the_gioi.html">65
năm cuộc chiến vĩ đại nhất thế giới</a>
… vân vân<img class="quoright" src="/misc/quoright.png"/> <br
class="quoteclear"></div></div>
Sinh thời, Mác và Lênin chưa bao giờ tuyên bố học thuyết của
mình là "chủ nghĩa". Chỉ sau khi hai vị quá cố, mới xuất
hiện các từ "chủ nghĩa Mác" (do Enghen nêu) và "chủ nghĩa
Lênin" (do phái bônsevich nêu).

Việc kết hợp hai chủ nghĩa này để tạo ra thuật ngữ
"chủ nghĩa Mác-Lênin" là công lao bất tử về mặt lý luận
của Stalin. Không thể coi đây chỉ là cách ghép từ, hay phép
cộng giản đơn. Cũng không phải vì sợ dài dòng mà tên Enghen
đã không được đưa vào cụm từ này. Điều này có những
căn cứ xác đáng, sẽ được đề cập sau.

Hơn nữa, Stalin còn xác định cho "chủ nghĩa Mác-Lênin" một
nội hàm chọn lọc, trong đó có những đóng góp và sáng tạo
của chính ông. Có người còn nói "quá" lên rằng: Chủ
nghĩa Mác-Lênin thực hiện dưới chế độ Xô viết chính là
"chủ nghĩa Stalin".

Ngay khi vừa thành lập, đảng CSVN đã nhiều lần cử nhiều
đảng viên sang tận thủ đô Liên Xô trực tiếp tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin về truyền bá trong toàn đảng. Hệ quả tức
thời là ngay trong năm 1930 đã nổ ra Xô viết Nghệ-Tĩnh – khi
Đảng chưa đủ một tuổi.

Do vậy, nếu Đảng ta còn nói "kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin" thì toàn đảng và mỗi đảng viên còn phải nhớ
tới và phải biết ơn Stalin. Nó mãi mãi gợi lên tên tuổi
Stalin.

Hôm nay, nội dung chủ nghĩa Mác-Lênin có thể đã có những thay
đổi, bổ sung, sửa chữa… trên con đường phát triển lý
luận, nhưng nguyên gốc của nó vẫn có thể tìm được trong
sách Lịch Sử đảng CS (b) LX và các sách giáo khoa do Viện Hàn
Lâm Liên Xô ấn hành dưới thời Stalin.

<h2>Nhờ sáng tạo của Stalin, Quốc tế III thêm thống nhất</h2>

Khi lãnh đạo Quốc Tế II(*), Enghen nhận ra chủ nghĩa tư bản
chưa tới giai đoạn thoái trào (như dự kiến) mà ngược lại,
còn "đi lên". Do vậy, ông chấp nhận đấu tranh ôn hoà để
giai cấp công nhân có được những quyền lợi cụ thể và
thiết thân – trong khi xây dựng lực lượng chờ cơ hội giành
chính quyền. Sau khi Ăng-ghen mất (1895), Quốc Tế II phân rã
thành hai phái lớn (1916). Do trước kia cùng một gốc, nên cả
phái "trẻ" lẫn phái "già" đều tuyên bố trung thành
với Mác và đều khẳng định mục tiêu CNXH. Điều khác nhau
là cách thức thực hiện CNXH. Phái do Lênin (sinh 1870) đứng
đầu lên án phái kia – do Berstein (sinh 1850) và Kautsky (sinh 1854)
đứng đầu - là "hữu khuynh", "xét lại" và cả "phản
bội". Phái này cũng cảnh báo phái Lênin là "quá tả" và
sẽ trở thành chuyên chế. Đáp lại, Lênin coi tập trung dân
chủ là "nguyên tắc thép" để phòng ngừa đảng biến thành
độc tài. Ngày nay ta vẫn có thể tiếp cận các luận điểm
của mỗi phái, ví dụ cuốn sách phê phán Kautsky do chính Lênin
viết ra. Nếu coi bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản
là "hòn đá thử vàng" thì phái Lê nin là chân chính, triệt
để cách mạng.

Sự phân rã trong quốc tế II lan sang từng đảng ở mỗi
nước, ví dụ ở Nga (có bônsevich và mensevich), Pháp (phân hoá
thành đảng CS và đảng XHCN – ta dịch cụt lủn là "đảng
Xã Hội"), ở Anh có tổ chức CS và đảng Lao Động – ta
dịch sai là "Công đảng")…

Mỗi đảng, bất kể tên gọi thế nào (ví dụ đảng Lao Động
Việt Nam) nếu muốn được Stalin – từ năm 1924 thay Lênin lãnh
đạo Quốc Tế III*) - coi là chân chính, cách mạng, đều phải
tuyên bố trung thành với chủ nghĩa Mác–Lênin. Nhờ vậy, phong
trào CS quốc tế suốt thời gian dài đã thống nhất về tư
tưởng và đoàn kết trong hành động. Kết quả này chính là
nhờ sự sáng tạo thuật ngữ của Stalin.

<h2>Công lao Stalin: Tìm đường đi lên CNXH từ phương thức sản
xuất châu Á</h2>

Theo Mác-Enghen, cách mạng vô sản chỉ nổ ra ở các nước tư
bản đã phát triển tột cùng (dự kiến Đức, Anh). Điều lạ
lùng là về sau Mác dự kiến cả Ấn Độ, Nga (cực kỳ lạc
hậu), vì ông thấy trong các xã hội này đã có sẵn nhiều
yếu tố "đặc trưng XHCN". Ví dụ, không có tư hữu, toàn
dân là vô sản, có thói quen lao động tập thể...

Mác nghiên cứu thời kỳ tiền tư bản ở hai nước này – và
châu Á nói chung – đã phát kiến cái gọi là "phương thức
sản xuất kiểu châu Á" – chưa từng gặp ở phương Tây.
Đó là phương thức đã tồn tại nhiều ngàn năm (nói lên sự
trì trệ), lại ngự trị trên diện tích và dân số rất lớn
(gấp hàng chục lần châu Âu). Đó là Nga, Ấn Độ, Trung Quốc,
Trung Á, Đông Nam Á, Ai Cập…. Đó cũng là phương thức tạo
nên một chế độ khá tàn bạo, coi toàn dân là nô lệ - mà
sức cơ bắp của họ đã để lại cho đời sau các công trình
vĩ đại: Vạn lý trường thành, Cung điện tráng lệ, Kim tự
tháp hùng vĩ, hệ đê điều đồ sộ… Mác, Enghen và cả Lênin
đã cố xếp phương thức sản xuất châu Á vào một vị trí
xác định trong tiến trình nhân loại đi từ Cộng Sản nguyên
thuỷ tới CS văn minh, nhưng rốt cuộc đã không làm nổi. Đã
thử đưa vào, rồi đành rút ra. Đến nay, chính thức vẫn chỉ
có 6 phương thức: CS nguyên thuỷ; Chiếm hữu nô lệ; Phong
Kiến; TBCN; XHCN và CS văn minh.

Theo Mác, giai cấp nào tư hữu phương tiện sản xuất (kinh tế)
sẽ là giai cấp thống trị. Nếu nó bị đánh đổ, quyền tư
hữu sẽ chuyển sang giai cấp khác. Từ đó, chế độ mới sẽ
thay chế độ cũ. Khốn nỗi, trong phương thức sản xuất châu
Á lại không có ai "tư hữu" mà chỉ có "sở hữu" – nay
gọi là quyền sử dụng cho dễ hiểu. Vua chúa tuy có toàn
quyền sở hữu đất đai và tư liệu sản xuất trong cả
nước, nhưng chẳng qua chỉ là "quyền sử dụng" (tạm
thời). Họ cũng phân cho dân "quyền sử dụng" và buộc dân
nộp hầu hết sản phẩm, đồng thời huy động dân xây dựng
các công trình cực lớn. Khi một triều đại mất ngôi thì
"quyền sử dụng" cũng mất vào tay triều đại cướp ngôi.
Xin chốt lại: <span class="underlined-text">Hễ đoạt được quyền
lực sẽ đoạt được tất cả.</span> Vậy, muốn thống trị
và giàu sang, cần mưu đồ quyền lực và giữ lấy nó như giữ
mạng sống. Cứ thế, chế độ kéo dài triền miên, tuy các
triều đại cứ thay đổi - dẫu gọi là "phong kiến" nhưng
nó rất khác phong kiến châu Âu - cho tới khi đất nước trở
thành thuộc địa của CNTB từ châu Âu sang.

Sáng tạo của Stalin là đã duy trì và phát huy những ưu thế
của phương thức sản xuất châu Á ở Nga - nếu ông thấy
chúng phù hợp với mô hinh XHCN do ông dự kiến. Theo học
thuyết Mác-Enghen-Lênin, giai cấp công nhân Nga đương nhiên trở
thành là giai cấp thống trị, thông qua đại diện của mình -
là đảng CS Nga. Tư liệu sản xuất được tuyên bố là thuộc
sở hữu toàn dân, Nhà Nước của Đảng chỉ nắm quyền lực.
Đảng cũng nhấn mạnh với dân rằng mình không có lợi ích
riêng nào cho bản thân; đồng thời cảnh giác nội bộ về sự
biến chất (thành vua chúa) – do di sản về ý thức hệ của
phương thức sản xuất cũ. Lớp đảng viên kỳ cựu thời
Stalin quả thật đã sống và làm việc theo lý tưởng, bất
chấp hy sinh, gian khổ; thật sự là gương sáng cho quần chúng.
Đảng cũng giác ngộ dân về tương lai sáng lạn của CNXH. Quả
thật, trong những năm đầu, từ địa vị nô lệ, người dân
Nga thấy sự thay đổi lớn khi sống trong chế độ mới. Nhờ
vậy hàng trăm triệu người thành tâm theo đảng, tạo nên sức
mạnh vĩ đại khiến Liên Xô trở thành hùng mạnh sau thời gian
ngắn kỷ lục.

Từ đó, mọi nước mà phương thức sản xuất châu Á từng
ngự trị đều có thể theo gương nước Nga tiến thẳng lên
CNXH. Đương nhiên, những nước này chưa thể có giai cấp công
nhân (hoặc nó rất èo uột dưới chế độ thuộc địa), nhưng
điều may mắn là Stalin chấp nhận rằng chỉ cần có một nhóm
người tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, lập đảng, là đủ
điều kiện làm cách mạng vô sản. Đảng cầm quyền sẽ tự
nhận sứ mệnh đại diện giai cấp và khi đó mới bắt đầu
xây dựng giai cấp.

<em>Câu hỏi còn tranh cãi hiện nay của chúng ta: Nguyên nhân nào
làm Chế độ XHCN ở Liên Xô sụp đổ?</em>

Do đảng CS kém rèn luyện, cảnh giác… hay là do sự tha hoá
quyền lực cộng với môi trường phương thức sản xuất châu
Á… đã biến đảng và nhà nước thành giai tầng phong kiến
mà không sao cưỡng nổi? Các nhà lý luận và quan điểm của
Đảng ta cho đến nay đã nghiêng hẳn về nguyên nhân đầu.

__________________________________

(*) Phong trào cộng sản quốc tế có 4 khuynh hướng chính sau:

* Quốc tế Cộng sản I (Đệ nhất cộng sản): Hội Quốc
Tế Công Nhân do Marx và Engels lập ngày 28/9/1864 tại London, Anh
Quốc và giải tán năm 1876 tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Trong thời
gian tồn tại, Đệ Nhất Quốc tế tiến hành năm đại hội
nhằm truyền bá học thuyết Marx, thông qua các nghị quyết quan
trọng: tán thành bãi công, thành lập công đoàn, đấu tranh
đòi ngày làm 8 giờ, đòi cải thiện đời sống công nhân. Do
sự ảnh hưởng của phong trào, công nhân các nước tích cực
tham gia vào phong trào đấu tranh chính trị. Năm 1876, Đệ Nhất
Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh
hướng Marxism và chủ nghĩa Vô chính phủ.

* Quốc tế Cộng sản II (Đệ nhị cộng sản): Liên Minh
Quốc Tế các Đảng Xã hội, Đảng Công nhân thành lập tại
Paris năm 1889, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.
Đệ Nhị Quốc tế thông qua các nghị quyết quan trọng: nêu
lên sự cần thiết phải thành lập các chính đảng của giai
cấp vô sản, đề cao vai trò đấu tranh chính trị, lấy ngày
1/5 hằng năm làm ngày Quốc tế lao động.... Dưới sự lãnh
đạo của Engels, Đệ Nhị Quốc tế có nhiều đóng góp quan
trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới. Năm
1895, Friedrich Engels mất, những người theo chủ nghĩa chống
lại học thuyết Marx như K. Kautsky, E. Bernstein(1850-1932) dần
dần chiếm ưu thế trong Đệ Nhị Quốc tế.

* Quốc tế Cộng sản III (Đệ tam cộng sản): Comintern hay
Quốc Tế Cộng Sản do Lênin lập năm 1919 tại Moscow và giải
tán theo lệnh của Stalin năm 1943, được tái sinh lại năm 1947
và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng Cộng Sản
Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là
đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản.
Dưới sự lãnh đạo của Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến
hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược
chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong
trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống
chủ nghĩa phát xít.

* Quốc tế Cộng sản IV (Đệ tứ cộng sản): do Trotsky lập
năm 1938 ở Pháp, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" (do
Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924)) để chống lại
đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin.
Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm
nhỏ.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6804), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét