Vũ Trọng Khải - Chặn bình thông nhau

(TBKTSG) - Các bài học rút ra từ chuyện "tái cơ cấu"
Vinashin, không chỉ cho tập đoàn này mà còn cho các doanh nghiệp
nhà nước khác.

<h2>Bài học pháp lý</h2>

Vinashin là một doanh nghiệp có một chủ sở hữu là Nhà
nước. Từ 30-6-2010 trở về trước, nó hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp nhà nước. Do đó, tuy không thể hiện trên văn
bản, nhưng trên thực tế, <span class="underlined-text">Vinashin là
doanh nghiệp trách nhiệm vô hạn</span>.

<div class="boxright300"><img
src="/files/u1/sub01/binh%20thong%20nhau.jpg.jpg" width="299" height="208"
alt="binh thong nhau.jpg.jpg" /><div class="textholder">Nguyên tắc bình
thông nhau: Ngân sách Vinashin hết thì lại được ngân sách nhà
nước rót vốn, do đó nếu tiếp tục, Vinashin chỉ phá sản
khi... ngân sách nhà nước cạn kiệt.</div></div>
Theo đó, ngân sách nhà nước và ngân sách doanh nghiệp là "hai
bình thông nhau". Điều đó có nghĩa khi doanh nghiệp thiếu
vốn, ngân sách nhà nước "tự động" cung ứng, dưới dạng
cấp vốn hay cho vay theo quyết định của chủ sở hữu, mà ở
đây là Chính phủ hay người đứng đầu Chính phủ.

Trên thực tế, tình trạng tài chính của Vinashin đã diễn ra
như vậy, cho nên dù hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ nặng,
Vinashin vẫn chưa rơi vào tình trạng phá sản. Bởi theo Luật
Phá sản, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì mới bị coi là lâm
vào tình trạng phá sản.

Nhưng ở trường hợp này, chủ nợ lớn nhất của Vinashin là
Chính phủ, chứ không phải là nhà cung ứng vật tư, tín dụng
cho Vinashin. Ở đây, Chính phủ cùng một lúc đóng ba vai trò:
(1) Chính phủ quản lý doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhà
nước nói riêng theo pháp luật, (2) Chính phủ là chủ sở hữu
vốn; (3) Chính phủ là chủ nợ.

Chính phủ với tư cách là chủ nợ không những không đòi lại
các khoản nợ đến hạn mà còn cấp thêm vốn hay bảo lãnh cho
vay, cho vay tiếp thì đến bao giờ Vinashin mới lâm vào tình
trạng phá sản theo luật định?

Do Luật Doanh nghiệp nhà nước hết hiệu lực vào ngày 1-7-2010,
nên từ thời điểm này các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
phải chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp dưới dạng
công ty TNHH một thành viên. Người ta hy vọng rằng, chuyển sang
công ty TNHH một thành viên, "cái van" giữa "hai bình thông
nhau" - ngân sách nhà nước và ngân sách doanh nghiệp, sẽ
được lắp đặt và khóa lại. <span class="underlined-text">Và như
thế chúng ta đã xóa bỏ tính trách nhiệm vô hạn của doanh
nghiệp có 100% vốn nhà nước</span>. Nhưng thực tế lại không
diễn ra như Luật Doanh nghiệp mong muốn. Bởi Chính phủ hay
Thủ tướng Chính phủ cùng một lúc đóng ba vai trò như nêu ở
trên, nên có đủ thẩm quyền ra quyết định chia Vinashin thành
ba, như ta đã thấy.

Khi phần lớn các doanh nghiệp con của Vinashin được chuyển
sang PetroVietNam và Vinalines, chắc chắn, hai tập đoàn doanh
nghiệp này sẽ phải dùng ngân sách của mình để tiếp tục
cung cấp vốn cho các doanh nghiệp con vừa tiếp nhận. Điều
đó có nghĩa là, thay vì phần lợi nhuận của hai tập đoàn
này (nhất là PetroVietNam do bán tài nguyên thô nên lợi nhuận
rất nhiều) sẽ được nộp vào ngân sách nhà nước, thì nay
phải trích ra một khoản không nhỏ để cung ứng vốn cho các
doanh nghiệp con vừa tiếp nhận từ Vinashin. Vì thế, về thực
chất, ngân sách nhà nước vẫn tiếp tục cung ứng thêm vốn
cho Vinashin, nhưng được "che đậy" bằng cách như nêu ở
trên.

Cái "van" tuy được lắp đặt giữa "hai bình thông nhau" -
ngân sách nhà nước và ngân sách doanh nghiệp, nhưng Chính phủ
hay Thủ tướng Chính phủ có quyền "mở van" bất kỳ lúc
nào. Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước vẫn là doanh nghiệp trách
nhiệm vô hạn, chứ không phải TNHH. Vì vậy, chắc mọi người
đều rõ, xét về mặt pháp lý, để khắc phục tình trạng
này, luật pháp cần được sửa đổi như thế nào, tư duy của
những người làm luật và thi hành luật cần được thay đổi
ra sao?

<h2>Bài học quản lý</h2>

Quy mô của Vinashin là quá lớn so với năng lực quản lý với
hơn 200 doanh nghiệp thành viên, hàng trăm ngàn tỷ đồng vốn
kinh doanh, trải trên địa bàn rộng suốt từ Bắc đến Nam.
Tình trạng "quá tải" trong quản lý như vậy sẽ dẫn đến
thua lỗ là đương nhiên.

Nhưng tại sao Vinashin lại "to" lên đến mức như vậy chỉ
trong vòng chưa đầy năm năm? <span class="underlined-text">Bởi
Vinashin ra đời theo một quyết định hành chính của Thủ
tướng Chính phủ, không theo quy luật tích tụ và tập trung tư
bản của kinh tế thị trường</span>.

Một tập đoàn kinh tế (tập đoàn doanh nghiệp) được hình
thành trong một thời gian dài, là kết quả của quá trình tích
tụ và tập trung tư bản, lớn dần theo năng lực quản lý của
chính nó. Một doanh nghiệp ăn nên làm ra, thì lợi nhuận, sau
khi đã dành một phần cho chủ sở hữu sử dụng, sẽ được
chủ sở hữu quyết định tái đầu tư. Nhưng đầu tư vào
đâu? Đầu tư vào chính nó thì sẽ gặp các nguy cơ: (1) quy mô
kinh doanh quá lớn so với năng lực quản lý của một doanh
nghiệp (quá tải trong quản lý) sẽ dẫn đến suy giảm hiệu
quả kinh doanh; (2) tăng khả năng rủi ro vì "tất cả các quả
trứng đều được để vào trong một giỏ"; (3) cung - cầu
về mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh sẽ bão hòa hay cung
lớn hơn cầu, dẫn đến giảm hiệu quả kinh doanh hay thua lỗ.

Vì thế, để tránh ba nguy cơ trên, lợi nhuận của doanh nghiệp
sẽ được đầu tư vào những lĩnh vực khác, ở những vùng
kinh tế khác, bằng cách lập các doanh nghiệp mới với tư cách
là doanh nghiệp con, dưới hình thức công ty TNHH một thành
viên, nhiều thành viên, công ty cổ phần, hay bằng cách mua lại
phần vốn của các doanh nghiệp đang hoạt động, đến mức có
thể chi phối, biến nó thành doanh nghiệp con. Doanh nghiệp đầu
tư vốn đóng vai trò chi phối trở thành doanh nghiệp mẹ. Doanh
nghiệp bị mua lại thường là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ,
buộc phải rao bán trên thị trường, hay công ty cổ phần đã
niêm yết cổ phần (công ty đại chúng).

Như vậy, các doanh nghiệp con vẫn là một thực thể pháp lý,
hoạt động tự chủ trên thương trường theo luật pháp và
quyết định của chủ sở hữu vốn, không cần có sự "quan
tâm" thường xuyên của công ty mẹ - chủ sở hữu phần lớn
số vốn sở hữu chủ ở các doanh nghiệp con. Do vậy, cả công
ty mẹ và công ty con cùng phát triển theo quá trình tăng vốn và
năng lực quản lý của cả tập đoàn doanh nghiệp nên không
rơi vào tình trạng "quá tải" trong quản lý. Và do đó, tập
đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải là một
thực thể pháp lý, không có ai ra quyết định thành lập, không
có "ngày sinh tháng đẻ".

Còn các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam, theo quy
định của Chính phủ, đột nhiên phải thu gom hàng chục, thậm
chí hàng trăm doanh nghiệp con. Các doanh nghiệp này từ trước
đến giờ "không quen biết" gì nhau, nằm ở rải rác khắp
nơi, nay cùng "chui" vào một "rọ quản lý" của tập
đoàn. Chuỗi quản lý hành chính kéo dài vô lý với 5-6 cấp
trung gian, nên tình trạng quan liêu, "quá tải" trong quản lý
đương nhiên xảy ra phổ biến. Ví dụ, Tập đoàn công nghiệp
cao su có chuỗi quản lý dài tới 5-6 cấp: tập đoàn, tổng
công ty, công ty, nông trường (hoặc nhà máy chế biến), đội
(hay phân xưởng), tổ (hay ca, kíp).

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là đơn vị tự
chủ kinh doanh theo pháp luật và ý chí của chủ sở hữu, thể
hiện qua quyền quyết định kinh doanh mặt hàng gì, quy mô kinh
doanh lớn, nhỏ thế nào, mua nguồn lực đầu vào của ai, bán
sản phẩm (đầu ra) của doanh nghiệp cho ai, theo giá cả và
phương thức thanh toán ra sao... Do đó, không có doanh nghiệp
cấp trên - doanh nghiệp cấp dưới theo thứ bậc hành chính như
trong các tổ chức khác mà ta thường thấy. Bởi vì, nếu tập
đoàn hay tổng công ty với tư cách là doanh nghiệp có quyền
quyết định những vấn đề nêu trên thì các thành viên của
nó, tuy được gọi là doanh nghiệp con, sẽ không có những
quyền đó nữa, nên không còn là doanh nghiệp trên thực tế và
tập đoàn, tổng công ty trở thành cấp trên của các doanh
nghiệp thành viên.

Trong các tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà
nước, về mặt pháp lý, tập đoàn, tổng công ty và các doanh
nghiệp thành viên đều là những pháp nhân có quyền tự chủ
kinh doanh, nên mâu thuẫn, xung đột quyền lực, quyền lợi trong
các tổ chức này mang tính cấu trúc, làm cho hiệu quả kinh tế
chắc chắn không thể cao, nếu không muốn nói là thua lỗ. Do
vậy, hiệu quả kinh doanh thấp của các tập đoàn kinh tế và
tổng công ty nhà nước cũng mang tính cấu trúc, do chúng được
thành lập và hoạt động một cách phi thị trường.

<h2>Bài học tài chính</h2>

Đối với doanh nghiệp tư nhân nói chung, dù tồn tại dưới
hình thức nào, doanh nghiệp TNHH hay doanh nghiệp trách nhiệm vô
hạn, lợi nhuận sau thuế thuộc quyền sở hữu và định
đoạt của chủ sở hữu (hay các chủ sở hữu). Còn đối với
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bấy lâu nay, lợi nhuận sau
thuế do ai định đoạt? Lợi nhuận sau thuế đương nhiên là do
chủ sở hữu là nhà nước định đoạt, nhưng chế độ tài
chính hiện hành lại "giao quyền tự chủ" cho doanh nghiệp
mà cụ thể là người đứng đầu doanh nghiệp như Chủ tịch
hội đồng quản trị và hội đồng quản trị, Chủ tịch công
ty hay Tổng giám đốc (Giám đốc).

Vì lẽ đó, các doanh nghiệp nhà nước có lợi nhuận cao - mà
phần lớn nhờ những ưu đãi về chính sách tín dụng, thuế,
đất đai, hay vị trí độc quyền kinh doanh, do lợi thế kinh
doanh của các ngành khai thác tài nguyên như dầu khí, hay do thị
trường như trồng cao su, chứ không phải do năng lực quản lý
cao mang lại - đã "phát huy tính năng động, tự chủ" bằng
cách sử dụng lợi nhuận sau thuế đem đi đầu tư sang cả
những lĩnh vực "sở đoản", nhiều rủi ro như chứng khoán,
ngân hàng, bất động sản, mà ta đã thấy. Cũng trong khuôn
khổ đó, PetroVietnam và Vinalines sẽ sử dụng lợi nhuận và có
khi cả vốn của mình để nuôi "mấy đứa con ốm yếu"
vừa tiếp nhận từ Vinashin.

Do vậy, nguồn thu của ngân sách nhà nước bị thiếu hụt,
trong khi nợ công ngày càng tăng cao. Cuối cùng, nguồn thu ngân
sách nhà nước chỉ còn trông chờ chủ yếu từ thuế thu đối
với doanh nghiệp dân doanh và thuế thu nhập cá nhân, tức là
thu từ người dân (doanh nghiệp dân doanh cũng là của dân). Ấy
vậy, ngân sách nhà nước lại phải cung ứng cho những doanh
nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ như Vinashin dưới nhiều hình
thức, cấp vốn, bảo lãnh tín dụng, cho vay bằng cách phát
hành trái phiếu Chính phủ...

Tất cả những khiếm khuyết của doanh nghiệp nhà nước, mà
Vinashin chỉ là một ví dụ điển hình, khiến người ta phải
xem xét lại "vai trò chủ đạo" của doanh nghiệp nhà nước.
<span class="underlined-text">Xét về lâu dài và toàn cục, không
một nước nào có doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả hơn
doanh nghiệp dân doanh.</span>

Doanh nghiệp nhà nước chỉ hoạt động tạm thời ở một
không gian nhất định, trong một lĩnh vực nào đó mà tư nhân
chưa đầu tư vì hiệu quả kinh doanh thấp, với quy mô hợp lý
vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Khi điều
kiện chín muồi, tư nhân sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh
vực và vùng lãnh thổ này thì nhà nước phải rút vốn đầu
tư của mình ra để chuyển sang các lĩnh vực và vùng lãnh thổ
cần thiết khác để phát triển kinh tế - xã hội quốc gia,
bằng các hình thức tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước.

VTK

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5629), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét