Tô Văn Trường - Hiến pháp dân chủ là tất yếu của nhà nước Pháp Quyền

Vật chất có thể nhận biết bằng cách quan sát các hiện
tượng hoặc bằng cách suy luận. Ánh sáng có thể được thấy
dưới dạng hạt hoặc là sóng. Đánh giá một quốc gia, người
ta thường nhìn vào bản Hiến pháp bởi vì nó là một hệ
thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết
lập thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính
quyền. Bởi vậy, tất cả các quốc gia đều rất cần có bản
Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp quyền.

Quốc hội có chủ trương sửa lại Hiến pháp năm 1992, không
những là cơ sở để sửa những luật cơ bản về tổ chức
bộ máy nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và quyền bầu
cử mà còn là cơ hội để rà soát, đánh giá lại toàn bộ
về bản Hiến pháp đối với yêu cầu hội nhập và phát
triển của đất nước. Hiến pháp là một văn kiện thiêng
liêng của mỗi quốc gia, là văn bản tối cao của pháp luật
quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước đó.
Bản chất của Hiến pháp là những quy định pháp luật mà văn
bản pháp luật là những điều quy tắc ứng xử , bắt buộc
đối với mọi đối tượng sống trên lãnh thổ nhà nước cho
nên khi sửa phải rất thận trọng, bài bản, khoa học và thực
tế. Hiến pháp của một quốc gia là tiếng nói của nhân dân,
của dân tộc làm chủ quốc gia đó. Người đứng ra nói trong
Hiến pháp là dân tộc, từng câu, từng chữ, từng lời trong
Hiến pháp là câu, là chữ, là lời của dân tộc, biểu thị
sự lựa chọn và quyết định của dân tộc, ý chí và tâm
nguyện của dân tộc.

Nhận thức về bản chất của Hiến pháp, sẽ chỉ rõ cho chúng
ta khi muốn sửa Hiến pháp phải làm những việc gì, làm như
thế nào, khi nào để một văn bản tự nhận là Hiến pháp
đáng gọi là Hiến pháp. Trên thế giới này, xưa nay đã từng
có những bản mạo danh Hiến pháp, là sản phẩm của một số
người mạo danh dân tộc. Xin lưu ý rằng, giá trị của một
bản Hiến pháp hoàn toàn vừa đúng bằng, không hơn, không kém,
giá trị của sự thực hiện Hiến pháp ấy. Những nhà nghiên
cứu có kinh nghiệm thường đánh giá một bản Hiến pháp dựa
trên sự phân tích thực tế thực hiện hay không thực hiện,
thực hiện trung thành hay thực hiện bóp méo các điều khoản,
và các câu chữ của văn bản Hiến pháp ấy.

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày
2/9/1945, đọc tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, mở đầu,
Người đã dựa vào lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc
lập 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và Dân
quyền của cách mạng Pháp năm 1791: "<em>Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc</em>".

Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn
chương chính luận Việt Nam là Văn kiện pháp lý đầu tiên khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc
tế. Bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 của Hồ Chủ Tịch văn
chương sắc sảo, giản dị, dễ hiểu, lay động lòng người,
phản ánh tư tưởng của Người: Dân tộc muốn đi lên, phải
biết thừa kế các tinh hoa của nhân loại. Với tầm vóc của
lãnh tụ, Người lập luận vô cùng sắc sảo, đanh thép, chân
lý, hào khí của dân tộc: "<em>Nếu nước nhà được độc
lập mà dân chúng không có tự do hạnh phúc thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì</em>". Tư tưởng của Hồ Chí Minh về
dân chủ rất đơn giản, thiết thực nghĩa là mọi người dân
có quyền được mở miệng hay nói cách khác Hiến pháp phải
thể hiện được quyền phúc quyết của người dân. Nếu dùng
phương pháp "tham chiếu" sẽ thấy Hiến pháp 1946 thể hiện
tuyệt vời Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch bởi lẽ
nó đúng, đủ và giản dị, thể hiện dễ hiểu thành Hiến
pháp với tất cả tinh thần của Tuyên ngôn độc lập. Thực
ra, thể hiện Tuyên ngôn độc lập như thế vào Hiến pháp là
việc rất khó nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm
được. Đương nhiên, thời ấy câu chữ có phần mộc mạc
để cho mọi người dân dễ hiểu nên vấn đề tam quyền phân
lập được viết ra dưới dạng rất "bình dân", nhưng mà
vẫn đủ nghĩa. Trong quá trình phát triển của đất nước,
phải hướng tới tương lai, chúng ta không bao giờ muốn "bao
giờ cho đến ngày xưa" nhưng éo le thay, thời đại ngày nay
vấn đề sống còn của đất nước là phải trở lại, học
hỏi những tinh túy của Hiến pháp 1946.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ 3/9/1945, Hồ Chủ
tịch đã có chỉ thị nhiệm vụ cấp bách phải xây dựng bản
Hiến pháp để nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ.
Theo sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 của Hồ Chủ Tịch Ban soạn
thảo Hiến pháp 1946 của Chính phủ lâm thời do 7 người chủ
trì: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy (Bảo Đại), Đặng Thái Mai, Vũ
Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu
(Trường Chinh). Tháng 11-1945, bản Dự án Hiến pháp của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Chính phủ soạn thảo
và được công bố để lấy ý kiến các chính giới. Uỷ ban
kiến quốc của Chính phủ cũng đã tự nghiên cứu và đưa ra
một Dự thảo Hiến pháp. Ngày 2-3-1946, tại kỳ họp thứ
nhất, Quốc hội khóa I, Quốc hội đã bầu Ban Dự thảo Hiến
pháp gồm 11 người: Trần Duy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức
Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn
Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn
Thị Thục Viên. Đây là các trí thức tiêu biểu có người
chưa phải là đảng viên. Căn cứ vào bản Dự án của Chính
phủ và đối chiếu với bản Dự thảo của Uỷ ban kiến
quốc, tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân và
tham khảo kinh nghiệm soạn Hiến pháp của các nước, Ban Dự
thảo Hiến pháp của Quốc hội đã soạn thảo một Dự án
Hiến pháp để trình Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29-10-1946,
Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội được mở rộng thêm 10
vị đại biểu cho các nhóm, đại biểu trung lập, đại biểu
Nam Bộ, đại biểu đồng bào dân tộc thiểu số để tham gia
tu bổ thêm bản Dự án.

Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, từ ngày 28-10 đến
ngày 9-11-1946, lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam thực hiện
quyền lập hiến. Từ ngày 2-11-1946, Quốc hội bắt đầu thảo
luận về Dự án Hiến pháp. Các đại biểu của các nhóm
đảng trong Quốc hội đã lần lượt phát biểu ý kiến. Các
vị đại biểu của các nhóm đều đã nêu ra những ưu điểm
của Dự án Hiến pháp, đóng góp thêm một số khía cạnh cụ
thể và đi đến thống nhất nội dung của Dự án. Sau nhiều
buổi thảo luận và tranh luận sôi nổi, sửa đổi, bổ sung cho
từng điều cụ thể, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết
thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Hiến pháp 1946 với sự nhất trí của 240/242 đại biểu dự
họp. Hiến pháp 1946 khá đơn giản, có 70 điều, được xây
dựng trên tư tưởng pháp quyền, tự do dân chủ của công dân,
và quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước.
Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946 được thể hiện
trong 3 nguyên tắc cơ bản, đó là: đoàn kết toàn dân, không
phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo trên cơ sở
của nhà nước pháp quyền với quyền tự do dân chủ của công
dân . Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta thời ấy nên Hiến
pháp 1946 tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn có mặt bị hạn
chế, phải dung hòa. Cụ Nguyễn Sơn Hà là đại biểu Quốc
hội Khóa I của Việt Nam bỏ phiếu chống chỉ vì Hiến pháp
không có Điều nói về tự do kinh doanh. Ngẫm suy, mới thấy
sinh hoạt Quốc hội thực sự dân chủ ngay từ thời mới lập
nước Việt Nam để phát huy trí tuệ của toàn dân.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Hiến pháp Hoa Kỳ được thông
qua năm 1789 có tính quốc gia hiện đại lâu dài nhất trên thế
giới nhưng thực ra, nó cũng chịu ảnh hưởng của Hiến pháp
Anh. Xin ghi lại nguyên văn câu đầu tiên của Hiến pháp Hợp
chủng quốc Mỹ (từ "Hợp chủng quốc" dịch không chuẩn từ
"United States") "<em>CHÚNG TÔI, NHÂN DÂN Hợp chủng quốc, với
mục đích thực hiện một sự liên hiệp chặt chẽ hơn, thiết
lập công lý, duy trì an ninh nội bộ, trù liệu công cuộc phòng
thủ chung, phát triển sự thịnh vượng toàn diện và bảo
đảm cho chúng tôi và hậu thế của chúng tôi các lợi ích
của sự tự do, quyết định và thiết lập hiến pháp này cho
Hợp chủng quốc Mỹ</em>".

Câu nói trên, là của những người biết cách viết Hiến pháp.
Còn chất lượng của Hiến pháp, và nhất là giá trị của sự
thực hiện Hiến pháp, thì phải nghiên cứu, phân tích trong
thực tế cuộc sống. Hiện nay, ở nước ta vẫn có phần úy
kỵ với tam quyền phân lập mà hay dùng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Nếu đi sâu phân tích về tam quyền
phân lập, bản chất là 3 nhánh quyền lực không chỉ phân lập
mà còn kết hợp hài hòa chặt chẽ và kiểm tra giám sát lẫn
nhau trên nền tảng là trung thành với nhân dân.

Văn bản luật trong nhà nước pháp trị gồm một hệ thống
từ Hiến pháp đến các văn bản lập pháp ban hành và hướng
dẫn thực hiện. Pháp luật nhà nước là công cụ phục vụ cho
các giá trị xã hội cho nên Đảng phải chủ động đặt lên
bàn nghị sự thảo luận những vấn đề cốt lõi của thể
chế hiện nay.

Hiến pháp 1992 gồm 12 chương, 147 điều được Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Khóa VIII, kỳ họp
thứ 11 nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 15/4/1992 do Chủ
tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký. Nếu đọc kỹ bản Hiến
pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có Lời
nói đầu 2 trang, 6 đoạn, cần phải sửa để người đọc
thấy rõ đó là lời của nhân dân Việt Nam. Đó là mới chỉ
nói về viết văn bản Hiến pháp. Người dân hiểu được
tiến trình quốc gia thông qua Hiến pháp có quan hệ mật thiết
đến hoàn cảnh chính trị và lịch sử văn hóa của dân tộc.
Việc quan trọng nhất là phải xác định nội dung Hiến pháp
xây dựng trên các nguyên tắc nào, các quan điểm xây dựng
Hiến pháp và các phương pháp thực hiện.

Theo chúng tôi hiểu, hiện nay có 3 quan điểm sửa đổi Hiến
pháp 1992. Thứ nhất là chỉ sửa một số điểm trong Hiến
pháp để làm cơ sở sửa những luật cơ bản về tổ chức
bộ máy nhà nước nhằm bỏ Hội đồng nhân dân cấp huyện và
cho Thủ tướng Chính phủ quyền bổ nhiệm các chủ tịch
tỉnh, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và quyền bầu cử. Có thể
nói đây là quan điểm cho mục tiêu trước mắt. Quan điểm
thứ hai là trả lại cho dân quyền làm chủ đích thực:
"<em>Dân làm chủ có nghĩa là Dân phải quyết trực tiếp thể
chế quốc gia, tức là Hiến pháp và những việc quan hệ đến
vận mệnh quốc gia, rồi Dân giao cho Nhà nước và giám sát Nhà
nước (Quốc hội, Chính phủ và Tòa án) quản lý đất nước
theo Hiến pháp và những quyết định đó của Dân</em>". Ông
Nguyễn Văn An đã có thời kỳ đảm nhiệm cương vị Chủ
tịch Quốc hội. Qua trải nghiệm của thời gian, thấy rõ
những khiếm khuyết, bất cập của Hiến pháp 1992 nên Ông đã
mạnh dạn đề xuất quan điểm thứ hai nói trên hay nói cách
khác đây là mục tiêu lâu dài. Quan điểm thứ ba dựa trên
thể chế chính trị dân chủ của học hỏi và phát triển,
cần Đổi mới Đảng và khởi động cuộc vận động cả
nước đi vào quá trình dân chủ hoá đất nước. Chúng tôi
nhận thấy những ý kiến nêu trên rất cần thiết phân tích,
đánh giá. Những người đương chức, có trách nhiệm cần sắp
xếp, thể hiện tính lô-gích nội tại của sự vật, của
thực tế bởi vì Hiến pháp 1992 không đáp ứng được yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội sau 20 năm đổi mới. Thiệt
thòi là lịch sử phát triển xã hội ở nước ta không trải
qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa nên không có được kinh nghiệm
tri thức và cơ sở vật chất cho nên phải mò mẫm theo định
hướng riêng nên gặp phải nhiều khó khăn, trắc trở cũng là
điều dẽ hiểu. Trong thời đại hội nhập và phát triển
chúng ta cần phát huy tính tự cường của dân tộc, đồng
thời khiêm tốn, học hỏi các tinh hoa của nhân loại để
tiến cùng thời đại.

Người dân luôn quan tâm làm thế nào để Hiến pháp được
thực thi một cách minh bạch, hữu hiệu trong đời sống thực
tế? Ngay bản Hiến pháp trước đây của Liên Xô trên văn bản
là đảm bảo quyền tự do lập hội hay quyền tự do ngôn luận
nhưng thực tế diễn ra không phải như vậy. Ở các nước tiên
tiến, thực sự dân chủ, Hiến pháp được bảo vệ bằng Tòa
án Hiến pháp hoặc Tòa án tối cao. Việc sửa đổi Hiến pháp
1992 để có thể áp dụng hữu hiệu trong thực tế, đáp ứng
nhu cầu hội nhập và phát triển, phải được xây dựng trên
tư duy phân rõ trách nhiệm, quyền hạn, và giám sát lẫn nhau
của 3 tổ chức bộ máy nhà nước: Lập pháp; Hành pháp; và Tư
pháp; Các cơ quan Truyền thông, báo chí và Kiểm toán độc lập
không nằm trong bộ máy tổ chức nhà nước nhưng là trung tâm
quyền lực xã hội cần được luật hóa bảo đảm quyền lực
trong xã hội dân sự, đồng thời chịu trách nhiệm trước
pháp luật và xã hội. Nói cách nôm na, xã hội cần có 5 trung
tâm quyền lực nói trên hay còn gọi là "ngũ quyền" để
kiểm tra, giám sát lẫn nhau.

Sửa đổi Hiến pháp 1992 là một dịp rất tốt để thúc đẩy
quá trình dân chủ hóa do Đảng phát động thông qua dư luận
xã hội. Ý kiến của xã hội dân sự lành mạnh sẽ là chỗ
dựa tin cậy và chắc chắn cho lực lượng cầu thị trong
Đảng. Trong bối cảnh đất nước hiện nay, mọi sự cải cách
cơ bản chỉ có thể do bộ phận lãnh đạo chủ chốt của
Đảng phát động, chỉ đạo thực hiện và phải thực sự
cầu thị lấy tư tưởng Hồ Chí Minh và yêu cầu phát triển
của thời đại làm nền tảng.

Hiến pháp dân chủ về bản chất nhân dân phải là người ra
quyết định làm chủ quốc gia. Nội dung chủ yếu của các
quyết định ấy được tạo thành hệ thống pháp luật. Nguyên
tắc quan trọng nhất là tất cả quyền bính trong nước đều
thuộc về nhân dân. Bởi vậy, chúng tôi đề nghị khi sửa
bản Hiến pháp 1992, thì ngay câu đầu tiên phải viết như sau:

"<em>Chúng tôi, dân tộc Việt Nam quyết định và công bố
những điều khoản sau đây, với trách nhiệm lịch sử trước
các thế hệ người Việt Nam hiện nay và mai sau, trước các
dân tộc, các quốc gia trong cộng đồng quốc tế</em>" .

Trong bối cảnh của đất nước hiện nay, cần phải có bước
quá độ nhưng một số vấn đề quan trọng nhất sau đây cần
phải được làm ngay, có tính chất mở đường khi sửa đổi
Hiến pháp 1992:

1. Đảng lãnh đạo thông qua quan điểm được thể hiện trong
luật pháp và các chủ trương chính sách được Quốc hội
thông qua, và qua đảng viên của mình trong hệ thống bộ máy
nhà nước; Cần làm rõ Hiến pháp là tối thượng, Nhà nước
là tối thượng, chính quyền chỉ hoạt động theo quy định
của Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Sau khi làm rõ quyền
và trách nhiệm của công dân, rồi đến quyền và trách nhiệm
của hệ thống nhà nước trong chỉnh thể tam quyền phân lập.
Cần có một chương mục chung quy định về các điều kiện
phải có để được phép trở thành đảng chính trị tham gia
bầu cử nhằm loại bỏ, sàng lọc các đảng phái không thực
sự đại diện cho các lợi ích dân tộc mà chỉ mưu đồ cho
mục đích của một nhóm cá nhân có khả năng làm ảnh hưởng
đến lợi ích cùa toàn dân tộc. Các điều kiện, vai trò lãnh
đạo chỉ được công nhận qua bầu cử. Chương mục về
đảng phái chính trị nên để chung vào chương mục bầu cử.

2. Để đảm bảo quyết phúc quyết của dân, trước hết phải
bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, các quyền
tự do ngôn luận, đi lại & cư trú, hành nghề, bảo hộ quyền
sở hữu, quyền ứng cử và bầu cử

3. Bảo đảm tự do báo chí. Tự do được hiểu là trong khuôn
khổ của Hiến pháp và quyền hạn gắn với trách nhiệm.

Quốc gia muốn phát triển bền vững đòi hỏi có bản Hiến
pháp xứng đáng gọi là Hiến pháp, hay nói cách mạnh mẽ hơn
cần có bản Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp
quyền. Đảng nâng cao vai trò, chất lượng và nội dung lãnh
đạo của Đảng bằng việc lãnh đạo tạo dựng được quyền
nhân dân ta thực sự là chủ và thực sự làm chủ, lãnh đạo
tạo dựng được một nhà nước mạnh, có một bản Hiến pháp
đích đáng là Hiến pháp dân chủ, một nhà nước có thực
quyền nhà nước.

<em>* Trên đây là bản đầy đủ và là bản công bố, do tác
giả gửi trực tiếp cho Blog Nguyễn Xuân Diện. Xin chân thành
cám ơn tác giả và xin tiếp nhận các ý kiến đóng góp của
bạn đọc, các comment thích hợp sẽ được hiển thị bên
dưới.</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5786), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét