Nguyễn Thanh Giang – Người trí thức bị ruồng bỏ

Năm 1989, một sinh viên cũ từ xứ sở bị đô hộ xưa trở
lại thăm "mẫu quốc" đã được hiệu trưởng trường
Đại học Tổng hợp Paris 7, một trong nhũng trường uy tín
nhất của nước Pháp, khẩn khoản: "<em>Nhân dịp giáo sư sang
đây, ban giám hiệu chúng tôi xin dành trọn một ngày để kính
mời giáo sư giới thiệu phương pháp và kinh nghiệm học tập
của giáo sư với toàn trường chúng tôi", bởi vì "Đã sáu
mươi năm qua, trên đất Pháp này chưa có sinh viên Pháp hay sinh
viên quốc tế nào phá được kỷ lục: đạt hai bằng tiến sĩ
quốc gia Pháp ở tuổi 22.</em>"

Người cựu sinh viên ấy tên là Nguyễn Mạnh Tường.

Ông sinh năm 1909 ở phố Hàng Đào, Hà Nội. Theo học tại
trường Albert Sarraut, năm 16 tuổi ông đỗ tú tài rồi sang Pháp
du học từ năm 1927. Năm 1932 bảo vệ thành công luận án tiến
sĩ luật "Cá nhân trong đô thị cổ Việt Nam" tại Đại
học Montpellier. Một tháng sau tiếp tục bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ văn chương "Việt Nam trong văn chương
Pháp".

Khi ông về nước, hai viên mật thám Pháp, trong đó có Louis
Marty, gặp và gợi ý đưa ông vào làm thượng thư trong triều
Bảo Đại. Bị gây khó khăn do từ chối lời mời này, ông
chỉ ở nhà ba tháng rồi lại trở lại Pháp. Ông đã bỏ ra
năm năm trời đi tham quan và nghiên cứu các nước châu Âu: Tây
Ban Nha, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập… để viết bốn cuốn
sách bằng tiếng Pháp: Nền tảng Pháp, Kinh nghiệm Địa Trung
Hải, Kinh nghiệm và nước mắt tuổi trẻ, Du lịch và cảm xúc
(kịch).

Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh Tường dạy học ở
trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat), hay còn gọi là
trường Bưởi (từ 1945 đổi tên thành trường Trung học Chu
Văn An).

Do bất mãn với chính sách kỳ thị của Pháp, ông bỏ trường
về mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự số 1 và số 2 Mai
Xuân Thưởng. (Những biệt thự này về sau đã được gia đình
ông hiến tất cả cho Nhà nước để rồi gần đây được sử
dụng làm trụ sở cơ quan tiếp dân của Thanh tra Chính phủ).

Ngay từ năm 1936, khi trở về Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tường đã
dành thời gian học tiếng Trung, tham gia phác hoạ văn phạm
Việt Nam với nhóm Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, và hợp tác làm
tự điển với Khai trí Tiến Đức.

Ông đã góp vào kho tàng tri thức Việt Nam 18 tác phẩm quý gồm
14 cuốn viết bằng tiếng Pháp và 4 tác phẩm tiếng Việt, như:

<blockquote>* Văn phạm Việt Nam (cùng Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim,
1941)
* Việt Nam Tự điển (Hội Khai trí Tiến Đức)
* Construction de l'Orient (1937)
* Sourires et Larmes d'une Jeunesse (1937)
* Pierres de France (1940)
* Apprentissage de la Méditerranée (1940)
* Le Voyage et le Sentiment (1940)
* Một cuộc hành trình (1955)
* Un Excommunité – Hà Nội: 1954-1991: Procès d'un intellectuel
(Quê Mẹ, Paris 1992)
* Lý luận giáo dục châu Âu: Từ Érasme tới Rousseau thế
kỷ XVI, XVII, XVIII ( NXB Khoa học Xã hội, 1994)
* Aikhylos(Eschyle) và bi kịch cổ đại Hi Lạp (NXB Giáo dục
1996)
* Virgile – nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mã cổ đại
(NXB Khoa học Xã hội, 1996)</blockquote>

Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, ông được mời dạy
văn chương Tây phương tại trường Đại học Văn khoa do ông
Đặng Thai Mai làm hiệu trưởng.

Năm 1946 Hồ Chủ tịch cử Nguyễn Hữu Đang đến trịnh trọng
mời ông để giao một nhiệm vụ quan trọng.

Ông kể: "<em>Cụ Hồ nói: Ta sẽ ký với Pháp một tạm ước,
nhưng lại muốn đạt được cao hơn một tạm ước. Sẽ có
hội nghị, lúc đầu ở Việt Nam (Đà Lạt), sau ở Pháp. Nhờ
ngài xây dựng cho lập trường Việt Nam để đi đấu tranh. Tôi
từ chối, nói còn có nhiều người giỏi hơn tôi. Cụ Hồ
khẩn khoản:</em>

<em>Tôi đã hỏi nhiều anh em, họ đều bảo chỉ có ngài làm
được, xin ngài về suy nghĩ và giúp cho Chính phủ. (Hồi này
cụ Hồ cứ gọi tôi là ngài!) Đi Đà Lạt là đoàn liên hiệp
các đảng phái. Trưởng đoàn là Nguyễn Tường Tam. Phó là Võ
Nguyên Giáp. Không thuộc đảng phái nào thì có Hoàng Xuân Hãn,
Nguyễn Văn Huyên và tôi. Lúc tiễn đoàn lên đường, cụ Hồ
nói to: Xin chúc anh em đi thành công, đặc biệt tôi có lời
khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh găng nhưng không
được gãy</em>".[1]

Một "sự cố" ở Hội nghị này cũng đã được ghi lại
như sau: "<em>Kết thúc Hội nghị, D'Argenlieu có tổ chức
tiệc trà tiễn đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp đến nói:
Thủy sư Đô đốc muốn gặp riêng ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân
hạnh được quen biết ngài Thủy sư Đô đốc. Có anh em nói:
Nó mời thì anh cứ đi. Tôi đi xuyên qua phòng họp, đông
khoảng một trăm người, đến gặp nó, chỉ toàn nói chuyện
xã giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói:
Tường là tay trong của Pháp, Tường phản quốc". Hoàng Xuân
Hãn tức mình, đến gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận mới được
dập tắt.</em>"[2]

Sau Hội nghị Đà Lạt ông còn được cử đi dự Hội nghị
Bảo vệ Hòa bình châu Á-Thái Bình Dương ở Bắc Kinh năm 1952
và Đại hội Hòa bình Thế giới ở Wien năm 1953.

Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Mạnh Tường tản cư
và vào dạy dự bị đại học tại phố Đu Thanh Hóa. Kháng
chiến chống Pháp thắng lợi, ông kể niềm hân hoan, tự hào
khi trở về Thủ đô: "<em>Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10
giờ sáng, lực lượng kháng chiến trọng thể tiến vào Thủ
đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với
tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc
xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang
hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ.
Tất cả hai bên nhà phố đều trang trí và niềm vui không tả
trên ánh mắt của từng người dân. Từng chặp, đoàn quân
phải ngừng lại để nhận những vòng hoa của từng đoàn
thiếu nữ mang tặng. Sự nồng nhiệt của dân chúng đã lên
đến cao độ, thật chân thành và nồng hậu. Kể cả những
người mà con tim còn đang nhịp nhẹ những tiếc nuối với
người chủ hôm qua, tất cả đều chuẩn bị đầy đủ cho
một cuộc găp gỡ dễ thương bằng sự rộng rãi và lịch sự,
họ vỗ tay hoan hô những người đã làm nên chiến thắng
Điện Biên Phủ: chiến công của họ khơi động lại niềm
hãnh diện của người dân Việt và phục hồi lại danh tiếng
cho nước nhà.</em>"[3]

Ông hồ hởi nhận lãnh nhiều trách nhiệm vinh dự: Hiệu
trưởng trường Đại học Luật, Phó Chủ tịch Hội Luật gia
Việt Nam, Chủ tịch Luật sư đoàn, Phó Hiệu trưởng trường
Đại học Sư phạm, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, ủy viên BCH Hội Hữu nghị
Việt–Pháp và Hội Hữu nghị Việt-Xô, thành viên của Uỷ ban
Bảo vệ Hoà bình Thế giới, chủ tịch sáng lập Câu lạc bộ
Đoàn kết Trí thức…

Năm 1956, trong cương vị Chủ tịch Luật sư đoàn, Phó Chủ
tịch Hội Luật gia Việt Nam, luật sư Nguyễn Mạnh Tường
được giao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn Việt Nam tại Hội nghị
Luật gia Dân chủ Thế giới tổ chức ở Bruxelles, Bỉ. Nhiệm
vụ của đoàn Việt Nam là làm sao được Hội nghị đưa ra
nghị quyết ủng hộ công cuộc đấu tranh thống nhất đất
nước của ta.

Năm 2009, nhân kỷ niệm 100 năm sinh của giáo sư Nguyễn Mạnh
Tường, giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Trần Thanh Đạm, thầy dạy
của nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng ngày nay, đã viết về
thầy giáo cũ của mình như sau: "<em>Nhớ lại hình ảnh thầy
Tường, tôi thường cảm kích nghĩ rằng chỉ riêng sự có mặt
của Thầy trong hàng ngũ những nhà trí thức yêu nước đi
kháng chiến theo cụ Hồ ngày ấy đã là một sự cổ vũ lớn
đối với thế hệ thanh niên chúng tôi. Chỉ riêng điều đó
đã là một cống hiến vô giá của Thầy đối với đất
nước, xứng đáng với sự hàm ơn và tưởng nhớ của các
thế hệ sau này, cần được vinh danh mãi mãi trong lịch sử
văn hóa và giáo dục của dân tộc ta</em>."[4]

<center>* * *</center>

Thế mà! Bỗng đâu…, ông "<em>đã là kẻ lữ hành trong
chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba
mươi năm dài đằng đẵng. Chìm trong vùng cát sa mạc của
tuyệt vọng làm cạn khô giòng nước mắt, tôi đã lê tấm
thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn, với quả tim rướm
máu bởi nỗi buồn của chua cay và vị đắng của mật. Không
một tia sáng của niềm vui trong đêm đen của địa ngục trần
gian mà tôi đang bị quét đi trong nỗi cô đơn.</em>"

"<em>tôi không bị ném vào tù hay bị còng tay. Tôi không bị
bắt đưa ra bất cứ toà án hình sự hay chính trị nào. Tôi
không bị bắt đày đi xa nhà hay xa gia đình. Nhưng cả xã hội
và mọi người đều biết: để tránh phải chịu những phiền
phức, những ai muốn tiếp xúc với tôi, dù bất cứ chuyện
gì, đều không dám. Nhà tôi như đang chứa một người đang
bị bệnh dịch, không nên đến gần. Ra đường, mọi người
thấy tôi từ xa đã quay ra ngõ khác để tránh đụng mặt, nếu
người nào đó, vì vô tình vô ý hay vì can đảm đến gõ cửa
gặp tôi, ngay sau khi vừa rời khỏi nhà là đã có công an mời
về cơ quan để tra tấn họ với những câu hỏi về họ là ai,
về gia đình và tầng lớp xã hội và đặc biệt là có quan
hệ gì đến tên tội phạm là tôi đây.</em>"

Không chỉ bị đầy đọa về mặt tinh thần, về vật chất
thì: "<em>Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và
những thứ nhu yếu trên chợ đen vì tôi không còn được phát
tem phiếu kể từ khi tôi bị loại, mặc dù với tất cả dành
dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay từ
lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt,
với dự trữ ít oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn
chế, tiết kiệm. Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng,
một thói quen xa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá
thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tối.
Khẩu phần cơm và rau mỗi ngày một ít đi. Và đến lúc mỗi
ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn.</em>"

"<em>Nghĩ đến chuyện vay mượn bạn bè là điều vô ích vì
chính bản thân họ cũng đang cùng số phận, đang trong cảnh
chỉ đủ cầm hơi khỏi bị chết đói. Vợ tôi đã nghĩ đến
chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng
làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi
trơn móng vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ
thuế, để chúng để yên cho chúng tôi khó khăn kiếm sống?
Tìm ở đâu những nguồn hàng mà chỉ qua con đường buôn lậu
mới có được? Món duy nhất mà vợ tôi không phải bán là cái
máy may để mua gạo cho gia đình, mà dùng nó để may đồ mang
ra chợ bán. Nếu bà còn trẻ bà có thể đạp xe về nhà quê
mua rau cải lên bán ở những nơi đông người qua lại. Nhưng
tất cả những dự tính dễ thương nhỏ nhoi đó đều không
thể thực hiện đã làm cho vợ tôi khóc trong sầu khổ vì
không thể làm một chút gì đề mua gạo cho gia đình.</em>"

"<em>Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt
đầu là đã có một đám công an, chắc chắn là đã được
bọn gián điệp và điểm chỉ quanh tôi báo động cho họ,
xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không
có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy
học của những ông thầy tận tuỵ. Phải làm gì đây? Tôi
không thể ra đạp cyclo như một số đồng nghiệp trẻ đang
làm, không phải vì chuyện thiên hạ xầm xì mà chỉ vì tôi
đã không còn ở tuổi để làm chuyện đó: hoặc người ta
không dám gọi tôi, hoặc nếu có, số tiền công còm cõi của
một hai chuyến đi không đủ để mua thuốc cho tôi lại sức
với cái thân thể đã tiều tuỵ lắm rồi. Tự nhủ là không
có nghề gì là đáng khinh, tôi xoay ra sửa chữa xe đạp bên
vệ đường như những sĩ quan cao cấp già của bộ đội về
hưu đang làm. Những kiến thức về văn chương và ngôn ngữ
trở nên vô dụng trước những chiếc xe đạp hư cần sửa
chữa như một quan hoạn đứng trước người đàn bà không
mảnh vải che thân.</em>"

"<em>Cuối cùng tôi cũng phải hiểu ra là mình không nên đắm
mình trong cái ảo tưởng về số phận của những cuốn sách
không bán được của tôi. Tôi đành phải cân ký bán cho những
người thu mua giấy vụn về bán lại cho nhà máy làm bột
giấy. Những cuốn sách được mang lên trên cái cân hiệu
Roberval. Tôi được trả tiền theo số cân đo được. Tim tôi
đập loạn lên mỗi khi tôi phải chất những cuốn sách vào
cái giỏ sau của chiếc xe đạp để đem đi bán giấy vụn.
Không, nó không phải là giấy, nó là những thịt da của tôi
đang bị xé ra từng mảnh. Khi những người mua ném chúng vào
góc nhà, tôi phải quay mặt đi nơi khác cố giấu giọt nước
mắt đang trào ra! Không có người cha nào còn dám nhìn con mình
đang bị ném vào lửa bởi bọn đao phủ! Cái tra tấn đó cứ
tái hiện mỗi lần đi bán sách làm giấy vụn, tôi như bị
một mũi tên bắn xuyên qua tim mình. Nhiều lần, tôi phải nhờ
vợ hay con tôi làm chuyện đó vì tránh cho tôi phải chịu nỗi
đau.</em>"[5]

<center>* * *</center>

Vì đâu? Và từ lúc nào người trí thức lỗi lạc từng
được Chủ tịch nước Hồ Chí Minh cung kính gọi bằng
"ngài" và khẩn khoản: "<em>Việc này chỉ có ngài làm
được, xin ngài giúp cho Chính phủ</em>", bỗng rơi xuống
điạ ngục ngay giữa trần gian?

Ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi nghe ông Trường Chinh thay mặt
Đảng CSVN đọc bản kiểm điểm về sai lầm của Cải cách
Ruộng đất trước Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Tường không nén
nổi xúc động: "<em>Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình
của Đảng Lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội
nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi
một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại
của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng
đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước
kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì
bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh
dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói, được
chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ
chết bởi địch, cho ta. Đó là cái chết tích cực, cái chết
vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở.
Trái lại, những người chết oan vì các sai lầm trong cuộc
Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì
chết với một ô danh.</em>"[6]

Thế rồi, sự "<em>xúc động thái quá</em>" đó, trớ trêu
thay đã biến ngày ấy thành định mệnh đời ông khi ông dám
chân thành đứng giữa hội trường trình bầy bản báo cáo:
"<em><a href="http://danluan.org/node/2566">Qua những sai lầm trong
Cải cách Ruộng đất – Xây dựng quan điểm lãnh
đạo</a></em>".

Ông chân thành căn vặn: "<em>Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của
nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời
nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng công lý của
cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của
cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu
'Thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch' thì
khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản
lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này
ta chỉ cần nhìn thực tế: kết quả sai lầm ta đã phạm khi
thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách
mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không
phải đó là phản lại cách mạng thì là gì? Khẩu hiệu của
pháp lý thì khác hẳn: Thà 10 địch sót còn hơn một người
bị kết án oan.</em>"

Ông quy kết: "<em>Sở dĩ ta không để ý đến giải pháp pháp
lý là vì ba lý do: 1. Quan điểm ta – địch, thù-bạn của ta
rất mơ hồ; 2. Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át
pháp lý; 3. Ta bất chấp chuyên môn.</em>"

"<em>Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì
chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức
của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu
của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý.</em>"[7]

<center>* * *</center>

Cho đến bây giờ do cần tạo ra những cái bồ sứt cạp thủng
đáy để rót vô tội vạ tài nguyên đất nước, mồ hôi,
nước mắt, xương máu của nhân dân nhằm vỗ béo bọn tư bản
đỏ người ta vẫn chỉ thị phải củng cố doanh nghiệp nhà
nước bằng bất kể giá nào để thể hiện đường lối XHCN
thiêng liêng của Đảng thì cách đây hơn nửa thế kỷ Nguyễn
Mạnh Tường đã chỉ rõ thực tế:

"<em>Nghĩa là giai cấp công nhân đã phải lao động sản xuất
hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức. Lắng nghe dư
luận đồng bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có ít ra
một doanh nghiệp quốc gia lãng phí bao nhiêu triệu trong khi
dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy mang lại cho
thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ.</em>"

"<em>Về Mậu dịch, nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế
nào, ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào
lãng phí bao nghìn triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn
nhẫn với các người bán sức lao động cho mình…</em>"

"<em>Số vốn mà các nhà công thương mang ra kinh doanh chỉ là
một phần ti tiểu, số công nhân làm việc trong các doanh
nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì. Trái lại ta thấy tất
cả một phong trào các nhà tư bản thu hẹp hoạt động của
họ, hoặc chuyển hướng bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước
mía, hay dệt vài thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào
vốn để khỏi đụng chạm đến Sở Lao động vì vấn đề
công nhân, với Sở Công thương vì vấn đề đăng ký và nguyên
liệu sản xuất, với Sở Tài chính vì thuế khoá đặc
biệt.</em>"[8]

Ngày nay, trước thực trạng xuống cấp thảm hại của giáo
dục và đạo lý xã hội người ta mới càng thấm thía biết
bao cái điều mà vị giáo sư khả kính từng cảm thấy bất an:
"<em>Chỉ mới hôm qua, trước ngày những người cộng sản
tràn vào các nơi, truyền thống của cha ông ta là dạy học trò
phải biết kính trọng Thầy mình, thương yêu và kính trọng
Thầy còn hơn cả cha ruột. Cái vinh dự được giao phó là chăm
lo đào tạo con người, sao cho được đơm hoa kết trái, đã là
khuôn thước do tâm hồn và cách sống của các Thầy Cô. Họ
có trách nhiệm với chính mình, với các học trò và cả xã
hội. Điều đó đã nuôi dưỡng tâm tánh thuần khiết của
Thầy Cô. Những sách dạy của tổ tiên về đạo đức con
người được cả thế giới công nhận nay bị ném vào giàn
lửa.</em>"

"<em>Cái khác biệt cơ bản và sâu sắc giữa xã hội ngày xưa
và xã hội ngày nay là mục tiêu của giáo dục đã thay đổi.
Ngày xưa người ta tôn vinh con người và đạo đức. Ngày nay,
chủ nghĩa cộng sản và cái chính trị quốc tế chủ nghĩa
của nó thì được ca tụng bằng trời. Khi cái giá trị chính
trị nó đánh bật cái giá trị trí thức và đạo đức, đó
là cả một cuộc cách mạng, những thành viên của Đảng không
nghi ngờ điều đó.</em>"[9]

"<em>Văn hoá phương Tây sẽ kết án chủ nghĩa cộng sản là
tạo ra những con người cháy bỏng với những cuồng tín về
chính trị, chỉ biết theo chân của lãnh đạo, nhắm mắt bịt
tai với những thực tế của thế giới, ngậm miệng không dám
chỉ trích bất cứ chuyện gì. Thật đáng ngạc nhiên khi nhìn
thấy một con người, được nhào nặn trong lò bánh của cộng
sản, đã mất cả con người riêng, còn mất luôn cả nhân cách
của mình, thay vào mình một con người chỉ biết động đậy
theo những tín hiệu từ xa bấm nút bởi người khác. Cổ tích
phương Tây kể chuyện một kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ.
Người cộng sản, được đào tạo trong lò văn hoá cộng sản,
đã bán linh hồn cho Đảng.</em>"[10]

"<em>Thói quen luôn cúi đầu để tỏ vẻ sự tán thành, dùng
hai bàn tay luôn để vỗ tay, mồm luôn mở chỉ để nói câu
đồng ý, tất cả chỉ cho thấy sự tê liệt của lý trí, cái
chết tiệt của trí thông minh, chặt bỏ những phản xạ của
phê bình.</em>"

"<em>con người được đào tạo bởi nhà cầm quyền chỉ là
một công cụ để thi hành những chính sách cầm quyền và
không là gì khác hơn.</em>"

Một cán bộ lãnh đạo Đảng đã chỉ vào mặt Nguyễn Mạnh
Tường mà răn dạy giữa một Hội trường: "<em>Ông không
biết những gì đang chờ đợi ông. Nhà nước cộng sản của
chúng tôi chỉ chấp nhận duy nhất một thái độ sống của
người trí thức. Họ phải nằm trong đường lối chính trị
của cộng sản, biểu lộ lòng tin nơi Đảng, trung thành với
Đảng, sống và suy nghĩ dưới sự chỉ đạo và theo cách mà
lãnh đạo Đảng đã xếp đặt. Những ai đi chệch xa con
đường này, trở thành kẻ xa lạ dị giáo, sẽ bị trừng
phạt như những kẻ phản bội phản động. Đây là cơ hội
chót để ông tự ăn năn hối cải về sự táo tợn và trơ
trẽn của mình. Rán mà biết lấy nhé.</em>"

Ngày nay tham nhũng đã trở thành quốc nạn vô phương cứu
chữa. Cách đây mấy thập niên, Nguyễn Mạnh Tường đã gay
gắt cảnh báo: "<em>những quan chức của Đảng, với những
chữ ký sinh ra vàng, đã để cho mình bị tiêm nhiễm những con
vi trùng của tiền của, để tự mình ngày càng chìm sâu trong
vũng lầy của tội ác. Những kẻ thuộc quyền, được khuyến
khích bởi sự bất bị quy trách của xếp mình, trở nên những
kẻ đồng lõa, tập họp nhau thành băng thành nhóm. Thời sẽ
đến khi mà Đảng vẫn còn tiếp diễn những ung nhọt như
thế: họ sẽ không còn niềm tin yêu của nhân dân, niềm tin mà
họ đã mất cả một thời gian dài mới có được.</em>"

"<em>Tham nhũng là muôn mặt, nhưng cái chính là trực tiếp hay
gián tiếp ăn cắp tài sản Nhà nước, tham ô, làm và sử dụng
những giấy tờ giả mạo, chiếm đoạt đất công, dùng tài
sản công vào những chuyện riêng tư. Ngoài tính chất muôn mầu
muôn vẻ của nạn tham nhũng ta còn có thể kể thêm là sức
sinh sôi của loại dịch bệnh này là rất nhanh. Những lãnh
đạo chóp bu đã làm gương rất xấu và chuyện họ không bị
hình phạt nào chỉ khuyến khích cấp dưới bước chân vào con
đường kiếm chác mà không sợ bị một rủi ro nào. Sớm hay
muộn, sự vô đạo đức sẽ chiếm lĩnh xã hội trên bề mặt
cũng như bề sâu. Chưa bao giờ ở bất cứ nước nào, ngay cả
ở các nước tư bản, mà người ta thấy được một cảnh
tượng kinh hoàng, một sự băng hoại vô cùng của đạo đức:
toàn bộ guồng máy nhà nước ngập chìm trong sự mua chuộc.
Đối với hàng công nhân viên hạng nhỏ cấp dưới, mức
lương nhỏ bé là lý lẽ để biện minh cho tội tham nhũng của
họ khuyến khích từ gương xấu của cấp trên của họ là
những kẻ phạm tội nhưng không chịu bất cứ trừng phạt nào
của pháp luật hay phải ra trước toà thông qua hệ thống kỷ
luật của Đảng và họ tham nhũng để mưu cầu được mau
thăng quan tiến chức. Sự vô đạo đức nó như một cơn thuỷ
triều đen chồm lên tràn ngập tất cả mọi cơ phận. Những
lương tâm run sợ bay biến khỏi vùng địa chấn, xa tắp khỏi
tầng khí độc mà ngập trong đó là một nhà nước đang thối
rửa và hấp hối, một nhà nước kết cấu bằng những con
người mà quyền hạn là vô chừng và độc đoán đang nắm
giữ.</em>"

"<em>cả nước bàng hoàng thất vọng và kinh hoàng trước tội
ác của những đảng viên biến chất, nhiều quan chức cao cấp
của Đảng và của Nhà nước đã hành xử như những băng
đảng trộm cướp, đã nuốt nhiều tỉ đồng của công quỹ
để thoả mãn ham muốn đê tiện của mình.</em>"

Ông đau đớn nhận ra mục tiêu Cách mạng tháng Tám bị đánh
tráo và kịch liệt lên án sự chuyên quyền, độc đoán:
"<em>Trong cuộc cách mạng tháng Tám, toàn thể nhân dân cùng
một lòng đứng dậy để giành lại tự do và độc lập. Nhân
dân đặt niềm tin vào lời nói của lãnh đạo cộng sản là
toàn những người với quá khứ vinh quang đầy hy sinh cho Tổ
quốc. Nhưng sau đó, từng bước, nhân dân bị áp đặt dưới
cái gọi là 'dân chủ nhân dân', rồi sau đó là chủ nghĩa
xã hội. Chúng ta không còn tôn thờ Khổng Tử, trong khi vẫn
gìn giữ những giá trị của đạo Khổng, chúng ta bị cải
đạo sang tôn giáo Ba ngôi của chủ nghĩa Marx: Marx-Lenin-Stalin,
với ba tấm hình được treo cao để ba ông được nhìn xuống
đám thần dân! Từ lúc nào và ở đâu chúng tôi được hỏi ý
về những ước ao và mong muốn của chúng tôi? Chuyện chẳng
hề xảy ra. Đảng là con mắt nhìn mọi chuyện giùm chúng tôi,
quyết định cho chúng tôi, rồi ra lệnh chúng tôi phải tuân
theo quan điểm của Đảng mà họ cho rằng sẽ mang đến một
tương lai huy hoàng và hạnh phúc.</em>"

"<em>Đa nguyên là chấp nhận những ý kiến trái ngược,
những sự thật không giống nhau và đó là ý nghĩa thực của
một nền dân chủ. Những người cộng sản không chấp nhận
chuyện đó. Họ bám chặt vào độc quyền chính trị, tự cho
mình là kẻ duy nhất nắm mọi thước đo về bản chất của
dân chủ. Đa nguyên trở thành bãi chiến trường nơi mà dân
chủ và chủ nghĩa cộng sản tấn công lẫn nhau.</em>"

"<em>Nhà nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng và con
người lãnh đạo Đảng chính là người đang nắm trọn quyền
lực. Nhân dân không là gì hết, tiếng nói của họ đã bị
bịt kín. Tất cả những bộ phận của Nhà nước là gồm
những con người của Đảng hay những người toàn tâm toàn ý
với Đảng; tất cả cái giống người này chỉ có cái lưỡi
gỗ và cái lưng cong cúi luồn với chủ. Trong những điều
kiện như thế, làm sao có được những tiếng nói dấy lên
để đòi truất phế và thay những kẻ bạo quyền, hay ít ra là
để đưa ra những đề nghị, những ý kiến để làm đứng
lại cái xe đang lao mình với tốc độ kinh hoàng về phía hố
sâu của sự xấu? Mọi chuyện được quyết định từ hậu
cung của Đảng, nơi thần bí nhất của thiên cung, bao quanh bởi
một vòng thành kín bưng như Vạn lý Trường thành bên Trung
Quốc!</em>"

"<em>Chưa bao giờ trong lịch sử con người mà lưỡi tầm sét
của Thần Zeus – tức cái búa của Thiên Lôi – cùng với cây
gậy thần của Circé lại nằm cả trong tay của một người,
làm thành một bộ máy thống trị và áp bức cực kỳ hoàn
hảo, một bộ máy chuyên dùng khủng bố làm chất nhờn bôi
trơn những trục máy!</em>"

Vốn là người cương trực, ông không chỉ nói khoáng đại
giữa Hội nghị mà đã từng giãi bầy trực tiếp vào tai Chủ
tịch nước Hồ Chí Minh trong buổi trò chuyện riêng giữa hai
người sau Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ Thi đua họp ở Việt
Bắc mùa xuân năm 1952: "<em>Chế độ chuyên quyền tha hồ chủ
quan, tự do duy ý chí và làm luật lệ lung tung, trái khoa học,
trái lẽ phải, tác động tai hại đến uy tín của chính quyền
và đến hạnh phúc của quần chúng, rất bất bình với bao
hành động thiếu đạo đức và ngu dốt. Giải pháp duy nhất
của sự khôn ngoan là mở rộng tai nghe, mở rộng cửa cho
người thứ ba, cho tiếng nói từ ngoài vào, từ nhân dân đưa
lên.</em>"

"<em>Cho đến nay Đảng bao trùm lên trên và nuốt chửng Nhà
nước và không ít người nghĩ rằng Đảng lãnh đạo và cai
trị vì lợi ích của Đảng hơn là vì lợi ích của nhân
dân.</em>"[11]

Ông nói lên sự thật về hai tổ chức Quốc hội và Mặt trận
Tổ quốc một cách chua chát: "<em>Hai tổ chức Quốc hội và
Mặt trận khác nhau là ở chỗ Quốc hội gồm có những đại
biểu được 'bầu' lên từ mọi vùng lãnh thổ trên toàn
quốc, Mặt trận gồm những người được chọn lựa trong các
đoàn thể quần chúng để tiêu biểu cho mọi ngành nghề xã
hội hay khuynh hướng tôn giáo khác nhau. Nhưng cả hai đều gặp
nhau trong cùng một thái độ vì Đảng, trong những lần đưa ra
đưa ra ý kiến, đều đồng ý với Đảng trên bất cứ chuyện
gì và bất cứ lúc nào, hoàn toàn không có một ý kiến khác
hay ồn ào kháo chuyện. Toàn Quốc hội biểu quyết bằng cách
đưa tay lên, Mặt trận biểu quyết bằng cách cúi đầu và
buông thõng hai tay. Nhưng cả hai đều biểu hiện một sự nhất
trí với lãnh đạo làm cho mặt lãnh đạo ngửa cao với nụ
cười mãn nguyện. Đảng tự cho mình là người nắm sự thật
và hai tổ chức kia chỉ có nhiệm vụ là phổ biến và tuyên
truyền, mỗi tổ chức lo chuyện trong khu vực ảnh hưởng và
trong vùng sinh hoạt của mình. Đó là hai cái nạng giúp Đảng
tiến bước.</em>"[12]

(Gần đây Quốc hội mới rón rén phản biện để Chính phủ
tạm dừng kế hoạch xây dựng đường xe lửa cao tốc. Thực
tế, mức độ hệ trọng của việc này rất không đáng kể so
với chủ trương cho Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Tây
Nguyên; vấn đề xác định biên giới lãnh thổ, lãnh hải;
vấn đề mở đường Hồ Chí Minh; vấn đề chọn đặt nhà
máy lọc dầu đầu tiên ở Dung Quất… mà những hệ quả
thiệt hại vô cùng lớn về kinh tế, chính trị, xã hội phát
sinh từ đấy đáng đưa những người chịu trách nhiệm chính
đối với những sai lầm ấy ra xử tử.)

<center>* * *</center>

Giãi bầy những tưởng niệm muộn mẳn đối với người trí
thức lỗi lạc khả kính Nguyễn Mạnh Tường, chúng tôi muốn
cùng độc giả soi xét để nêu câu hỏi: Nguyễn Mạnh Tường
(và những người như kẻ viết bài này) đã nói câu gì không
đúng? Đã làm việc gì sai pháp luật? Sao người ta nỡ / dám
nhân danh Đảng đầy đọa hãm hại chúng tôi! Trù dập vợ, con
chúng tôi! Uy hiếp, khủng bố bạn bè, thân thích của chúng
tôi!

Hãy thắp nhang cung kính tạ tội và thành khẩn tụng niệm
những lời cảnh báo sau đây:

"<em>Thay vì giáng búa rìu lên đầu người trí thức mà tội
lỗi duy nhất của họ là yêu Tổ quốc và dân tộc, người
cộng sản cần phải hiểu rằng kẻ thù của họ chính là họ
chứ không ai khác. Kẻ thù của họ là ai? Là tính chủ quan,
một cách quá mức, đã làm cho họ tưởng mình là thượng đế
được phú cho sức mạnh siêu nhân không thể thất bại…
Thật điên khùng khi họ tin rằng họ luôn luôn đúng, ngay cả
những khi họ đã sai lầm rõ ràng!</em>"

"<em>Nếu cứ vướng mãi với những hành động dại dột,
mất trí hay điên khùng, quý vị sẽ đưa dân tộc vào nghèo
đói và đau khổ, tiếp tục làm những chuyện chuyên quyền,
phạm luật và vô nhân đạo thì quý vị sẽ không thể tồn
tại dài lâu! Ngay sau khi quý vị chết, nhân dân sẽ tiếp tục
nguyền rủa, đào mồ và quăng cái xác thối của quý vị cho
sài lang và diều hâu cắn xé! Tên tuổi của quý vị sẽ bị
'tạc ghi' trong lịch sử và sẽ bị khinh bỉ trong hàng trăm
năm sau.</em>"

Về phía chúng tôi, dẫu sao chúng tôi cũng sẽ không bao giờ
quên lưu giữ cái nhin thể tất và ưu ái của vị giáo sư bồ
tát:

"<em>Dù có ghét hay thương cộng sản, mình cũng phải công
nhận rằng những người lãnh đạo nó đã phải chịu đoạ
đầy vì lòng yêu nước của họ. Những thế hệ kế tiếp và
những người nối nghiệp thì không thể tự hào là có cùng
cái hào quang đó. Dẫu vậy, trong số những kẻ kế thừa vẫn
có những người dù ít tài cán nhưng lòng trung chính vẫn đáng
để chúng ta ngả mũ chào. Trong khi đó biết bao nhiêu kẻ khác
không những đã chẳng có chút khả năng nào mà còn vô đạo
đức nhưng hết mực núp vào Đảng vì Đảng đã gây dựng và
bảo vệ quyền lợi cá nhân của họ.</em>"

Vấn đề còn lại được nêu lên là: "<em>Chủ nghĩa anh hùng
của các ông có làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông
trên bàn thờ của Tổ quốc và Nhân dân? Đất nước và nhân
dân Việt Nam đang chờ câu trả lời của các ông.</em>"[13]

Hà Nội 14 tháng 7 năm 2010

© 2010 Nguyễn Thanh Giang

© 2010 talawas

____________________

[1] <a href="http://danluan.org/node/3466">Nguyễn Mạnh Tường, Kẻ
bị vạ tuyệt thông</a>, Paris 1991

[2] Sđd.

[3] Sđd.

[4] Tạp chí Hồn Việt tháng 11 năm 2009

[5] Nguyễn Mạnh Tường, Kẻ bị vạ tuyệt thông, sđd.

[6] Bài thuyết trình tại Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam 30-10-1956

[7] Bđd.

[8] Bđd.

[9] Sđd.

[10] Bđd.

[11] Tạp chí Xưa và Nay số 286, tháng 6 năm 2007

[12] Bđd.

[13] Sđd.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5850), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét