Lê Mai - Ngoại giao Việt Nam thời đánh Mỹ

Mình không có ý định và lại càng không đủ khả năng để
có thể viết một luận văn đầy đủ về ngoại giao Việt Nam
thời đánh Mỹ. Nhưng, điểm qua một vài sự kiện ngoại giao
thời đánh Mỹ tiêu biểu, cũng là điều thú vị để chúng ta
cùng suy ngẫm.

Không phải ngẫu nhiên mà ngày ấy, nhiều người trên thế
giới, sau một đêm ngủ dậy, ước mơ mình biến thành người
Việt Nam. Việt Nam đã trở thành biểu tượng, thành lương tri
nhân loại.

Thế nhưng, gần đây thôi, kỷ niệm 60 năm chiến thắng chủ
nghĩa phát xít tại Moscow, người ta không thấy đại diện
Việt Nam tham dự? Dân tộc VN không phải đã góp phần đánh
bại chủ nghĩa đế quốc đấy ư? Vậy sự kiện (không tham
dự) đó nói lên điều gì? Phải chăng, đó là vị thế của VN
trên trường quốc tế đã khác xưa?

Nói về ngoại giao của VN. Gần đây, khi có sự kiện cần thể
hiện quan điểm trước thế giới, người ta chỉ thấy sự
xuất hiện của người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN. Thời gian
trước đây là bà Phan Thúy Thanh – nữ phát ngôn viên "đanh
đá" như báo chí phương Tây bình luận. Và bây giờ là ông
Lê Dũng quá "nổi tiếng" với câu <em>"VN có đầy đủ
bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ
quyền không thể tranh cãi của mình đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa"</em>. Trăm lần như một, mình không
hiểu nổi đó là phong cách ngoại giao gì? Rất ít thấy Thứ
trưởng (Bộ Ngoại giao) họp báo, không thấy Bộ trưởng họp
báo, không thấy Phó Thủ tướng họp báo, càng không bao giờ
thấy Thủ tướng và Tổng bí thư họp báo quốc tế…Người
ta dùng những ngôn từ ngoại giao lạ lùng. Đây, một mẩu tin
ngắn của TTXVN: <em>"Ngày 7.6, trả lời câu hỏi của phóng
viên về việc Bộ Ngoại giao Việt Nam đã <strong>giao
thiệp</strong> với Đại sứ quán Trung Quốc, đề nghị phía
Trung Quốc không có các hoạt động cản trở hoạt động bình
thường của ngư dân Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Lê Dũng cho biết:</em>

<em>"Ngày 4.6 vừa qua, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã
<strong>giao thiệp </strong>với Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc
Tường, lưu ý việc phía Trung Quốc gần đây thực hiện lệnh
cấm đánh cá tại một số vùng biển, trong đó có những khu
vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và tăng
cường tàu tuần tra, bắt, phạt tàu cá tại những vùng biển
này"…</em>

Ngoại giao phải nâng cao vị thế của đất nước – nhất là
đối với nước nhỏ. Khi cần cứng rắn thì phải cứng rắn.
Mềm yếu không cần thiết sẽ dẫn đến sự coi thường của
thế giới.

Thời đại anh hùng đã sản sinh ra những nhà ngoại giao kiệt
xuất. Khó có thể kể hết tài ngoại giao thiên tài của Hồ
Chí Minh trong những năm sau ngày lập nước. Khi tướng Ra-un
Xa-lăng mời "Ngài HCM" uống nước, HCM đã ngắt lời và nói
"tôi đã mời tướng quân Xa-lăng, chứ không mời Ngài
Xa-lăng", đã làm ông ta bối rối. Ý định của ông ta là
không công nhận chức Chủ tịch của HCM, tức cũng là không
công nhận nước VNDCCH.

Giáo sư Hoàng Xuân Hoãn kể lại, trong một phiên họp của Hội
nghị Đà Lạt năm 1946 (chuẩn bị cho Hội nghị Phongtennoblo),
phản đối thái độ của phái đoàn Pháp, Võ Nguyên Giáp đã
đứng phắt dậy bỏ ra ngoài, sau đó ông đóng cửa phòng họp
"cái rầm". Tôi đã thấy bản lãnh đặc biệt của nhà cách
mạng trẻ tuổi này – GS Hoàng Xuân Hãn viết.

Tại Hội nghị Phongtennoblo năm 1946, Phạm Văn Đồng đã đọc
một bài phát biểu đánh thép làm người Pháp phải nể phục.

Lúc bấy giờ, nước VNDCCH vừa ra đời, nhưng chúng ta thấy tư
thế các nhà ngoại giao VN thật đàng hoàng, hiên ngang.

Lại nói, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, trong diễn văn từ
chức, đánh giá: <em>"thằng cộng sản 1968 đánh không được
thì đàm, rồi 72 đánh không được thì đàm và bây giờ cộng
sản nghĩ rằng còn quân Mỹ ở đây, còn B52 thì cộng sản
không thể nào thắng, thay bằng ký cái Hiệp định Pari, Mỹ đi
về, còn thằng miền Nam Việt Nam ta sẽ làm thịt nó",
"…đánh đánh đàm đàm, cộng sản áp dụng cái chiến thuật
của chúng rất chi là khéo léo có thể nói gạ gẫm được
thế giới và đồng minh Hoa Kỳ".</em>

Xem ra, lời lẽ ông Thiệu không được ngoại giao cho lắm, song
ông ta đánh giá khá cao nền ngoại giao của Bắc VN và đánh
giá đúng ý định của các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi ký
Hiệp định Pa ri.

Năm 1997, Mc Namara, một trong những bộ óc điện tử của nước
Mỹ, dẫn đầu một phái đoàn các học giả, các tướng lĩnh,
các nhà sử học Mỹ sang VN hội thảo, mục đích xem có cơ
hội hòa bình nào đã bị hai bên bỏ lỡ hay không. Chúng ta
biết, cuộc tấn công ngoại giao của Hoa Kỳ những năm đó
thật đa dạng, lý thú. Các nhà lãnh đạo Bắc VN rất nhanh
chóng đã nhận ra một cái bẫy. Mỹ nói hòa bình, song là hòa
bình theo kiểu Mỹ, bắt VN nhân nhượng. Họ nói hòa bình, song
tay họ lại ký các lệnh điều quân đến Nam VN. Mc Namara lại
đối mặt với ông Giáp và một lần nữa, ông ta nói với ông
Giáp – lần này Ngài cũng lại thắng về thời gian. Ông Giáp
làm chủ cuộc nói chuyện. <em>"Các Ngài là người thua trận,
các Ngài nên lắng nghe nhiều"</em> – ông Giáp điềm tĩnh
nói. Ông Giáp đã chứng minh với Mc Namara không có một cơ hội
hòa bình nào bị bỏ lỡ cả. Nói như thế này không biết có
phải can thiệp vào nội bộ của các Ngài không, nhưng phải
nói rằng, có nhiều Đề án đã chỉ rõ các mục tiêu Bắc VN
cần ném bom trước khi có các cuộc tấn công ngoại giao xẩy ra
– ông Giáp nói.

Phạm Văn Đồng, nhà ngoại giao lão luyện – người phụ trách
lĩnh vực ngoại giao của Bắc VN đã tiếp Đại sứ Canada trong
Ủy ban Quốc tế, sau khi Mỹ đã ném bom Bắc VN.

Khi nghe Đại sứ trình bày xong, ông nói ngay:

- Tôi rất tiếc đã tiếp ông, vì những lời nói của ông
không đáng nghe. Tôi tiếp ông là tiếp một Đại sứ trong Ủy
ban Quốc tế, chứ không phải để nghe những lời giả dối và
bịa đặt.

Tình hình đang nguy kịch, đáng lẽ phải cộng tác với nhau
để làm được một cái gì. Hòa bình đang bị đe dọa. Mỹ có
hành động xâm lược đối với miền Bắc là điều nhất
định sẽ xẩy ra.

Thấy Thủ tướng ngừng lời giây lát, ông Đại sứ nói ngay:

- Tôi xin lỗi phải làm nhiệm vụ theo chỉ thị của Chính phủ
chúng tôi. Vai trò trung gian nhiều khi bạc bẽo vì phải nói
những lời khó lọt tai người nghe, nhưng đã là người lính
thì phải làm đúng chỉ thị. Thưa Thủ tướng, không nên bắn
vào người đưa thư!

Câu trả lời của Đại sứ Seaborn rất hay, ông quả là một
nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm. Chúng ta biết, khi đó Canada là
đồng minh thân cận của Mỹ và dĩ nhiên, Phạm Văn Đồng
không chỉ nói với cá nhân ông ta.

Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã tiếp La Pira, giáo sư luật
người Italia, cùng đi với ông là nhà toán học Mario Primicheri
một cách thân tình. Ông cho rằng, vấn đề sẽ được giải
quyết khi người ta cùng ngồi uống trà với nhau. Đó là việc
lớn, là hữu nghị, tại sao lại giết nhau? Vấn đề khó nhất
là bước đi đầu tiên. Việt Nam được hòa bình, thế giới
sẽ hòa bình.

Hồ Chí Minh:

- Như ông nói, vấn đề quan trọng là bước đầu. Vậy thì
bước đầu chúng tôi có đánh vào Washington đâu. Chính Mỹ đã
ném bom bắn phá và hiện nay đang hằng ngày đánh chúng tôi.
Vậy ai vi phạm luật lệ của Chúa?

- Và ai vi phạm luật lệ của người? Phạm Văn Đồng hỏi
tiếp. Ông cho ai là kẻ có tội?

La Pira:

- Nhưng cũng có vấn đề kỹ thuật trong việc rút quân Mỹ.
Tôi là giáo sư luật La Mã. Luật La Mã nói rằng, khi có một
cuộc tranh chấp thì nên chia làm hai giai đoạn: bước đầu là
hai bên ngừng lại, bước sau là vận dụng luật La Mã để
phân xử. Vì vậy tôi nghĩ, trước tiên phải ngừng ngay bạo
lực lại, sau đó sẽ đem đối chiếu luật pháp và thực tế.

Phạm Văn Đồng:

- Như vậy, phải cho bọn kẻ cướp vào tù rồi đem xử sau.

Thật là những mẩu đối thoại thú vị, tài tình, chứng tỏ
những người nói chuyện có một tầm hiểu biết sâu rộng,
cách sử dụng ngôn ngữ tinh tế, tài hoa.

Phạm Văn Đồng và sau đó là Hồ Chí Minh đã có một cuộc
nói chuyện thẳng thắn, có lúc căng thẳng với Mikhalowski,
đại diện Ba Lan, một nước trong Ủy ban Quốc tế và là thành
viên của phe XHCN.

Mikhalowski:

- Chúng tôi cho rằng trong tình hình hiện nay cũng cần thăm dò
xem chúng ta có thể đàm phàn theo những điều kiện nào, có
thể buộc Mỹ phải trả giá nào đó để có đàm phán hòa
bình. Nếu các đồng chí bác bỏ mọi thăm dò, mọi tiếp xúc
thì đó sẽ là thất bại to lớn của các đồng chí.

Hồ Chí Minh:

- Hơn ai hết, chúng tôi mong muốn hòa bình. Thế thì tại sao
chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu? Chỉ vì một lý do:
chúng tôi phải tự vệ, chúng tôi buộc phải đấu tranh vũ
trang. Chỉ có đấu tranh hoặc hạ vũ khí.

Chúng tôi không bác bỏ gì hết, nhưng nhân dân chúng tôi phải
được yên ổn. Chúng tôi không muốn trở thành người chiến
thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi. Gút bai (Good bye).

Mikhalowski:

- Mỹ là kẻ xâm lược mạnh. Nó muốn thống trị nước các
đồng chí. Nó không muốn cuốn gói đi, vì nó mạnh. Trong cuộc
chiến đấu này, các đồng chí khó mà đạt được chiến
thắng quân sự. Phe XHCN của chúng ta không thống nhất, chỉ có
các đồng chí là đổ máu, giá phải trả sẽ rất cao. Nếu
chiến tranh cứ kéo dài thì không còn ai để giải phóng.

Hồ Chí Minh:

- Đồng chí thật là sai lầm. Dù Mỹ có tăng thêm bao nhiêu
quân cũng không làm gì được chúng tôi.

<em>- Nhưng chúng tôi nên nói với Mỹ như thế nào?</em>

- Các đồng chí cứ nói với Mỹ rằng Mỹ hãy cút khỏi Việt
Nam.

Phải thừa nhận là Mikhalowski đưa ra nhiều quan điểm đáng
chú ý, nhưng ông ta không hiểu hết tình hình VN lúc bấy giờ.
Ba Lan là một nước tương đối nhỏ, song là cường quốc về
ngoại giao – kể cả đến thời điểm hiện nay.

Rốt cuộc, các cuộc tiếp xúc và thăm dò đã đưa VNDCCH và Hoa
Kỳ đến Hội nghị Pari, kéo dài 5 năm, từ 1968 đến 1973, là
một trong những cuộc đàm phán lâu nhất trong lịch sử ngoại
giao.

Đến đây, chúng ta nói một chút về các nhà đàm phán Bắc VN
tại Hội nghị Pari về Việt Nam. Trước hết, nói về các ông
Lê Đức Thọ là Cố vấn đặc biệt và Xuân Thủy là Trưởng
đoàn. Dĩ nhiên, quyền quyết định tối cao tại Pari là Lê
Đức Thọ.

Việc chọn Xuân Thủy làm Trưởng đoàn đàm phán tại Hội
nghị Pari là một nước cờ độc đáo nữa của các nhà lãnh
đạo Bắc VN. Lúc bấy giờ, Trung Quốc cũng không muốn Bắc VN
nói chuyện với Mỹ. Trước khi đến Pari, Xuân Thủy bao giờ
cũng ghé Bắc Kinh, song chưa được lãnh đạo cao cấp nhất
của TQ tiếp. Theo lãnh đạo TQ, thời cơ cho một cuộc nói
chuyện với Mỹ chưa chín muồi.

Thế nên mới có chuyện họp mấy tháng để bàn về hình dáng
cái bàn họp. Không bên nào vội vàng cả!

Trường Chinh (Sóng Hồng) đã có những vần thơ rất thú vị
về cuộc đàm phán tại Pari:

<em>Ngẫm nghĩ Việt Nam cũng lạ kỳ,</em>

<em>Lôi trùm đế quốc đến Pari.</em>

<em>Hàng tuần chỉ mặt : "Mi xâm lược,</em>

<em>Muốn tốt khôn hồn hãy cút đi!"</em>

Các cuộc thăm dò và tiếp xúc bí mật đã đưa VNDCCH và Hoa
Kỳ đến Hội nghị Pari. Có thể nói, cuộc đàm phán Pari về
Việt Nam là một trong những trọng tâm của ngoại giao VNDCCH
thời đánh Mỹ.

Năm 1968, cuộc tấn công Tết đồng loạt diễn ra khắp các đô
thị miền Nam, mới đầu làm choáng váng quân Mỹ và VNCH. Ngay
sau đó, Mỹ và VNCH phản công và như lịch sử cho thấy, tổn
thất của hai bên đều rất lớn. Riêng tổn thất của Bắc VN
và Mặt trận GPMNVN là lớn hơn bất cứ thời kỳ nào của
chiến tranh.

Sau Tết Mậu Thân, Lê Đức Thọ được điều vào Nam tăng
cường cho Trung ương Cục để phát huy kết quả của đợt
tiến công Tết. Cuối đợt hai của cuộc tổng tiến công, Hồ
Chí Minh gọi ông ra Hà Nội và cử ông làm cố vấn đặc biệt
cho Xuân Thủy.

Hồ Chí Minh gửi thư cho Bộ Chính trị:

<em>"Bác và anh Tô đã bàn và đồng ý đề nghị BCT điện cho
anh Sáu: "những công việc cần phải thảo luận thì anh Sáu
nên bàn ngay với anh Bảy và các đồng chí phụ trách. Thảo
luận xong, anh Sáu nên về ngay độ trước tháng 5 để tham gia
phái đoàn ta đi gặp đại biểu Mỹ"</em>.

Ngày 3.6.1968, Lê Đức Thọ đến Pari. Lê Đức Thọ là Cố vấn
đặc biệt cho Xuân Thuỷ, song thực chất là người lãnh đạo
cao nhất của phái đoàn VNDCCH. Ông ta đặc trách các cuộc gặp
bí mật với phái đoàn Mỹ, công tác nghiên cứu. Còn Xuân
Thuỷ phụ trách các cuộc họp công khai.

Có nhiều câu chuyện lý thú về cuộc đàm phán Pari, nói chung,
chúng ta đều đã biết. Một điều khá đặc biệt là có một
sự liên hệ giữa ngoại giao và thơ ca của những nhân vật
lãnh đạo và tham gia Hội nghị Pari.

Không cần phải là nhà quan sát cũng có thể thấy, lãnh đạo
hiện nay hầu như không quan tâm (am hiểu?) mấy về văn học,
nghệ thuật, càng không bao giờ làm thơ, viết sách, viết báo,
trả lời phỏng vấn. Tài năng của họ chỉ bộc lộ khi họ
phát biểu công khai về một vấn đề bức xúc của xã hội
hoặc một đại dự án nào đấy – mới đây nhất là phát
biểu của ông Phó Thủ tướng. Đó là dịp hiếm có để
người dân trong nước và thế giới có thể "ngây ngất"
chiêm ngưỡng tài năng họ!

Còn các nhà lãnh đạo thời đó, mặc dù không được đào
tạo cơ bản, song họ rất am hiểu văn hoá, văn nghệ và
thường hay làm thơ. Họ cũng đã làm nhiều bài thơ, câu thơ
khá hay, vừa là những chỉ dẫn quan trọng, lại vừa là những
xúc cảm riêng tư trong cuộc đấu tranh ngoại giao với Hoa Kỳ.

Năm Kỷ Dậu – 1969, Hồ Chí Minh gửi thư cho phái đoàn đàm
phán Pari:

<em>Xuân gà túc tác đến nơi</em>

<em>Gửi người thân thiết mấy lời mừng Xuân</em>

<em>Gà Xuân túc tác rạng đông,</em>

<em>Được tin thắng lợi cờ hồng bay cao</em>

Tại Pari, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ đều là những hồn thơ
giàu cảm xúc. Xuân Thuỷ có vẻ làm nhiều thơ hơn – hình như
sự việc nào cũng làm ông xúc cảm. Sau một cuộc gặp với
Hariman, Trưởng đoàn đàm phán của Hoa Kỳ, trên đường về,
Lê Đức Thọ nói: <em>"Trời, cái thằng Harriman sao mà chán
thế! Chẳng có lý luận gì. Cãi lăng nhăng. Mình đúng là ở
thế thắng, thế tấn công. Mình có chính nghĩa có khác!"</em>.

Hariman bị điếc một bên tai, phải dùng ống nghe. Điều lý
thú là khi không muốn nghe, ông ta lại gỡ ống nghe ra. Cuộc
tranh luận về chấm dứt ném bom Bắc VN giữa hai đoàn rất
căng thẳng. Rồi cũng đến lúc Hariman trở về Mỹ. Xuân Thuỷ
viết:

<em>À nhỉ, ra ông điếc một tai</em>

<em>Thế là mấy tháng mất công toi</em>

<em>Tôi đòi chấm dứt bom miền Bắc</em>

<em>Ông chẳng nghe ra hỏi lại hoài!</em>

Xem ra, những câu thơ trên cũng không nhiều chất thơ lắm, nghe
vui vậy thôi. Nhưng khi từ Pari về nước, thăm Quảng Bình,
Xuân Thủy có những câu thơ đầy chất trữ tình, chơi chữ
khéo léo:

<em>Chiều nay Xuân Thủy thăm Ngư Thủy</em>

<em>Trời biển mênh mông đất Quảng Bình</em>

<em>Giặc Mỹ hay đâu cồn cát trắng</em>

<em>Anh hùng toàn những gái xuân xanh!</em>

Ông không thể biết, Tiểu đội pháo binh Ngư Thuỷ nổi tiếng,
từng bắn cháy tàu chiến Mỹ ngoài khơi Quảng Bình ngày ấy,
sau chiến tranh, họ sống nghèo xơ xác trên vùng cát mênh mông,
ngay quê hương họ. Tôi đã nhiều lần đến vùng đất ấy.
Mãi sau này, nhiều cuộc vận động quyên góp, ủng hộ mới
giúp cuộc sống họ khá lên một chút.

Một bà đại sứ nói chuyện với Xuân Thuỷ:

- Phụ nữ Việt Nam mặc kín cả cổ, cả tay, cả đùi, đến
tận gót chân cũng kín. Vậy mệt nhà thơ lắm mới hình dung
được người phu nữ.

- Nhà thơ thường giàu óc tưởng tượng. Càng tưởng tượng
nhiều thì thơ càng hay. Xuân Thuỷ đáp lại.

- Thế thì nhà thơ không hiện thực.

- Nhà thơ thường tả cái dáng dấp bên ngoài của người phụ
nữ, chứ ít khi tả cái bên trong vì nhìn những cái bên trong
có khi hết thơ. Cố nhiên, phụ nữ bao giờ cũng đẹp.

- Ô, bên trong nhiều cái đẹp lắm chứ. Tại nhà thơ chưa khám
phá hết đó thôi.

Lê Đức Thọ cũng dẫn Kiều, khi đến làm việc với phái
đoàn bà Nguyễn Thị Bình, có người hỏi về triển vọng của
cuộc đàm phán. Ngoại giao VN, "tuy hai mà một, tuy một mà
hai" – đó là nét "đặc sắc" về hai đoàn đàm phán
VNDCCH và Chính phủ Lâm thời CHMNVN tại cuộc hoà đàm Pari:

Dằn lòng chờ đợi ít lâu

Chầy ra thì cũng năm sau vội gì

Sau khi Hiệp định được ký, có một phụ nữ trong đoàn miền
Nam nhắc lại câu trên và nói anh Sáu tài thật, biết là mình
dù phải đánh đến "trầy da, tróc vảy" thì vẫn cứ thắng
và thắng lợi đã đến gần. Chị ấy không hiểu, hay hiểu
nhầm, "chầy ra" và "trầy da", khác hẳn nhau về nghĩa!

Một buổi sáng, có người đưa đến cho Xuân Thuỷ một bức
thư. Mở ra, là mấy câu thơ của Trường Chinh:

<em>Đấu lý bao giờ cũng thế thôi</em>

<em>Nói đi nói lại vẫn chưa rồi</em>

<em>Chiến trường ta diệt thêm nhiều địch</em>

<em>Đế quốc rồi đây sẽ hết đời</em>

Kết quả trên bàn đàm phán bao giờ cũng phản ảnh thực tế
trên chiến trường. Nếu trên chiến trường không giành thắng
lợi, trên bàn đàm phán cũng không thể giành thắng lợi.
Trường Chinh đã chỉ rõ điều đó: <em>"Chiến trường ta
diệt thêm nhiều địch. Đế quốc rồi đây sẽ hết
đời"</em>.

Ngoài các cuộc họp chính, VNDCCH và Mỹ còn có các cuộc gặp
riêng, bí mật. Đây mới là diễn đàn quan trọng đưa đến
kết quả cuộc hoà đàm Pari.

Những cuộc họp công khai ít kết quả và đó là điều kiện
tốt để VNDCCH làm tuyên truyền. <em>"Chúng ta phải chọn một
trong hai điều: một là chúng ta vẫn tiếp tục nhưng chúng ta
cứ trốn đằng sau những phức tạp của vấn đề. Cả hai bên
chúng ta đều có đủ thông minh, đặc biệt là các ông có tài
về biện chứng, để kéo dài mãi mãi cũng được. Đó là một
sự tập dượt về lý luận không dẫn tới đâu cả mà không
cần sự tham gia của tôi"</em> – Tiến sỹ Kissinger nói.

Vẫn lời thơ của Trường Chinh:

<em>Một tuần một trận đấu gay go</em>

<em>Mấy tháng chưa xong một ván cờ</em>

<em>Nắm vững phương châm giành thắng lợi</em>

<em>Ung dung anh vẫn dạo vườn thơ</em>

Thế phương châm giành thắng lợi của VNDCCH là gì? Ta hãy xem
nhận định của Tiến sỹ Kissinger:

- <em>"Nếu tôi hiểu đúng thì chiến lược của các ngài là
làm sao đạt được hai kết quả: muốn quân đội chúng tôi
rút càng nhanh càng tốt và khi chúng tôi rút đi thì lật đổ
cơ cấu chính trị hiện nay ở Nam Việt Nam. Đòi hỏi của các
ngài đề ra không phải là để nhân nhượng mà để đòi chúng
tôi dâng cho Hà Nội các mục tiêu mà các ngài muốn đạt
được. Nếu các ngài đạt được thì chúng tôi tôn trọng
nhưng chắc rằng các ngài không đạt được trong đàm phán
này"</em>.

Tiến sỹ Kissinger không nhầm lắm đâu. Lần cuối đi Pari, Lê
Duẩn đã nói với Lê Đức Thọ, vấn đề quan trọng chủ yếu
là quân Mỹ phải ra đi, còn quân Bắc VN thì ở lại (miền Nam
Việt Nam). Những vấn đề khác là thứ yếu.

Rồi cũng đến lúc Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hoà bình ở Việt Nam được bốn bên ký kết.

Vấn đề quan trọng tiếp theo là việc thực thi Hiệp định.
Liệu các bên có vi phạm không? Điều khoản ngừng bắn tại
chỗ được hiểu như thế nào?

Và đây là một đoạn trong bài thuyết trình của Tổng thống
VNCH Nguyễn Văn Thiệu, một ngày sau khi ký Hiệp định Pari:

<em> "Ngưng bắn tại chỗ không có nghĩa là mai mốt cái thằng
cộng sản đi về chợ Sài Gòn, ngồi đó mà ăn phở, hay là
thằng cộng sản nói rằng bây giờ ngưng bắn rồi tôi đi về
Ấp thăm vợ tôi, thăm cha mẹ tôi, tôi thăm em tôi. Kỳ thực
nó không có thăm gì hết. Nó chường cái mặt của nó ra, nó
đưa cái súng lục của nó ra, nó ló ló cái dao găm của nó ra,
nó ló ló cái trái lựu đạn của nó ra để đi tuyền truyền
chủ nghĩa cộng sản, xúi dục đồng bào đi biểu tình, đi phá
đồn phá bót, đi phá hoại. Rồi nó nói không phải là nó, mà
đồng bào tự động làm…"</em>

Và ông ta nhận định:

<em>"nói tới Cộng sản là phải nói tới tội ác, nói tới
Cộng sản là phải nói hiếu chiến, nói tới ngoan cố, nói
tới lì lợm, nói tới tàn nhẫn, nói tới điêu ngoa, nói tới
lừa phỉnh, nói tới phản bội, nói tới lật lọng, nói tới
gian lận. Nói Cộng sản, là tất cả những cái đó gắn liền
với Cộng sản, gắn từ đầu óc của nó, chủ nghĩa của
nó…"</em>

Xem ra, ấn tượng của ông Thiệu đối với cộng sản thật
nặng nề và bây giờ nhìn lại, nhiều người không khỏi giật
mình!

Ta trở lại với bài thơ Tố Hữu tặng Lê Đức Thọ và Xuân
Thủy:

<em>Đánh đàm Nam – Bắc hai tay</em>

<em>Anh đi muôn dặm trời Tây gập gềnh</em>

<em>Chúc Anh bền sức đấu tranh</em>

<em>Ngày về kết quả đôi cành Bắc – Nam</em>

Tháng 3.1975, Lê Đức Thọ, người từng được giải thưởng
Nobel hoà bình cùng với Kissinger tại cuộc đàm phán Pari (nhưng
ông ta không nhận?) đã vào Nam chuẩn bị cho cuộc chiến cuối
cùng. Lê Duẩn dặn Lê Đức Thọ, lần này vào phải giải
phóng miền Nam xong mới trở về. Lê Đức Thọ đã đọc bài
thơ dưới đây trong một cuộc họp chuẩn bị cho cuộc tổng
tiến công:

<em>Anh dặn ra đi thắng mới về</em>

<em>Phút giây cảm động nói năng chi</em>

<em>Lời Anh là cả lời non nước</em>

<em>Ngàn dặm Trường Sơn há ngại gì?</em>

Ta tạm kết thúc với ý nghĩ, sao "Lời Anh là cả lời non
nước" nhỉ? Từ trước đến nay, chỉ có lời Hồ Chí Minh
mới được coi là "lời non nước" kia mà!


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5562), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét