bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, tôi nhận thấy: Về phía
Mỹ, thành phần đi đầu trong việc kết nối với Việt Nam là
những cá nhân (người Mỹ, hoặc Việt kiều), những tổ chức
thiện nguyện, tôn giáo, cựu chiến binh v.v. hay nói cách khác,
xã hội dân sự đi trước chính phủ và vận động chính phủ
theo sau.
Còn về phía Việt Nam, lực lượng đi đầu tất nhiên phải có
tính "chính thống", tức là Nhà nước, hay nói chính xác là
Đảng và Chính phủ. Khi Đ&CP chưa bật đèn xanh thì nhân dân
không có cách nào đi trước trên con đường bình thường hóa
quan hệ được.
Tôi thực hiện bài sau đây mong chỉ ra đóng góp của người
Mỹ, xã hội dân sự Mỹ, trong bình thường hóa với Việt Nam.
Viết về các vấn đề liên quan tới lịch sử là điều cực
kỳ khó khăn, mặc dù vậy, tôi hy vọng những gì mình viết là
chính xác. Nếu bạn đọc nào phát hiện thấy sai sót, xin vui
lòng đính chính giúp. Ai có thông tin hoặc tư liệu gì về giai
đoạn đầu trong quan hệ Việt - Mỹ thời hậu chiến, xin vui
lòng hỗ trợ. Tôi rất cảm ơn.</div>
Ngay sau ngày 30-4-1975, "một làn sóng tự tôn dân tộc và bài
Mỹ đã lan khắp Sài Gòn. Sự chiều chuộng thường thấy đối
với người nước ngoài đột nhiên biến mất. Những câu nói
kiểu "Mỹ văn minh hiện đại, mình nghèo và chậm phát
triển" trở thành thứ ngôn ngữ cổ. Nhiều năm phụ thuộc
vào nước Mỹ để có lương cho quân đội, có đạn cho chiến
trường, thời trang cho các cửa hàng làm đẹp, âm nhạc cho các
quán bar và thậm chí cơm trên bàn ăn đã ảnh hưởng lớn tới
tâm lý một dân tộc. Nhưng tất cả những cái đó đã mau
chóng tan thành mây khói. Khi cánh cửa Dinh Độc lập bị xe tăng
quân giải phóng húc đổ vào ngày 30-4 cũng là lúc hình ảnh
bất khả chiến bại của nước Mỹ ăn sâu trong vài thập kỷ
nay bị vỡ vụn".
<div class="boxright300"><img src="/files/u1/sub01/4753686_8073790_n.jpg"
width="555" height="300" alt="4753686_8073790_n.jpg" /><div
class="textholder">Sài Gòn ngày 30-4-1975 (ảnh tư liệu, lấy từ
Internet)</div></div>
Earl Martin, một người Mỹ ở Sài Gòn trong những ngày tháng
đó, đã viết như thế. Ông là thành viên của tổ chức thiện
nguyện tôn giáo Mennonite Central Committee (Hội đồng trung ương
giáo phái Menno). Khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975,
chỉ còn thành viên của vài hội tình nguyện của tư nhân là
ở lại, trà trộn cũng các phóng viên, nhà báo phương Tây.
<h2>Căng thẳng đến nghẹt thở</h2>
Nhưng lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam đã xiết
chặt. Washington cắt đứt toàn bộ quan hệ ngoại giao với Hà
Nội. Suốt những năm sau chiến tranh, lệnh cấm vận được
thực thi nghiêm ngặt: Không có bất kỳ một hình thức bang giao
nào giữa hai nước, ngoại trừ một số có chọn lọc các
hoạt động vì mục đích nhân đạo như gửi thuốc men trị
bệnh, sách báo nghiên cứu – nhưng ngay cả việc này cũng bị
ngáng trở rất nhiều. Đơn cử, người Việt ở Mỹ muốn gửi
1-2 cuốn sách cho các viện khoa học ở Việt Nam cũng gặp khó
khăn: Bị ràng buộc bởi lệnh cấm vận, bưu điện Mỹ trả
lại hoặc thiêu hủy tất cả những cuốn sách tham khảo gửi
về Việt Nam. Trong cuốn "Traveling to Vietnam" (Đường đến
Việt Nam, 1998), tác giả Mary Hershberger nhận xét khi viết về
phong trào của những nhà hoạt động hòa bình người Mỹ:
"Chính phủ Mỹ đã chống lại Việt Nam trên từng bước
đường đi và phong tỏa mọi mối liên hệ quốc tế của Việt
Nam, ngay cả khi điều đó có nghĩa là Mỹ sẽ phải liên kết
với quân Khmer Đỏ ở Campuchia".
Không khí chính trị đầy màu sắc thù địch: Tổng thống Ford
phủ quyết quyền thành viên của Việt Nam tại Liên Hợp Quốc,
đóng băng 150 triệu đôla tài sản của Việt Nam ở Mỹ, ngăn
trở Việt Nam gia nhập Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế. Quốc hội Mỹ còn cấm vận mạnh hơn khi nghiêm cấm
bất kỳ hình thức cứu trợ nào cho Việt Nam và xiết chặt
các thủ tục pháp lý về nhập cư. Cũng bà Mary Hershberger cho
biết, "cách duy nhất để người Việt Nam có thể vào Mỹ là
trốn sang một nước thứ ba và xin tị nạn chính trị". Một
phần vì lý do này, làn sóng người Việt vượt biên qua
đường biển và đường bộ tới một lãnh thổ thứ ba (Hong
Kong, Thái Lan, Campuchia) càng tăng lên.
Một người Mỹ (giấu tên) theo giáo phái Quaker, đã ở bên
Việt Nam từ những năm khó khăn nhất tới nay, cho biết, vết
thương tâm lý của người Mỹ đã đẩy nước Mỹ vào những
hành động chống lại Việt Nam, như ủng hộ phe Khmer Đỏ và
Trung Quốc thời kỳ cuối thập niên 70. Tín đồ Quaker này
nhận định: "Cuộc chiến của Mỹ với Việt Nam thật sự
mới chỉ kết thúc vào năm 1989".
Còn một Việt kiều Mỹ, một trong những người Việt đầu
tiên có mặt trong các cuộc trao đổi giữa hai nước về vấn
đề tù binh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW/MIA),
thì nói: "Cuộc chiến lẽ ra đã có thể kết thúc từ ngày
19-1-1975 khi Quốc hội Mỹ ra nghị quyết cấm hành pháp chi thêm
dù chỉ một đôla để viện trợ cho miền Nam Việt Nam. Nhưng
lịch sử đã không diễn ra như thế. Chính cái tâm lý cần
thiết cho chiến tranh lại là tâm lý rất có hại khi hòa bình.
Niềm tự hào và say sưa với chiến thắng của chúng ta, hành
động đi khắp nơi đòi Mỹ bồi thường chiến tranh, trả nợ
máu, v.v., đã tạo ra trong tâm lý người Mỹ một vết thương
cực kỳ sâu mà họ không thể chịu nổi, đi đến cấm vận
hoàn toàn cả Việt Nam…".
Không chỉ người Mỹ, những người Việt của chế độ cũ
đào thoát sang Mỹ trong và sau năm 1975 cũng giữ thái độ thù
địch với Việt Nam. Một số rất lớn "không đội trời
chung" với cộng sản, thậm chí những phần tử cực đoan
sẵn sàng hành hung, sát hại bất cứ người nào có ý định
trở về Việt Nam làm ăn kinh tế, ủng hộ chính quyền trong
nước. Có người ở bang Texas về thăm quê mẹ Việt Nam, quay
lại Mỹ viết báo nhận định tình hình "sáng sủa hơn",
kết cục là bị một số cựu quân nhân VNCH bắn chết ngay
tại nhà riêng chỉ vài ngày sau đó. Như chuyên gia tài chính
Bùi Kiến Thành (sinh năm 1932), một trong những nhân chứng của
cả hai phía thời đó, mô tả lại, động vào "vấn đề
Việt Nam" cũng chẳng khác động vào tổ kiến lửa, khi
"một bên thì say sưa với chiến thắng, đánh cho Mỹ cút
đánh cho ngụy nhào, bên kia thì chống ác thần cộng sản tới
cùng".
<h2>Những nỗ lực chật vật đầu tiên</h2>
Dễ hiểu rằng những người Mỹ hoạt động nhân đạo hoặc
là tín đồ của một tôn giáo nào đó – ví dụ các giáo phái
Menno, Quaker - đã là những công dân Mỹ đầu tiên duy trì và
phát triển quan hệ với Việt Nam.
Gần như ngay sau khi chiến tranh kết thúc, tháng 7-1975, tổ chức
American Friends Service Committee (AFSC) đã sẵn sàng gửi lưới
đánh cá, sữa bột, xe cút kít gắn máy và chỉ khâu sang Việt
Nam. Đề nghị cấp giấy phép xuất khẩu của họ bị Bộ
Ngoại giao Mỹ thẳng thừng bác bỏ, thậm chí Bộ tuyên bố
nếu AFSC cứ tiếp tục thì có thể bị truy tố theo điều
luật "Hoạt động thương mại với kẻ thù". AFSC cũng không
chịu lùi bước. Tháng 11 năm đó, họ mở một cuộc biểu tình
tại 45 thành phố nhằm phản đối quyết định của Bộ Ngoại
giao Mỹ, huy động thành viên của nhiều tổ chức thiện nguyên
tôn giáo khác: National Council of Churches (Hội đồng Các nhà thờ
toàn quốc), United Methodist Church (Liên hiệp Nhà thờ Giám lý),
United Presbyterian Church (Liên hiệp Nhà thờ Giáo hội Trưởng
lão), v.v. Hội đồng Trung ương Giáo phái Menno của Earl Martin
đã cầu nguyện cả đêm trước Nhà Trắng. Cuối cùng, Bộ
Ngoại giao Mỹ nhượng bộ và cấp giấy phép xuất hàng cho
AFSC.
Tuy nhiên, lệnh cấm vận vẫn xiết chặt Việt Nam. Năm 1978,
đàm phán về bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ đổ vỡ hoàn toàn.
Mãi tới tháng 12-1991, Chính phủ của Tổng thống Bush (cha) mới
giải tỏa một phần lệnh cấm vận đối với Việt Nam bằng
việc cho phép các công ty Mỹ được ký với đối tác Việt Nam
những biên bản ghi nhớ (nghĩa là các hợp đồng nguyên tắc,
chưa có giá trị). Từ cấm vận hoàn toàn, cho đến dỡ bỏ
một phần, rồi đến sự hiện diện của những doanh nghiệp
Mỹ đầu tiên trên đất Việt Nam, mối bang giao Việt – Mỹ
đã tiến những bước quá dài trước khi đạt tới bình
thường hóa.
<em>Kỳ sau: Kết nối âm thầm</em>
<div class="special_quote"><strong>Bình luận của Đ.V. Ninh:</strong>
Một đề tài rất hay, mình sinh ra trong những ngày bị cấm
vận nên thực ra lớn lên cũng chẳng hiểu những thiệt hại
ngày đó phải chịu là thế nào, cứ như tự nhiên nó phải
vậy vậy.
Tuy nhiên, đọc bài của Đoan Trang mọi người dễ bị lầm
lẫn là Mỹ lấy nguyên nhân cấm vận trực tiếp từ việc cay
cú do thua Việt Nam hay do các vấn đề đòi hỏi bồi thường
sau chiến tranh, (mặc dù nguyên nhân thực tế có thể là như
vậy).
Theo như mình được biết (!?), là lệnh cấm vận thì ko phải
do một mình Mỹ đưa ra được, mà lệnh cấm vận về mặt
hình thức là do LHQ đưa ra. Nguyên nhân của lệnh cấm vận
(về hình thức) cũng là do Việt Nam đưa quân vào Campuchia chứ
không phải do Mỹ thua Việt Nam nên quá cay cú mà cấm vận ngay
được. Thậm chí, ngay sau chiến tranh có nhiều nước rất
muốn tạo quan hệ với Hà Nội luôn, nhưng không được vì ta
vẫn còn quá say sưa trên chiến thắng. Thậm chí ngay sau chiến
tranh người Mỹ cũng đã từng chìa tay ra bình thường hóa quan
hệ với VN nhưng vì vấn đề bồi thường ấy mà ta ko chấp
nhận. Cuối cùng, họ lựa chọn TQ trước. Chính cuộc chiến
năm 79, hình như cũng là do TQ bắt tay với Mỹ, nhân danh LHQ
để "trị cho VN 1 bài học" (vì đưa quân vào CPC).
Tất nhiên những vấn đề trên Đoan Trang có thể đã biết
rồi & chỉ muốn nói lên những góc khuất, những vấn đề
chưa được đưa ra cho đến giờ, dưới góc nhìn của bài
viết (dân đi trước quan). Nhưng nếu như góc nhìn quá xa so
với tiêu chuẩn, có thể sẽ làm một số người đọc khó
khiểu.
Just my two cents.
Hi vọng sớm được đọc phần tiếp.</div>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4876), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét