Nguyên tắc của lịch sử là tiếp nối và kế thừa. Những
điều đơn giản ấy ai cũng biết, nhưng trong thực tế không
dễ tìm đúng bản chất của lịch sử và triều đại mới
thường có xu hướng phủ nhận triều đại cũ. Không ít
người muốn cắt lát lịch sử và tôn vinh chính triều đại
mình. Điều này dễ làm cho lịch sử biến dạng và như vậy
tính trung thực sẽ bị bóp méo và quan trọng hơn là gây ra
hiểm hoạ cho một xã hội muốn phát triển.
Không phải ngẫu nhiên mà trong lịch sử phương Đông người ta
hay nhắc đến Tư Mã Thiên và Tam Thái sử nước Tề. Đấy là
những nhà sử học không biết sợ quyền lực mà chỉ biết
trọng sự thực, không biết sợ cái chết mà chỉ biết sợ
mất nhân cách một nhà sử học. Vào thời ấy mà Tư Mã Thiên
đã lặn lội khắp nơi trên đất Hán để tìm từng thẻ tre,
tích góp lại dựng lên bộ sử để lại cho muôn đời. Thời
ấy ngay cả Hán Vũ Đế rất muốn xem Tư Mã Thiên viết gì về
mình và triều đại mình, nhưng không cách gì ngoài cách nhờ
Đông Phương Sóc. Nhưng Đông Phương Sóc dù rất thân với Tư
Mã Thiên, cũng… bất lực. Nói thế để thấy tính độc lập
của nhà sử học lúc bấy giờ là thiêng liêng. Tính độc lập
của nhà sử học không cho phép nhà cầm quyền can thiệp ở
bất cứ mức độ nào, nhằm đảm bảo tính trung thực của
lịch sử.
Nhắc người để ngẫm về mình. Cho đến nay vẫn còn không ít
tranh luận về thời cận đại và ngay cả hiện đại, một
phần chúng ta thiếu những nhà sử học đầy khí tiết như Tư
Mã Thiên, như ba anh em nhà thái sử nước Tề. Đặc biệt ở
thời hiện đại còn do cơ chế. Cơ chế Đảng lãnh đạo toàn
diện theo cách hiểu máy móc không phải không gây khó khăn cho
nhiều nhà sử học chúng ta trong việc tiếp cận các sự thật
lịch sử. Thậm chí tính độc lập của nhà sử học gần như
bị triệt tiêu. Chính từ quan điểm này chúng ta đã vô tình
"cắt lát" lịch sử, gần như "quên lãng" triều đại có
công lớn nhất trong lịch sử mở nước và dựng nước của
Chúa Nguyễn và triều Nguyễn.
Từ năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng vào Nam bắt đầu một thời kỳ
mở cõi cam go và cũng đầy dũng khí của các chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn. Đứng ở góc độ vĩ mô, chúng ta lớp
hậu sinh nên cúi đầu cảm ơn chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn đã tạo dựng cho chúng ta và các thế hệ nối tiếp
một nước Việt Nam hình chữ S kéo dài từ Ải Nam Quan đến
Mũi Cà Mau, giương ngực ra biển đông với trên 3000 cây số
bờ biển và bãi biển lý tưởng, lưng dựa vào dải Trường
Sơn hùng vĩ, tạo thành một thế giữ đất và nước vững
chắc cho mọi thế hệ.
Đấy là sự thật lịch sử và nếu ai chối bỏ nó thì cũng
đồng nghĩa với việc bắn vào lịch sử. Dẫu "bắn vào
lịch sử bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn trả lại anh
bằng đại bác" – Thi hào người Daghectan đã nói như thế.
Từ ngày mon men vào lịch sử không hiểu sao câu nói tưởng vu
vơ dọa dẫm này luôn ám ảnh tôi khiến tôi nhiều đêm mất
ngủ. Một triều đại chỉ trong vòng chưa đầy 2 thế kỷ đã
cho chúng ta một đất nước hoàn chỉnh gấp đôi đất nước
mà Vua Hùng và các triều đại nối tiếp xây dựng. Vậy mà
một thời do duy ý chí, do tả khuynh… chúng ta đã chối bỏ,
thậm chí lên án gay gắt!
Bây giờ thì trước tôi là nhà tư tưởng Pháp: Misen Morsten.
Ông nhìn thẳng vào tôi và nói: "Dấu hiệu đầu tiên của
sự phá vỡ đạo đức xã hội – đó là đánh mất sự thật,
bởi vì sự thật mà hiện nay đang được áp dụng trong chúng
ta – đó không phải là những gì có trong thực tế mà là
những gì chúng ta muốn thuyết phục những người khác".
Tất nhiên tôi hiểu thời kỳ Chúa Nguyễn và triều Nguyễn là
một thời kỳ lịch sử đầy biến động, vô cùng phức tạp.
Thế lực nhà Mạc vẫn còn. Những người nhân danh phò Lê
không phải không gây áp lực lên xã hội lúc bấy giờ. Và
Trịnh Nguyễn phân tranh suốt trên 200 năm đã làm cho sức dân
cùng kiệt. Tất cả điều đó tạo tiền đề cho nhiều cuộc
nổi dậy của các thế lực khác nhau trong nhân dân, trong đó
có cả bọn trộm cướp và những cuộc nổi dậy của nông
dân!
Trong những cuộc nổi dậy này, đáng chú ý là cuộc nổi dậy
của anh em nhà Tây Sơn. Thực tế, lúc đầu đây không phải là
cuộc khởi nghĩa nông dân. Bắt đầu là việc biện Nhạc đánh
bạc thua thiệt, thâm quỹ công, rủ hai em chạy lên miền
ngược cướp của, sau thì cướp đồn chúa Nguyễn! Dần dần
nhờ chính sách an dân, anh em nhà Tây Sơn thu hút ngày càng
nhiều dân chúng. Trong anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ là một
thiên tài quân sự. Ông đọc được trận chiến khi nó chưa
diễn ra, và cầm chắc thắng lợi khi nó bắt đầu. Cùng với
thiên tài quân sự, Nguyễn Huệ còn là một nhà lãnh đạo
biết chiêu hiền đãi sĩ thật lòng, chịu nghe nhiều ý kiến
trái ngược nhau mà không quy chụp một ai khác chính kiến. Nhờ
vậy hiền tài về với Nguyễn Huệ ngày một đông. Một
người khó tính như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, cuối cùng
cũng chịu trở về với Nguyễn Huệ sau trận đại thắng quân
Thanh.
Đây cũng là thời kỳ Nguyễn Ánh không còn đất dung thân,
phải chạy tá túc bên Xiêm ra các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Côn
Lôn… Trong nỗi đau tận cùng của một người để mất đất
đai của tiên vương, Nguyễn Ánh đã nhờ Xiêm rồi nhờ Pháp…
Việc nhờ này ở mặt nào đó không phù hợp với truyền
thống của dân tộc. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu lần đất
nước ta rơi vào tay quân Tàu vì sự nhờ vả này. Chỉ có
điều, lịch sử cho thấy chưa một lần Nguyễn Ánh nhờ quân
nhà Thanh. Và điều quan trọng là nhân dân Nam Bộ trước sau
vẫn tìm cách giúp đỡ, che chở Nguyễn Ánh – Chắc là họ
nghĩ về cái ơn mở cõi của các chúa Nguyễn. Nhân dân miền
Nam hoàn toàn không đối lập chúa Nguyễn – mà người đại
diện là Nguyễn Ánh – và Nguyễn Huệ. Trong lòng họ, Nguyễn
Huệ là người anh hùng đã từng đánh tan 5 vạn quân Xiêm,
nhưng Nguyễn Ánh là hậu duệ của chúa Nguyễn – những bậc
tiền nhân có công xây dựng nên vùng đất miền Nam.
<em>Nhiều lần tôi tự hỏi, tại sao Nguyễn Ánh không cầu
viện Tàu? Vua quan các triều đại người Việt thường rất
gắn bó với Thiên triều về tư tưởng và luôn coi Thiên triều
là sức mạnh cứu hộ khi đất nước bị xâm hại. Việc cầu
cứu Thiên triều coi như là hiển nhiên, là tất yếu. Ngay cả
Tôn Thất Thuyết khi dẫn Hàm Nghi ra Tân Sở, ra hịch Cần
vương… cuối cùng cũng bỏ Hàm Nghi ở Hà Tĩnh, dẫn Trần
Xuân Soạn qua Tàu cầu viện, mặc dù ông, hơn ai hết biết
tháng năm năm Giáp thân Thiên triều đã ký: ''Nước Tàu
để cho nước Pháp xếp đặt mọi việc ở đất Việt
Nam''</em>
<em>Tôi nghĩ, Nguyễn Ánh không thể không suy nghĩ để chọn
lựa người giúp mình lấy lại đất đai của tiên đế. Ông
không nhờ Tàu vì lịch sử chắc đã cho ông nhiều bài học
thấm thía về việc nhờ vả này.</em>
Ông chọn Xiêm, trước hết, đó là nơi đã giúp ông rất
nhiều giữa thời hoạn nạn không chốn dung thân. Hai nước có
sức mạnh cân bằng . Tôi không rõ những điều khoản gì giữa
hai bên trong sự giúp đỡ này. Nhưng giao ước mà ông Bá Đa
Lộc ký với đại diện Loui XVI là de Montmoin thì cụ thể Giao
ước có 5 điều khoản:
<span class="underlined-text">Khoản 1</span>: Pháp giúp Nguyễn Vương
4 tàu chiến cùng trên 1000 quân trong đó có lục quân, pháo binh,
hắc binh và một số súng đạn.
<span class="underlined-text">Khoản 2</span>: Nguyễn Vương phải
nhường cho Pháp cửa Hội An và đảo Côn Lôn.
…
Một giao ước sòng phẳng.
Nhưng giao ước đã không thành vì có sự dèm pha của bá tước
de Conway nên Pháp hoàng đã không thi hành và Bá Đa Lộc phải
mộ non 20 người sang giúp Nguyễn Ánh: đúc súng, tập luyện
quân sĩ … (như một loại chuyên gia).
Suy cho cùng không có sự giúp đỡ nào vô tư, trong sáng cả –
Thời cổ cận đại cũng như thời hiện đại. Một chính trị
gia nguời Anh Lord Palmeroton từng nói "Chúng ta không có kẻ thù
vĩnh viễn, cũng như bạn bè muôn đời. Chỉ có quyền lợi là
vĩnh viển và muôn đời mà thôi". Nguyễn Ánh chắc không
nhầm. Mọi sự lệ thuộc đều phải trả giá…
<em>Nhớ lại: Thời ấy cuộc chiến đang giữa hồi gay cấn –
không thể dừng lại vì thiếu sự giúp đỡ của Liên Xô và
Trung Quốc [1949-1950] . Cùng với sự giúp đỡ ấy, chính Chủ
tịch Hồ Chí Minh phải làm cuộc cách mạng dân chủ: cải cách
ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức bằng cách thay hàng loạt
trí thức đã từng dấn thân, từng hy sinh vì cách mạng bằng
những người thuộc giai cấp công nông… Đấy là điều mà
ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cố tránh. Với Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục
đích là ưu tiên số một và việc thành lập cho được một
chính phủ gồm những hiền tài, không phân biệt thành phần,
giai cấp lúc bấy giờ là bảo đảm sự tin cậy của nhân dân.
Thu phục được nhân tâm là thu phục được sức mạnh truyền
thống của dân tộc. Nhờ nó mà nhà Trần ba lần đánh tan quân
Nguyên, nhờ nó mà Lê Lợi và Nguyễn Trãi đánh tan quân
Minh…Hồ Chí minh nhận thức sâu sắc điều đó và điều đó
đã giúp Hồ Chí Minh thành công trong cách mạng tháng tám…
Nhưng… trong hoàn cảnh lịch sử ấy cái phi lý đã trở thành
cái có lý, chủ nghĩa cộng sản từ phương tiện trên con
đường cứu nước lại trở thành mục đích…</em>
<em>Ở góc độ nào đấy ta có thể coi đây là sự chuyển
hướng mang tính tình thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoàn
toàn không thuộc bản chất tư tưởng của Người. Nhưng đây
lại là sự chuyển hướng về đường lối chứ không phải
sách lược vì vậy hậu họa của một thứ văn hóa lai căng phi
nhân tính đã vượt khỏi tầm kiểm soát của Chủ tịch Hồ
Chí Minh .Đất nước từ đây rơi vào tình trạng hỗn loạn
về đạo đức khủng hoảng về lý tưởng anh em bất hòa ngày
càng gay gắt, sức mạnh đoàn kết không còn nguyên vẹn như
ngày đầu thành lập nước nữa!</em>
<em>Đây là một vấn đề nhạy cảm hiện nay. Nhưng đấy mới
chính là những vấn đề mà nhà sử học chân chính không có
quyền né tránh mà phải dũng cảm vào cuộc để những thế
hệ sau đỡ tốn thời gian mò mẫm trong lớp bụi thời gian.
Những nhà chính trị bao giờ cũng cần sự ổn định để xây
dựng và phát triển xã hội. Nhưng nếu ai đó muốn dung quyền
lực để can thiệp vào lịch sử thì họ sẽ bị chính lịch
sử lên án! Trong lịch sử đã từng có tướng quốc nước Tề
chém liên tiếp ba nhà sử học nhưng không bẻ cong được ngòi
bút của nhà sử học…</em>
<em>Nhìn nhận khách quan không phải là bới móc, lên án, thóa
mạ… mà để cảm thông, để thể tất với cha ông một
thời… Dẫu có sai phạm, thì sai phạm ấy cũng cần được
đặt trong hoàn cảnh cụ thể để thấu tỏ được tấm lòng,
suy nghĩ của người xưa …</em>
Nước Nhật sau thế chiến thứ 2, đại bại! Vậy mà trước
sau nhân dân vẫn tin yêu và tôn thờ Nhật Hoàng. Thái Lan,
Campuchia… rồi Bỉ, Anh, Thụy Điển, Na Uy,… nhân dân vẫn tôn
thờ nhà vua, tôn thờ nữ hoàng. Tôi có hỏi tiến sĩ Mory
người Nhật tại sao như vậy? Vị tiến sĩ ấy trả lời :
đất nước chúng tôi là của tiên vương Nhật hoàng. Người
Nhật uống nước biết nhớ nguồn. Không ai dám quên công ơn
lập quốc của tiền nhân. Kẻ quên ơn lên án cha ông, kẻ ấy
không xứng danh người Nhật. Nhiều chính khách, thủ tướng
Nhật hàng năm hay đến ngôi đền Yashukuni để thắp hương
chính vì tinh thần ấy.
Tôi nghĩ người Việt mình nên suy nghĩ về tinh thần tôn trọng
tiền nhân ấy của người Nhật. Trước tiên là dạy cho con
cháu: có cha rồi mới có con. Một đất nước biết tôn trọng
tổ tiên là một đất nước biết giá trị của văn hóa.
"Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn" ( Hồ Chí Minh nói về văn hóa năm 1942).
Thời phong kiến, đất nước là của vua, thần dân là bề tôi
của vua. Vua Chế Mân khi được vua Trần Anh Tông gả Huyền
Trân Công chúa liền tặng cho ta hai Châu Ô, Lý. "Đó chính là
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra", như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
ở trên. Nếu đòi hỏi nhà vua thời phong kiến nhận thức về
đất nước, về dân tộc như thời hiện đại là điều phi
lịch sử.
Chính sự đòi hỏi phi lịch sử ấy một thời đã dẫn chúng
ta rơi vào chủ nghĩa duy ý chí, tả khuynh… Nếu mạnh dạn
nhìn thẳng vào sự thật, nói hết sự thật như cố tổng bí
thư Trường Chinh đã nói ở Đại hội Đảng lần thứ VI năm
1986 thì trong cuộc hội thảo " Chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn" cuối năm 2008 là phù hợp với cuộc Cách mạng đổi
mới tư duy của Đảng.
Sự thật lịch sử là chúa Nguyễn bằng công việc mở cõi đã
nhân đôi đất nước chúng ta.
Sự thật lịch sử là Nguyễn Ánh là người đã thống nhất
non song gấm vóc của đất nước ta và đặt tên nước là
Việt Nam, lập nên vương triều nhà Nguyễn. Đây là một triều
đại dẫu còn nhiều bất cập, nhưng xét về đại thể triều
đại ấy đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử. Trước
tiên, đó là việc xác định rõ ràng cương vực lãnh thổ
nước Việt Nam trên bộ cũng như trên biển. Đến thời Minh
Mệnh, lần đầu tiên một bản đồ chi tiết, cụ thể từ
Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau và các quần đảo thuộc chủ
quyền của Việt Nam từ Côn Lôn, Phú Quốc đến quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa…đã được xác lập. Có thể đây là
cơ sở quan trọng nhất về mặt pháp lý không ai có thể chối
cãi được, đánh tráo được… chủ quyền cương giới trên
bộ và trên biển của chúng ta.
Tội mà một số người đời sau qui cho Nguyễn Ánh: "cõng
rắn cắn gà nhà", "rước voi giày mã tổ", có độ lùi
thời gian, chúng ta càng rõ đấy là bức xúc mang tính tình
thế. Bản chất Nguyễn Ánh là cảnh giác… gần hai mươi
"chuyên gia" giúp ông được ông phong tước, hầu, giúp xây
dựng gia đình, lương bổng hậu hĩnh, nhưng không có một thực
quyền nào ngoài chuyên môn của họ. Và đến khi thống nhất
được giang sơn, ông cũng tìm cách đưa họ về nước họ…
để giữ nguyên vẹn một quốc gia như ngày nay chúng ta thừa
hưởng.
Cũng có người cho chuyến đi sang Pháp của hoàng tử Cảnh tạo
cớ cho Tây Dương sau này xâm chiếm nước ta, đặt ách đô hộ
gần một trăm năm. Tôi nghĩ, nếu nhìn toàn cục chủ nghĩa tư
bản khi phát triển cần thị trường như thế nào… thì ta sẽ
thấy cái bi kịch tất yếu của những nước phong kiến, thuần
nông như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Malaixia, và Việt Nam
…. Trong trường hợp này, cái phi lý lại trở thành cái có lý
(Giáo sư Cao Xuân Huy đã phân tích vấn đề nay rất rõ ràng
trong "Tư tưởng Phương Đông").
Điều quan trọng là hôm nay chúng ta có trách nhiệm giữ cho
được cương vực lãnh thổ trên bộ và trên biển như những
gì mà vua Gia Long, đặc biệt là vua Minh Mệnh đã để lại
trên tấm bản đồ hoàn hảo nhất cho đến nay.
Cùng với một đất nước hoàn chỉnh trên, vương triều
Nguyễn cũng để lại cho hậu thế những công trình đáng
được hậu thế tôn vinh hơn là phỉ bán, hạch tội. Đó là
chế độ học hành, thi cử để chọn hiền tài, đến việc
đào kênh, rạch, xây dựng đền thờ, lăng tẩm … những công
trình mà hôm nay được Unessco công nhận là di tích vật thể
và phi vật thể Cung đình Huế. Tất nhiên tấm huân chương mà
còn có hai mặt huống hồ những công trình đồ sộ như vậy
vào thời đại công nghiệp coi như bằng không. Nhưng… người
Ai Cập vẫn tự hào về Kim Tự Tháp, người Chân Lạp vẫn tự
hào về Ăngco, người Tàu tự hào về Vạn Lý Trường Thành,
về lăng mộ Tần Thủy Hoàng…. Có bao nhiêu triệu người ngã
xuống cho niềm tự hào này ? Tôi chưa nghe dân tộc nào phỉ
báng, lên án cha ông họ như một số người trong chúng ta
…hôm nay ! Tôi lại nghĩ về người Nhật và cái câu của
tiến sĩ Mory: uống nước nhớ nguồn là tư tưởng nhân nghĩa,
là đạo lý của người Nhật.
Tất nhiên lịch sử không thể phủ nhận đóng góp lớn lao
của Nguyễn Huệ và hoàng đế Quang Trung đã tạo tiền đề cho
công cuộc thống nhất của Nguyễn Ánh(có thể khẳng định
rằng nếu không có Nguyễn Huệ – hoàng đế Quang Trung tạo
tiền đề thì Nguyễn Ánh không dễ thống nhất được giang
sơn như trong thực tế).
Tính kế thừa của lịch sử chính là chỗ nhận thức lịch
sử theo quan điểm biện chứng: trung thực và khách quan. Nếu
thiếu một trong hai yếu tố này thì không còn là lịch sử
nữa.
Khi mà chiến tranh đã qua trên ba mươi năm và công cuộc đổi
mới đã qua hai mươi năm, một cách nhìn nhận và đánh giá
lịch sử thời cận đại như nó vốn có: đó chính là bản
chất của lịch sử mà các nhà sử học luôn tự nhắc nhở
mình phải cảnh giác với tính chủ quan, duy ý chí của con
người ở mọi thời đại.
___________________________
[*] Bài viết được đăng trong tạp chí Xưa & Nay của Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam, số 353, tháng 4-2010. Bản đăng ở đây
là đầy đủ (những đoạn in nghiêng được Xưa&Nay biên tập
cắt bỏ).
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4758), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét