Sơn Mỹ nên tôi đi học trể hơn 2 năm, thể xác khá lớn so
với các bạn cùng lớp thuở ấy. Một buổi chiều khắc sâu
đậm trong tâm tôi, hôm đó lớp tôi tan học khoảng 12 giờ,
về đến nhà cơm nước qua loa, gần 14 giờ tôi có mặt ở núi
tranh, để tìm người thu hoạch củ lang đến mót, trời đổ
mưa lâm râm nên không có ai đi đào củ cả, tôi cùng 2 bạn
Định và Lên cứ than vãn và buồn bã, chúng tôi tạm xới lại
những đám lang mà người ta đã thu hoạch tự hôm nào, kết
quả quá ít ỏi, trời bắt đầu tối dần, tôi rủ 2 bạn về
kẻo muộn, trên đoạn đường xuống núi, tôi phát hiện giữa
đám tranh tươi tốt rậm rạp có một đám lang rất tốt, chúng
tôi rẻ tranh đi vào và trông thấy thật nhiều củ lang, chúng
ló ra vì bao trận mưa làm trôi hết đất, chúng tôi vội vàng
lượm số củ lang ấy, thoáng chốc mỗi đứa thu nhập gần
nửa bao đại hàn, chúng tôi định về thì thấy dưới chân
núi có một thanh niên hớt hải cầm đòn gánh chạy lên, chúng
tôi sợ quá tản ra bỏ trốn, tôi núp vào một góc của đám
tranh, thế mà Anh ta dể dàng phát hiện ra tôi do cây cuốc chỉa
tôi chưa kịp để nằm xuống, cái cán nó cao hơn và ló ra
khỏi lùm tranh, thế là Anh ta lôi tôi ra đánh, Anh dùng cái đòn
gánh, mà Anh xử dụng để quảy rau lang, đánh vào bụng, vào
lưng và vai của tôi, dường như đến lúc tôi bị ngất nằm im
thì Anh mới hả cơn giận, sau trận đòn hơn 1 tuần tôi bị
ốm rất nặng, không đi học, không đi làm được, cả thân
tôi sưng lên và rất đau đớn. Tôi chỉ kể lại cho Chị Mỹ
và Ngoại nghe một nửa sự việc, chị và Ngoại tôi rất giận
Anh ta, Anh ấy ở sau nhà bà Bốn Thường, thôn An Lộc, nơi chị
tôi đi ở, chị tôi gặp mặt Anh ta thường mà, đến nay thỉnh
thoảng tôi vẫn gặp Anh trong những ngày về thăm quê, tôi vẫn
chào nhưng Anh ấy chưa lần nào đáp lại, chắc là Anh còn cảm
thấy lỡ tay khi ấy đánh tôi quá nặng. Tôi thấy có lỗi cho
nên van xin và đưa hết số củ lang cùng dụng cụ của tôi cho
Anh, vậy mà tôi vẫn suýt chết với trận đòn của Anh....
... đầu năm 1970, sau khi nhận tin Ba tôi mất khoảng 3 tuần,
thì có 2 du kích từ Sơn Mỹ đến nhà Ngoại tôi vào ban đêm,
một người chị em tôi quen lắm, con của ông bà Bốn Tương ở
gần nhà tôi thôn Mỹ Lại. Họ nói với Ngoại tôi, muốn dẫn
3 chị em tôi trở lại Sơn Mỹ, rồi đưa 3 chị em tôi ra Bắc
học, để sau này phục vụ công tác lên án giặc Mỹ. Ngoại
tôi thẳng thừng từ chối, bà nói với họ, tôi không muốn
mất luôn 3 đứa cháu thân yêu, may mắn lắm chúng nó mới
sống sót được, hơn nữa thời gian nầy Sơn Mỹ hoặc miền
Bắc chiến tranh khốc liệt lắm.
Đây là lần đầu tiên và duy nhất mà 3 chị em chúng tôi đón
nhận được sự quan tâm, từ bấy đến giờ gần 40 năm rồi
chúng tôi không có lời hỏi thăm nào nữa, dù chỉ 1 lần dự
lể tưởng niệm 16.03. Tôi cảm thấy rất buồn, vì cũng rất
nhiều nhà báo, phóng viên về Sơn Mỹ, họ chỉ làm việc cùng
ban lãnh đạo nhà chứng tích Sơn Mỹ trong phòng kính mát mẽ
khang trang hoặc một vài người sống sót mà hàng trăm lần họ
nhắc đi nhắc lại... Tại sao họ, chưa lần nào bước chân
vào những căn nhà túng thiếu đủ bề của bao người may mắn
còn sống sót ngày ấy, ngoài khu chứng tích? Như vậy tìm đâu
ra được tính trung thực hoàn hảo của sự kiện? Mà lịch sử
rất cần tính trung thực của nó, thiếu nó làm sao bảo tồn
được tính nhân văn? Khi nhìn hình bà Nguyễn thị Tẩu nằm
chết, miệng còn ngậm vành nón, chắc hẳn bao tên sát nhân sẽ
nhận ra, tên lính nào đã bắn bà? Hoặc Ronald Haeberle sẽ biết
điều đó và ắc hẳn họ sẽ kinh ngạc hơn, khi biết bà
Nguyễn thị Tẩu đã cứu được 2 đứa con ở giây phút cuối
đời, điều này không phải ai cũng làm được và càng kinh
ngạc hơn, chỉ ở Tháp Canh dưới đống xác người có 3 đứa
bé 9 tuổi, 7 tuổi và 14 tháng còn sống và sống đến ngày hôm
nay.
Bà Nhiều và con gái của bà ngày ấy trốn ra cửa sau và men
theo ruộng lúa may mắn chạy thoát, gia đình bà bị bắn chết 5
người. Bà nhìn thấy khá nhiều những thảm cảnh trong căn nhà
của bà, trên 20 người từ ngã ba chạy vào nhà bà để trốn,
kẻ xuống hầm, người nằm dưới giường, vài ba người núp
sau bàn thờ, nhưng sau đó bị lính Mỹ lôi ra hết để
bắn......
Và bao người còn sống sót ở Mỹ Lai ngày ấy cũng có những
hoàn cảnh thật đáng thương tâm.
Bà Phạm thị Thuận cuộc sống neo đơn thiếu thốn, gia đình
bà có 5 người bị lính Mỹ bắn chết trong vụ thảm sát ấy.
Chị Đỗ thị Tuyết hiện đang sinh sống ở Pleiku, chị và gia
đình sáng 16.3.1968 bị lính Mỹ bắt ra tập trung ở đoạn
mương ngay trước nhà cùng với rất nhiều bà con thôn Tư Cung,
phần lớn là phụ nữ và trẻ em tổng cộng 170 người, lính
Mỹ nã súng tàn sát, bắn giết gần hết số người ấy,
người người ngã xuống máu nhuộm đỏ cả đoạn mương dài,
chị sống sót nhờ xác người đè lên.
Ông Phạm Đạt đã phaỉ chứng kiến cảnh vợ bị bắn trọng
thương, tay còn bế con gái nhỏ mới 7 tháng tuổi, lết tù trong
nhà đang cháy ra ngoài sân. Cố gắng lăn về phía cửa hầm trú
ẩn, nhưng không còn kịp bị lính Mỹ bắn chết, sau đó chất
tranh lên trên và đốt cả 2 mẹ con.
Anh Phạm thành Công, còn sống sót do xác mẹ và các chị che
chở, buổi sáng 16.03 ấy khi nghe tiếng pháo nổ, cả gia đình
Anh đều rút xuống hầm tránh pháo như mọi khi. Gia đình Anh
gồm 6 người Công, Mẹ và các chị, khi 2 tên lính Mỹ da trắng
bước đến chĩa súng xuống hầm mẹ kéo cả đàn con lên trình
diện một cách công khai thì 2 tên lính Mỹ dùng chân đạp
ngược cả gia đình té nhào vào hầm và tung ngay lựu đạn
xuống, cả gia đình tan xác, chỉ riêng Công bị thương nặng
và thoát chết do thân thể mẹ và các chị che chở.
Cũng dưới cái mương ngập ngụa xác người và máu, Đỗ Ba
tám tuổi còn cọ quậy được Glenn Andreotta nhìn thấy và báo
cho Hugh Thompson, phận may của Đỗ Ba còn Hugh Thompson hạ cánh
và cứu cậu bé, đưa cậu vào bệnh viện Quảng Ngãi.
Bà Trương thị Lệ với 1 đứa con còn sống sót tại Tháp Canh,
nhờ 2 xác chết đè lên bà, bà cùng con nằm yên giả chết.
Bà Hà thị Quí nay đã 83 tuổi, ngày ấy bà cũng bị lính Mỹ
bắt tập trung ở mương kênh, nơi lính Mỹ giết 170 người vô
tội, bà bị thương ở mông và nằm yên, xác chết cứ lần
lượt ngã xuống và đè lên bà, sau khi bắn giết xong lính Mỹ
bỏ đi, bà cố gắng bò về nhà, doc đường bà thấy nhiều
cảnh tượng thật đau lòng, bầm gan tím ruột, rất nhiều xác
phụ nữ, thanh nữ bị lính Mỹ cởi trần hảm hiếp và bắn
chết. Có vài người còn bị rọc cả cửa mình.
Chị Phạm thị Trinh, lúc đó 11 tuổi, khi dưới hầm chui lên,
tận mắt chị còn nhìn thấy, chị Phạm thị Mười mới 14
tuổi bị một tên lính Mỹ hiếp dâm và sau đó bắn chết, bên
cạnh hiên nhà, xác mẹ và đứa em chưa tròn 7 tháng bị lính
Mỹ dùng rơm đốt cháy hơn nữa thân người.
Nhà ông Lệ, trong hầm có 15 người đang trú ẩn đều bị
giết sạch.
Nhà chị Trinh, đứa con chị cháu Đức mới 8 tuổi từ trong
hầm chạy ra liền bị lính Mỹ bắn chết, lúc miệng cháu còn
ngậm đầy cơm.
Anh Trần tấn Huyên ở xóm Khê Thuận kể lại: "chỉ trong
tích tắc, ông bà nội, cha mẹ và đứa em ruột của Anh đả
bị lính Mỹ xả súng bắn gục, ngay trên mâm cơm".
Than ôi, nỗi đau đến bao giờ mới nguôi? Sao lính Mỹ lại
tàn ác dả man đến thế? Cấp trên của chúng tại sao tồi tệ
vậy? 504 người dân vô tội, chứ đâu phải vài ba người nhỏ
nhoi ít ỏi, họ làm gì nên tội mà phải tiêu diệt họ? bao
đứa trẻ sơ sinh lòm khòm bò trên vũng máu hoặc miệng đang
còn ngậm vú mẹ, mà chúng vẫn kề sát đầu bắn cho tan xác.
Hiếp dâm trẻ thơ, các chị, các bà, khi họ đang bị tan
thương tột cùng, xác người thân ngổn ngang bên cạnh, sau đó
giết họ không những bằng bao phát đạn mà đôi lúc dùng
lưỡi lê để rọc thân thể họ...
Một cuộc thảm sát có tổ chức với mục đích "giết sạch
đốt sạch phá sạch", những kẻ thi hành mệnh lệnh chắc
lúc họ hào hứng lắm? Càng giết người chúng càng say máu và
mức độ càng tàn nhẫn hơn. "Binh lính bắt đầu nổi điên,
họ xả súng vào đàn ông không mang vũ khí, đàn bà trẻ thơ
và cả trẻ sơ sinh".
Một nhóm lớn gồm 70 hoặc 80 dân làng nằm trong vòng vây của
trung đội 1 ở trung tâm làng bị William L Calley đích thân giết
hoặc ra lệnh cho cấp dưới giết, các binh sĩ của trung đội 2
đã giết ít nhất 60 đến 70 dân làng, bao gồm cả đàn ông,
đàn bà và trẻ em, đơn vị này càn qua nửa phía bắc của
thôn Mỹ Lai 4 và Bình Tây, cuộc càng quét đầu tiên của trung
đội 1, 2 và 3 không gặp một sự kháng cự nào.trung đội 3
cũng là đơn vị bao vây giết một nhóm khoảng 7 đến 12
thường dân gồm phụ nữ và trẻ em. Tiểu đoàn 4 thuộc Trung
đoàn bộ binh số 3 bắt đầu chuyển hướng càn quét sang các
xóm của thôn Mỹ khê 4 và giết ở đây khoảng 90 dân thường.
Chưa đầy 4 tiếng đồng hồ lính Mỹ đã giết 504 người dân
vô tội.
- 182 phụ nữ (trong đó có 17 người đang mang thai).
- 173 trẻ em (trong đó có 56 em dưới 5 tháng tuổi).
- 60 cụ già trên 60 tuổi.
- Ông Hương Thơ bị lính Mỹ bắn chết và ném xác xuống
giếng nước.
- 89 trung niên.
- có 24 gia đình bị giết sạch.
- 247 căn nhà bị thiêu hủy.
- hàng ngàn trâu bò, gia súc bị giết.
Tại sao đời sống lại hàm chứa những bất công tàn bạo
thế? Tại sao niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của con người tạo
dựng lên trên những ngịch lý không thể dung hòa. Vụ thảm
sát Sơn Mỹ làm chấn động cả địa cầu, vậy mà bao nhân
chứng sống sót ít ỏi vẫn bị lãng quên, 3 đứa con bà Chín
Tẩu, hơn 33 năm rồi nhà chứng tích Sơn Mỹ được thành lập
chưa lần nào được mời dự lể tưởng niệm, hoặc một lời
hỏi thăm, tên mẹ chúng khắc sai trên bia trong đại sảnh nhà
trưng bày, mới sửa lại tháng 6.2009 qua bao nhiêu lần khó khăn
thiếu nại.
Phạm thị Trợ, 2 mẹ con bà Nhiều, Lê thị Em, Phạm thị
Hiền, Bùi thị Hà, Bùi Sanh, cháu Ông Hương Thơ... và rất
nhiều nạn nhân còn sống sót chưa có một lời hỏi thăm dù
qua gần 42 năm đằng đẵng dài, họ sống không quá 800 mét
cách nhà chứng tích, họ đang sống vất vã neo đơn với những
hệ lụy cuộc thảm sát, man rợ, những nấm mồ chôn chung 75
người tại Tháp Canh và số mồ mã của bao người dân vô tội
rải rác ở xóm Thuận Yên, Tư Cung Cổ luỹ quanh năm thường
nhang tàn khói lạnh, không ai chăm nom, nói nấm mồ đến mãi
hôm nay thì đúng, chứ tối 16.3.1968 những người du kích và
một số bà con từ Trường An xuống giúp đỡ, gôm tất cả 75
xác người và đặt xuống rảnh rau lang sau đó lắp đất lên,
vì số du kích và bà con giúp chôn cất không nhiều, 504 xác
người một số lượng quá lớn, hơn nữa một số xác chết
riêng lẽ, trong nhà, trong vườn người ta còn phải tìm kiếm,
cho nên phải chôn vội, lấp vội cho xong, vậy mà một vài ngày
sau người ta vẫn còn thấy đâu đây trong đám bắp, huỳnh tinh
hay mía vẫn còn sót vài xác người chưa chôn….
Giặc Mỹ đã cướp đi của 3 chị em tôi, dường như tất cả
cuộc sống tuổi thơ hồn nhiên, người mẹ kính yêu, người
chị và đứa em hiền từ. Quảng đời của 3 chị em tôi sau
ngày thảm sát ấy thật gian lao cùng cực, về sống với bà
Ngoại già yếu neo đơn, thiếu thốn đủ bề, đói khát, gian
truân bên cạnh bị chính quyền ngụy tra hỏi và luôn gây khó
khăn, vì liệt vào gia đình cộng sản cần phải theo dõi. Giặc
Mỹ đã tạo cho 3 chị em chúng tôi một mảnh đời bất hạnh
nhất trong những người còn sống sót ở Mỹ Lai. Công việc
mưu sinh của 3 chị em chúng tôi hơn 20 năm có khác gì cuộc
sống của những kẻ lỡ vận ăn xin, với cảnh màn trời
chiếu đất.
... vì nhớ mẹ, đôi lúc muốn vào nhà chứng tích để xem hình
mẹ, nhưng trong túi không có tiền mua vé vào cổng đành thôi.
Dần lớn lên tôi vào nhà chứng tích thường xuyên hơn, cứ
mỗi lần về Tháp Canh thắp nhang cho Mồ mẹ chị Hồng và em
Huệ, đã bao lần tôi khiếu nại với ban lảnh đạo nhà chứng
tích về những thông tin sai về mẹ tôi củng như tên tuổi
trên bia, họ đón nhận tôi và những thông tin của tôi với
thái độ, như một kẻ nhà giàu vô tâm, khó chịu, khi bị một
tên ăn mày, rách rưới phá giấc ngủ trưa, để xin nắm cơm
nguội canh thiêu cầm hơi đỡ đói.
Vì một vài lý do khách quan nên tôi viết những dòng hồi ký
này, đôi lúc nó cũng là thông điệp đến tay một vài người
trong số 130 lính Mỹ và những lảnh đạo của chúng Ernnest
Medina, William Calley, Oran K Henderson, Samuel W Koster, Eugene kotouc...
mà 4 tiếng đồng hồ sáng 16.3.1968 đã từng xả súng sát hại
504 dân lành và gây nên bao thảm cảnh tan thương cho gia đình
của họ, bao đứa trẻ mồ côi phải gánh chịu một cuộc
đời bất hạnh, bao người già không còn nơi nương tựa, sự
hệ lụy tàn khốc thương tâm...
Vậy mà gần 42 năm rồi họ vẫn lẩn tránh, chưa lần nào
trở lại làng hồng Pinkville, họ vẩn lẩn tránh chính họ và
những gì tan thương nhất mà họ đã gây ra... Nhưng chắc rằng
họ sẽ phải nói với con cháu họ hiện đang ở trong quân
đội, đừng bao giờ lập lại "vụ thảm sát Mỹ Lai" ở
bất cứ nơi nào, trên quả đất thân yêu của chúng ta.
Các nhà Báo khi gởi phóng viên của mình về Mỹ Lai sưu tầm
thông tin để viết Báo nên cố cho thêm tiền lộ phí, để
phóng viên của mình cố gắng đi xa hơn, có thể trên 800 mét
đến bao gia đình rất nghèo neo đơn mà cuộc đời và lính Mỹ
ban cho họ sau ngày 16.3.1968. Sau đó bạn sẽ thấy Pinkville không
những toàn màu xanh của cuộc sống mới mà nó còn lốm đốm
những chấm màu hồng.những cuộc đời bi thương hệ lụy.
Việt Nam và Quốc Tế, hàng ngàn, hàng triệu nhà báo, các đàn
làm phim, thậm chí Pinkville và Oliver Stone cũng chỉ làm việc
với ban lãnh đạo nhà chứng tích hoặc thông dịch viên, mà bao
người đó họ có đồng cảm và đại diện cho chúng tôi
đâu?.....bức tường nhà chứng tích không cao lắm, nhưng nó
đủ ngăn cách 2 bề mặt của cuộc đời, đáng thương thay số
phận nghiệt ngã và cuộc đời bất hạnh của bao con người
còn sống sót....
Qua đây tôi xin cám ơn Ông Ronald Haeberle, ông đã chụp được
tấm hình mẹ tôi bà Nguyễn thị Tẩu, cho dù dân Sơn Mỹ vẫn
còn trăn trở rất nhiều về những tấm hình của ông, như 2
tấm hình của 4 đứa bé này, 2 đứa bé nào bị lính Mỹ bắn
tan xác sau khi ông chụp hình? Tấm hình màu ông chụp 2 đứa bé
nằm trên đường, có phải ông chụp từ trên trực thăng? Sau
đó không lâu ông vẫn dùng máy này chụp hình bà Nguyễn thị
Tẩu? (người đàn bà chết miệng còn ngậm chiếc nón lá).
... Thực tế không có bao tấm hình của ông, vụ thảm sát Sơn
Mỹ sáng 16.3.1968 khó có thể làm sáng tỏ được, cho dù Hugh
Thompson, Larry Colburn, Ron Ridenhour, Seymour Hersh và William R. Peers
có cố gắng đến đâu, nhưng thiếu bao tấm hình tan thương kia
thì chính phủ Mỹ vẩn không chấp nhận đó là vụ thảm sát
"Massacre".
Tôi Trần văn Đức nạn nhân còn sống sót ở Mỹ Lai sáng
ngày 16.3.1968, xin đại diện cho một số bà con còn sống sót
ở Mỹ Lai mà tôi được phép thay mặt, gởi tới ông lời cám
ơn chân thành nhất, mãi mãi tri ân và xin chúc ông cùng gia
đình dồi dào sức khỏe, vạn an.... dân Mỹ Lai rất mong chờ
ông!
Bao lời xin lỗi của các cựu chiến binh đại đội charlie
tham gia vụ thảm sát Sơn Mỹ, trong đó có Kenneth Schiel, William
Calley các người đâu nhìn thấy bao con người, bao mảnh đời
mà các người cần phải giúp họ, phải đền bù cho họ
trước các lời xin lỗi, vì họ đang mang trọng bịnh, căn
bịnh của sự hệ lụy tàn nhẫn, nếu không cứu, hoặc không
kịp cứu thì họ sẽ không còn nghe được bao lời xin lỗi
của các cựu chiến binh kế tiếp mà sáng 16.3.1968 đã xã súng
bắn chết người thân của họ, đốt cháy nhà cửa làng mạc,
huỷ diệt cuộc đời và quê hương thân yêu của họ.
Germany-Remscheid 2009.
Trần Văn Đức
Email:DUCTRANVAN@t-online.de
_________________________
Bị chú: Sự việc từ năm 1959 đến 1966 Đức nghe Ngoại và
các Dì kể lại.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4360), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét