Tọa đàm giữa ông Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (1)

(Ngày 22/11/2008)

<strong>Ông Phạm Ngọc Quang:</strong> <em>Tôi xin giới thiệu anh
Nguyễn Trần Bạt, Tổng giám đốc Công ty Tư vấn Đầu tư và
Chuyển giao công nghệ. Hiện nay, công ty anh Bạt có khoảng 300
nhân viên làm việc ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Cần
Thơ. Công ty đã làm việc với rất nhiều dự án nước ngoài
như Coca-Cola, IBM… Anh Bạt đã từng tiếp hàng nghìn người
nước ngoài và là một người am hiểu nhiều vấn đề. Anh
Bạt cũng đã đi rất nhiều nước, đến nhiều trường đại
học danh tiếng trên thế giới thuyết trình và đã từng gặp
gỡ, trao đổi với Tiến sĩ Henry Kissinger.</em>

<em>Tôi cũng xin giới thiệu với anh Bạt về thành phần đoàn
của chúng tôi gồm:</em>

<em>- Tiến sĩ Nguyễn Viết Thông, Tổng thư ký Hội đồng Lý
luận Trung ương.</em>

<em>- Phó giáo sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng, Nguyên Chánh văn
phòng Hội đồng Lý luận Trung ương.</em>

<em>- Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Quang, Thường trực chuyên
trách Hội đồng khoa học, Học viện Chính trị-Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.</em>

<em>- Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoà, Vụ trưởng, Ban Tuyên giáo Trung
ương.</em>

<em>- Thạc sĩ Lê Đức Thắng, nguyên Vụ trưởng Vụ Tổng
hợp, Văn phòng Trung ương.</em>

<em>- Cử nhân Hoàng Thị Minh Ngọc.</em>

<em>Trong buổi làm việc hôm nay, chúng tôi đề nghị anh Bạt
trao đổi về 2 vấn đề nhưng thực ra chỉ là một, đó là
vấn đề dân chủ, đồng thuận, đoàn kết đối với doanh
nhân và trí thức, bởi vì doanh nhân là một đặc thù trí
thức. Làm thế nào để phát huy dân chủ, đoàn kết, đồng
thuận xã hội đối với đội ngũ doanh nhân, làm thế nào sử
dụng tốt đội ngũ doanh nhân để giải phóng khả năng phát
triển và sáng tạo của họ, và trọng dụng doanh nhân như thế
nào là hợp lý để phát huy sức mạnh của doanh nhân.</em>

<strong>Ông Nguyễn Trần Bạt:</strong> Thực ra, tôi không có bất
kỳ một bài thuyết trình nào cụ thể về vấn đề này, nhưng
tôi đã nghiên cứu gần như tất cả những vấn đề có liên
quan đến khả năng sáng tạo và cảm hứng của sự sáng tạo
trong đời sống nói chung. Tôi chưa nói đến đời sống trí
thức vì tôi không đồng ý với khái niệm gọi là tầng lớp
trí thức, tôi cho rằng trí thức có mặt trong mọi hoạt
động, mọi hành vi hàng ngày của con người. Trước đây, khi
anh Trần Hoàn còn là Phó ban Văn hoá Tư tưởng Trung ương, trong
một buổi giao lưu với các nhà báo có sự tham gia của anh ấy,
tôi có nói rằng, tôi không tin có nhà chính trị, có người
trí thức, có nghệ sỹ, có nhà báo… mà đấy chỉ là những
trạng thái khái nhau, quán xuyến những giai đoạn khác nhau trong
đời sống của con người. Khi đặt bút viết quyển sách
<em>Cội nguồn cảm hứng</em> vừa xuất bản, tôi có giải
thích hầu hết những vấn đề liên quan đến đời sống tinh
thần của con người. Trong quyển sách này, tôi phân chia Tự do
ra làm hai không gian. Tự do có tính chất điều kiện, tức là
nó liên quan đến việc xây dựng thể chế, tôi gọi là tự do
bên ngoài, tự do khách quan. Còn không gian tự do bên trong chính
là không gian tinh thần của con người, nó phải có những yếu
tố tự do riêng. Và tự do nói chung được định nghĩa là: Sự
dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi. Ở chỗ nào ý
nghĩ được biến thành hành động một cách tự nhiên thì ở
đấy có tự do.

Trong buổi toạ đàm hôm nay với các anh, những nhà lý luận
của Đảng, tôi không nói về tự do bên trong mà tôi muốn nói
về tự do bên ngoài, tức là các điều kiện vĩ mô của đời
sống con người. Nó liên quan đến rất nhiều yếu tố, trong
đó, có lẽ yếu tố chính trị là số một. Các nhà tiền bối
của chúng ta nói rằng Chính trị là thống soái thì rất nhiều
người hiểu thống soái là chỉ huy, nhưng tôi nghĩ rằng, chính
trị chỉ chỉ huy ở một số điều kiện, cho nên, phải nói
là chính trị hướng dẫn mới đúng. Nếu những yếu tố chính
trị không tích cực thì rất khó để con người có điều
kiện sáng tạo và phát triển.

Vấn đề thứ hai mà tôi muốn trao đổi với các anh là Quyền
lực. Quyền lực tác động một cách khủng khiếp đến khả
năng phát triển của con người. Quyền lực là nguồn gốc tạo
ra nỗi sợ, và sự sợ hãi là yếu tố trực tiếp ngăn cản
toàn bộ cảm hứng phát triển. Người ta hay nói đến sự sợ
hãi gắn liền với cách mạng, chiến tranh, chết chóc… những
tôi là một người lính đã từng ra trận, đã từng đối mặt
với cái chết, tôi hầu như chưa thấy các biểu hiện sợ
chết nào đó của người lính. Ở đấy người ta sẵn sàng
rủ nhau hy sinh một cách rất tập thể. Tôi đã từng sống
trong môi trường có hàng chục ngàn nữ thanh niên xung phong. Lúc
bấy giờ cuộc sống khổ lắm, ngay cả cái quần lót, áo lót
cũng thiếu, rồi bệnh ngoài da, bệnh sốt rét hành hạ nữa…
Với tư cách là một anh trí thức ra trận, tôi quan sát họ
nhưng tôi không nhìn thấy ở họ sự sợ chết, sợ khổ, sợ
cô đơn cũng không. Còn bây giờ, nói chuyện với nhiều nhà
cách mạng đã về hưu, những người ở tuổi 80 trở lên, tôi
thấy trong họ bắt đầu tiềm ẩn những nỗi sợ. Vậy cái gì
tạo ra nỗi sợ của những người cực kỳ dũng cảm như vậy
ở giai đoạn hiện nay? Tôi cho rằng, đó là dấu hiệu của
những tác động quyền lực.

Vấn đề thứ ba mà tôi muốn trao đổi là trí lực, trí tuệ.
Ở vấn đề này, tôi muốn dẫn đến việc phân tích toàn bộ
tiến trình phát triển của thế giới hiện nay, nhất là phân
tích hiện tượng khủng hoảng kinh tế thế giới. Tôi có trao
đổi vấn đề này với anh em Vietnamnet, sau đó họ đăng bài
của tôi phân tích về hiện tượng Obama. Thực ra tôi lấy
hiện tượng ấy để phân tích những quan điểm của tôi về
khủng hoảng kinh tế thế giới. Khi khủng hoảng kinh tế thế
giới xảy ra, có rất nhiều quan điểm khác nhau phân tích hiện
tượng này. Có người nói rằng, bây giờ chủ nghĩa tư bản
sụp đổ rồi, chủ nghĩa xã hội đang quay lại và nước Mỹ
sẽ là nước xã hội chủ nghĩa. Tôi đọc tất cả những bài
phân tích như vậy và tôi thấy một nguy cơ có thể xảy ra là
chúng ta sẽ xét lại toàn bộ quá trình Đổi nới và xây dựng
nền kinh tế thị trường. Vì thế, tôi cho rằng cần phải
phân tích toàn bộ hiện tượng Obama , phân tích toàn bộ hiện
tượng kinh tế thế giới để nói đến một vấn đề mà hôm
nay tôi nói với các anh là: sự sụp đổ của nền kinh tế
thế giới hiện nay chính là kết quả của sự phát triển một
cách đột biến của kinh tế tri thức, và nó vượt ra ngoài
năng lực hiểu biết, năng lực quản lý của tất cả các
chính phủ. Các anh biết rằng với khối lượng 500.000 tỷ đô
la thì nó nằm bên ngoài năng lực kiểm soát của tất cả các
chính phủ. Và chính những yếu tố như thế tạo ra sự khủng
hoảng đến mức một người như Greenspan khi đến điều trần
tại Quốc hội Hoa Kỳ ngớ người ra và ông ấy phải nói câu
kết thúc rằng: "<em>Ngay cả khi đã phân tích như thế này
rồi, tôi vẫn không hiểu tại sao lại khủng hoảng</em>".
Chúng ta đã nhìn vấn đề kinh tế tri thức một cách cực kỳ
đơn giản. Khi đọc những bài viết của một số giáo sư ca
ngợi nền kinh tế tri thức, tôi thấy nổi da gà, vì tôi biết
rất rõ rằng nền kinh tế tri thức có thể mang lại những tai
hoạ khủng khiếp như thế nào, tôi biết rất rõ rằng cái
rủi ro thật sự của tất cả các chính phủ nằm ở đâu. Cái
cảm hứng sáng tạo, nhất là trong khu vực doanh nhân, là một
khái niệm hoàn toàn không lãng mạn, nó vừa là động lực
của sự phát triển, vừa là nguy cơ của sự phát triển, bởi
vì sự phát triển thái quá cũng là một nguy cơ. Trong cuốn
sách Cội nguồn cảm hứng, tôi gọi hiện tượng thái quá là
sự lộng hành của các khái niệm, của các mặt khác nhau của
đời sống như vậy tạo ra những nguy cơ hết sức nghiêm
trọng đối với tất cả các nhà cầm quyền. Mọi nhà cầm
quyền đều rơi vào trạng thái bất ngờ trước sự phát
triển có chất lượng đột biến của kinh tế tri thức. Nghe
các quan chức nói trên ti vi, đài, báo đón quỹ này, đón quỹ
kia, nhiều khi tôi thấy lo. Tôi là người khá có kinh nghiệm
trong lĩnh vực này, tôi không nói là hiểu biết vì hiểu biết
của người Việt chúng ta về vấn đề này còn ít lắm,
người tiên tiến nhất trong xã hội này cũng còn xa lắm mới
đạt đến trạng thái làm chủ được loại hình hoạt động
của nền kinh tế hiện đại. Tôi đã có 7 năm va chạm, nghe
thấy, trông thấy khi tham gia một quỹ đầu tư vào toàn bộ
lưu vực sông Mê kông. Tôi nhìn thấy sự tiềm ẩn của các
nguy cơ của toàn cầu hoá, nhưng không có diễn đàn để nói.
Hôm nay, phải nói rằng rất cám ơn các anh đã hỏi để tôi
có cơ hội nói những vấn đề như thế với các anh. Đặt ra
vấn đề đoàn kết và đồng thuận trong xã hội, nhất là
đối với giới doanh nhân và đặt ở tinh thần như thế này
thì phải nói rằng, như vậy là chúng ta quá trong sáng. Đây là
một lực lượng có tính chất gây nổ đối với mọi xã hội,
không phải là lực lượng cần động viên, nhất là doanh nhân.
Họ không sống bằng sự động viên của các nhà lý luận,
của đảng và nhà nước. Âm thầm trong họ có ẩn chứa nhiều
nhân tố. Những nhân tố ấy xét về mặt tích cực là động
lực của sự phát triển của mọi nền kinh tế, nhưng nó cũng
đồng thời tiềm ẩn những yếu tố gây sụp đổ của mọi
nền kinh tế.

Trong thế kỷ của chúng ta, kinh tế đã trở thành hoạt động
xã hội chủ yếu, trở thành ngôn ngữ đối thoại không chỉ
của doanh nhân, mà còn của mọi nhà chính trị. Các anh thấy
rằng, khoảng 20 năm nay, có đến 70-80% giải Nobel về kinh tế
được trao cho các nghiên cứu ngoài kinh tế, những nghiên cứu
về sự bất đối xứng của thông tin, những nghiên cứu về
tâm lý. Chỉ có giải Nobel kinh tế năm ngoái là được trao cho
các nhà kinh tế. Có nghĩa là kinh tế đã trở thành một đối
tượng của khoa học chính trị, hay nói cách khác, từ thời
Marx đến bây giờ, nó quay lại một chu kỳ là người ta phải
nghiên cứu các hiện tượng kinh tế với tư cách là kinh tế
chính trị học chứ không phải kinh tế học thuần tuý nữa.
Mọi lý thuyết kinh tế đều có giá trị sử dụng trong những
giai đoạn nhất định. Ví dụ, giai đoạn vừa rồi là giai
đoạn của lý thuyết "Tân tự do" mà đại diện là các nhà
kinh tế Áo. Từ khoảng đầu những năm 80 cho đến năm 1995,
theo đánh giá của tôi, nó đóng vai trò cực kỳ tích cực. M.
Thatcher và R. Reagan là hai nhà chính trị biết khích lệ, biết
sử dụng trường phái "Tân Tự do" ấy để tạo ra sự phát
triển vượt bậc của kinh tế thế giới và lôi kéo tất cả
các quốc gia, kể cả Việt Nam. Ở Việt Nam chúng ta nói rằng
nền kinh tế của chúng ta có định hướng này, định hướng
kia nhưng trên thực tế, tiềm ẩn trong xã hội là nền kinh tế
phát triển với bản chất của một nền kinh tế "Tân Tự
do". Các nhà chính trị chưa biến nó thành một khuynh hướng
"Tân Tự do", nhà nước hay Đảng chưa biến nó thành một
khuynh hướng "Tân Tự do", nhưng toàn cầu hoá đã làm cho
khuynh hướng "Tân Tự do" trở thành động lực, trở thành
phong cách của nền kinh tế Việt Nam trong 20 năm vừa rồi, và
đỉnh cao của nó là thị trường chứng khoán. Tôi có nghe nói
nhóm tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ đã tổng kết về ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với Việt Nam
là đến chậm, ở lâu, phá lớn và tạo ra cơ hội. Tôi không
cho là như vậy. Sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới
đến Châu Á rất sớm, nhất là đối với Việt Nam và Trung
Quốc, nhưng hệ thống truyền thông của chúng ta không đủ kinh
nghiệm để phản ánh nó. Chúng tôi theo dõi tất cả các mạng
quốc tế về tất cả các hiện tượng nên chúng tôi biết
rằng nó đến rất sớm. Tôi đã từng nói với anh em đại
diện hãng Down Jones ở Hà Nội về sự sụp đổ của thị
trường chứng khoán Việt Nam khi chỉ số VN Index là gần 1200.
Tôi nhìn thấy chuyện ấy, tôi viết bài cảnh báo, nhưng không
thấy ai có phản ứng gì cả. Khủng hoảng kinh tế thế giới
đến Việt Nam rất sớm và nó cũng không ở lâu, bởi vì năng
lực chịu đựng của Việt Nam là rất mỏng. Chúng ta chỉ đủ
năng lượng để chịu đựng một pha chứ không đủ năng
lượng để chịu đựng lâu dài. Phá lớn thì tôi cũng không
cho là đúng vì chúng ta không có đủ năng lực, không có đủ
chiều dày tích luỹ lớn để tạo ra một vụ nổ lớn. Tôi có
viết một bài trên báo Lao động về <em>Con ngựa và Cỗ xe kinh
tế Việt Nam</em>, trong đó tôi nói rằng, Việt Nam không có
hiện tượng sụp đổ hoặc hiện tượng khủng hoảng dữ dội
về kinh tế, nhưng Việt Nam rơi vào cái bẫy của sự phát
triển vị thành niên mãn tính. Tám tháng sau đó, trường
Princeton, Hoa Kỳ mở một cuộc Hội thảo về Việt Nam, có anh
Lê Đăng Doanh và một số người đi. Tôi có nghe nói rằng,
kết luận của Hội thảo đó là: nền kinh tế Việt Nam vẫn
có những mặt hấp dẫn, đặc biệt là hấp dẫn đầu tư
nước ngoài nhưng nó rơi vào cái bẫy của sự phát triển
yếu, ở mức trung bình thấp. Như vậy khủng hoảng kinh tế
thế giới sẽ không thể phá lớn ở Việt Nam , còn tạo ra cơ
hội thì cũng không hơn gì khi nó không khủng hoảng.

Khi phân tích khủng hoảng kinh tế thế giới, tôi thấy rằng
bản chất của sự phát triển kinh tế ở thế kỷ XXI là phát
triển kinh tế tri thức. Nhưng kinh tế tri thức không phải là
những sản phẩm đẹp đẽ, lành mạnh được diễn đạt
dưới dạng ngôn ngữ hàn lâm đơn giản mà kinh tế tri thức
là những cách thức để thoát khỏi sự kiểm soát, sự điều
khiển của mọi nhà cầm quyền. Đấy là yếu tố tiêu cực
số một của kinh tế tri thức. Vì đóng thuế luôn là vấn
đề đối với mọi nhà kinh doanh, cho nên, chỗ nào tự do về
thuế là người ta đến đấy lập công ty. Tôi đã đến hai
hòn đảo ở giữa Đại Tây Dương, biển Manche, có tên là
Guernsey và Jersey. Đấy là hai hòn đảo mà trong hiệp ước
Postdam người ta quên mất không chia cho ai cả, cho nên nó giống
như Liechtenstein hoặc Luxembourg, trở thành một định chế không
được phân chia, nó rất kỳ lạ là có đồng tiền riêng, hộ
chiếu là của Anh, nhưng vào đó thì phải có visa. Ở đấy có
hàng chục nghìn công ty được thành lập, mỗi công ty chiếm
diện tích rất nhỏ, giống như nghĩa trang ở Đài Loan, tức là
người ta đính tên công ty lên trên tường và một cô thư ký
ở đấy trực điện thoại cho 50-70 công ty. Như vây, yếu tố
tiêu cực thứ nhất của nền kinh tế tri thức trong thế kỷ
này chính là sự phát triển tri thức trong việc né tránh sự
kiểm soát của tất cả các nhà cầm quyền. Thứ hai là các
sản phẩm tài chính của nó quyến rũ con người bất chấp
khả năng hiểu biết của họ. Và người Mỹ là những người
đầu tiên bị lừa trong chuyện này. Sự sụp đổ hay khủng
hoảng của nền kinh tế Hoa Kỳ là do sự mất cân đối của
việc "Vay" và "Tiêu". Trong bài phân tích về hiện tượng
Obama, tôi có nói là nền kinh tế tri thức thể hiện ở các
sản phẩm thông minh, nhưng với các dân tộc đông dân, không
có cách gì để tất cả mọi người đều tham gia vào việc
sản xuất ra các sản phẩm thông minh như vậy. Cho nên, nhiệm
vụ của các nhà cầm quyền là hoạch định nền kinh tế như
thế nào đó để không ngăn cản mặt tích cực của kinh tế
tri thức, nhưng cũng không làm mất đi cái gốc căn bản của
nền kinh tế truyền thống mà những con người thông thường,
những bộ phận thông thường của nhà nước, của chính phủ
có thể kiểm soát được.

Khi tôi đến Mỹ lần đầu tiên, năm đó Tổng thống Clinton
vừa mới nhận chức, sáng vừa mở mắt ra tôi bật ti vi và
nghe thấy ông ấy nói rằng: "<em>Hôm nay nước Mỹ có một tin
vui và có một tin buồn, tin vui là đêm qua tôi vừa ký xong
Hiệp ước NAFTA, còn một tin buồn là sáng nay chúng ta đã
phải xử trắng án cho cầu thủ bóng bầu dục Simpson, tôi xem
đấy là sự thất bại thảm hại của nền tư pháp Hoa
Kỳ</em>". Qua những chuyện như vậy tôi muốn nói với các anh
rằng, chính loài người đã nghĩ ra những mẹo, những công
nghệ để xã hội hoá cả những thành tựu có chất lượng
khoa học và cả những thành tựu có chất lượng tội phạm.
Mà chúng ta thì chỉ để ý đến khía cạnh tích cực của nó
và quên mất là chúng ta không đủ khả năng để đối phó
với những khía cạnh tiêu cực của nó. Ví dụ, tôi đã cảnh
báo từ lâu lắm rồi về sự xâm phạm các quyền sở hữu trí
tuệ. Sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là một trong những
biện pháp để tàn sát cảm hứng sáng tạo. Chúng ta không thể
nói khích lệ cảm hứng sáng tạo là khích lệ chính trị đơn
thuần được. Chúng ta cần phải xây dựng cảm hứng sáng tạo
cho người lao động, cho người dân trong cả nước, mà xây
dựng cảm hứng sáng tạo về bản chất chính là xây dựng
tính chuyên nghiệp của các thể chế để nó phù hợp với sự
dâng lên của đời sống trí tuệ loài người chứ không chỉ
có nhân dân mình, bởi vì chúng ta đang sống trong thời đại
toàn cầu hoá. Trong quá trình va chạm, từ lâu tôi đã nhận
thấy rất nhiều dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế tri
thức. Từ 10 năm trước, ở công ty của tôi, chúng tôi đã
nhận được rất nhiều thư đề nghị là nếu mở một tài
khoản ở Nigeria, ở chỗ này, ở chỗ kia thì ông sẽ nhận
được bao nhiêu phần trăm. Không ai trên thế giới này nói
chuyện mấy trăm triệu đơn giản cả, ở chúng ta nói chuyện
mấy chục tỷ cứ như chuyện chơi. Tôi đã từng viết bài
cảnh báo rằng, bất động sản không phải là một loại dự
án đầu tư nước ngoài, vì 80-90% vốn là huy động từ thị
trường nội địa và nói cho cùng, bất động sản là những
quả mìn gài sẵn để tạo ra sự bùng nổ nếu không may cho
nền kinh tế Việt Nam. Khi tỷ lệ đầu tư nước ngoài lên
đến 57%, có nhiều người đến hỏi tôi về hiện tượng này,
tôi nói rằng: tôi không thích đưa ra những dự báo tiêu cực,
nhưng tôi run sợ trước thông tin này. Đấy là những dấu
hiệu của cái gọi là nền kinh tế tri thức, nó có cả hai
mặt, nếu chúng ta để ý đến những mặt tiêu cực của nó
quá thì kìm hãm sự xâm nhập của những yếu tố tích cực,
nhưng nếu không cảnh giác thì chúng ta sẽ chỉ đón nhận toàn
cái tiêu cực.

Vậy thì việc quan niệm sai có những tác hại gì? Thứ nhất
là chúng ta không chuẩn bị một chính phủ đầy đủ trí tuệ
để điều hành một nền kinh tế phức tạp như vậy. Cho nên,
khi quan sát các Bộ trưởng trả lời chất vấn của Quốc
hội, tôi nghĩ tại sao người ta lại không tắt truyền hình
trực tiếp đi. Các anh không nghĩ rằng như vậy là thông báo
sự non kém của nội các với toàn thế giới để rủ tất cả
những tên lừa đảo đến. Những biểu hiện như vậy là rất
nguy hiểm, và có thể nói đấy là sự mất cảnh giác. Vì
vậy, việc thứ nhất có lẽ là chúng ta phải chuẩn bị một
chính phủ đầy đủ sự thông thái. Ví dụ, có những đồng
chí lãnh đạo nói rằng, sao mọi người cứ chỉ trích tôi là
không chịu đối thoại với trí thức, hàng ngày tôi tiếp xúc
với rất nhiều tiến sĩ, các thạc sĩ. Nhưng họ quên mất
rằng, tiến sĩ hay thạc sĩ không phải là trí thức, cái cuối
cùng người trí thức mang lại cho xã hội là thông tin, là sự
phát hiện những khía cạnh mà xã hội không nhận ra bộ mặt
thật của nó chứ không phải danh vị của họ.

Nói tóm lại, xây dựng một hệ thống chính trị, một chính
phủ thông thái là việc số một phải làm. Nhưng mà nền kinh
tế thì không phát triển bằng chính phủ. Động lực cơ bản
của nền kinh tế chính là sự sáng tạo của người dân, nhưng
không phải trong khu vực nhà nước. Khu vực nhà nước chỉ là
một công cụ có chất lượng kinh tế để thể hiện một
khuynh hướng chính trị. Ở Việt Nam, để tạo ra một đơn vị
phát triển của một công ty tư nhân mất một đồng thì với
công ty nhà nước sẽ mất 8 đồng, tức là gấp 8 lần chi phí.
Nếu mà làm kinh tế bằng các công ty nhà nước thì không thể
phát triển kinh tế được, nhưng nếu không có nó thì các nhà
lãnh đạo, các nhà cầm quyền không đủ tự tin để đối
thoại với xã hội, cho nên, nó cần như một khoản thế chấp
chính trị chứ không phải là một công cụ kinh tế. Đấy là
quan điểm của tôi. Khu vực dân doanh theo thuật ngữ của ta hay
khu vực tư nhân theo thuật ngữ phổ biến là động lực cơ
bản của nền kinh tế, nó tạo ra công ăn việc làm, tạo ra
sức mua của xã hội. Quy luật về cầu là quy luật số một
của tất cả mọi trường phái kinh tế học, vì thế người ta
mới phải kích cầu. Khu vực tư nhân là khu vực tạo ra năng
lực tiêu dùng, cho nên muốn có năng lực tiêu dùng, muốn kích
cầu thì phải thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân.
Trong một lần thảo luận trên Đài truyền hình, tôi có nói
rằng, kinh doanh đòi hỏi một phẩm chất, đó là lòng dũng
cảm dân sự. Bởi vì, con người ở đâu cũng vậy, về cơ
bản là lười biếng và nhát, sợ mất mạng, sợ mất tiền,
sợ mất sự yên ổn. Cho nên, kinh doanh đòi hỏi phải có lòng
dũng cảm dân sự. Nhiều người không dám phá vỡ sự yên tĩnh
bình thường để làm nhà kinh doanh, cho nên gen kinh doanh là gen
hiếm, đòi hỏi phải dũng cảm, đòi hỏi chất lượng chiến
sỹ ở trong đấy. Vậy những người như vậy cần gì? Trong
quyển sách Cội nguồn cảm hứng tôi đã phân tích rất rõ,
đó là tự do. Và tới những nước càng chậm phát triển thì
nhân dân càng cần bổ sung lượng tự do lớn hơn, thậm chí
lớn hơn cả phương Tây. Nếu chúng ta có lượng tự do lớn
hơn phương Tây thì nhân dân chúng ta mới có khả năng bứt phá
khoảng cách mà trong những thế kỷ trước chúng ta đã bỏ
lỡ, chúng ta chưa làm được. Theo quan điểm của tôi, trong
lịch sử nước Việt Nam chưa có một thời đại nào có đủ
điều kiện để làm tốt việc ấy bằng giai đoạn hiện nay,
giai đoạn có một đảng chính trị đã có thành tích cầm
quyền. Bởi vì, để tạo ra tự do xã hội là việc rất khó.
Ở những nước không nhất nguyên, không đơn nguyên như thế
này, để thương lượng được khế ước nội dung của tự do
là việc rất khó. Nhưng khi anh chỉ có một tổ chức cầm
quyền thôi thì anh có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong
việc định ra những giới hạn khác nhau của tự do trong toàn
bộ tiến trình phát triển của khái niệm này.

Như vậy, trước hết chúng ta phải có một chính phủ, một
hệ thống chính trị, có một xã hội dân sự tương đối ổn
định và có một độ tự do phù hợp với năng lực quản lý
của nhà cầm quyền. Tôi không phải là người xem tự do là
một đại lượng lãng mạn. Trong quyển sách Cội nguồn cảm
hứng, tôi nói rằng tự do là một thứ ăn được, bản chất
của tự do là tạo ra những giới hạn để con người phát
triển phù hợp với năng lực của nó và năng lực của nhà
quản lý. Và khế ước tự do của mỗi một giai đoạn phát
triển luôn luôn là khế ước thể hiện sự thoả thuận. Cho
nên, khi phân tích khái niệm đồng thuận, tôi nói rằng đồng
thuận là kết quả tự nhiên của thoả thuận. Đồng thuận
không phải là tôi đồng ý với anh, tất cả mọi người
đồng ý với anh mà chúng ta đồng ý với nhau. Đấy mới là
đồng thuận. Nếu chúng ta xây dựng một phong trào chính trị
để tìm kiếm sự đồng ý với Đảng thì sẽ rất khó và là
ảo tưởng. Nhưng nếu chúng ta tạo ra một cơ cấu xã hội
để mọi người đồng thuận với nhau và mọi người có thể
đồng thuận với sự hướng dẫn chính trị trong từng việc,
trong từng nhiệm vụ, trong từng giai đoạn thì đấy mới chính
là một cách thức tiếp cận hợp lý đến khái niệm này. Khi
các anh đặt ra vấn đề kết hợp doanh nhân và trí thức với
nhau thì tôi cho rằng cần phải nói về nền kinh tế tri thức,
và đấy là một vấn đề cần cảnh báo. Nếu chúng ta nghiên
cứu và viết ra được những điều ấy một cách công khai thì
Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia tiên tiến trong trào lưu
nghiên cứu về nguy cơ này của thế giới. Tôi có thể khẳng
định rằng, thế giới chưa vạch ra mâu thuẫn giữa năng lực
quản lý của các chính phủ với sự phát triển có tính chất
vô chính phủ của nền kinh tế tri thức. Đây sẽ là một phát
hiện của người Việt mà tôi thì không có đủ thời gian,
không có đủ lực lượng, nên tôi muốn gợi ý các anh một
vài khái niệm, với một bộ máy khổng lồ của Đảng thì các
anh nên nghiên cứu. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ đóng góp cho
thế giới chứ không phải chỉ đóng góp cho Đảng. Đấy là
một mâu thuẫn cơ bản của thế kỷ này. Thế kỷ XXI không
phải là thế kỷ của đấu tranh giai cấp, không phải là thế
kỷ của chiến tranh lạnh Đông – Tây, không phải là thế kỷ
của sự va chạm của các nền văn minh như Huntington nói. Thế
kỷ XXI này là thế kỷ của sự đấu tranh giữa các chính phủ
với những mặt không chính đáng của các nền kinh tế hay là
những yếu tố lộng hành của nền kinh tế tri thức. Vấn đề
các anh đặt ra, tôi tạm mở đầu như vậy để các anh chất
vấn tôi.

(còn tiếp)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4564), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét