phong kiến Việt Nam đang lún sâu vào con đường khủng hoảng
suy vong trầm trọng. Chính sách khắc nghiệt và sai lầm của
triều Nguyễn về kinh tế - tài chính đã làm cho nông nghiệp
trong nước ngày càng tiêu điều, xơ xác.</em>
<div class="boxright300"><img
src="Chttp://bee.net.vn/dataimages/201001/original/images257978_tr.jpg"
/><div class="textholder">GS Đinh Xuân Lâm</div></div>
Nông nghiệp sa sút, kéo theo luôn sự suy thoái rõ rệt của các
ngành nghề thủ công truyền thống trong nhân dân. Còn công
nghiệp cũng ngày càng lụi tàn vì các quy định ngặt nghèo như
các chế độ công tượng mang tính chất cưỡng bức lao động,
đánh thuế sản vật rất nặng mang tính chất nô dịch…
Thương nghiệp trong nước và với nước ngoài sút kém rõ rệt,
riêng thuế cửa quan trước có 60 sở thu thì đến năm 1851 chỉ
còn 21 sở. Một số cửa cảng trước kia buôn bán phồn thịnh,
nay trở nên vắng vẻ. Trên cơ sở một nền kinh tế sa sút về
các mặt như vậy, tài chính quốc gia ngày càng thêm kiệt quệ.
Trong hoàn cảnh đó, mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị với
nhân dân cả nước - chủ yếu là nông dân - đã trở nên vô
cùng gay gắt và đã được bộc lộ rõ một cách kịch liệt
bằng hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân xuyên suốt các
đời vua nhà Nguyễn, kể từ đời vua đầu tiên Gia Long đến
vua Tự Đức là ông vua được chứng kiến sự xâm lược của
tư bản Pháp.
Để bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn đã
dồn mọi lực lượng quân sự trong tay vào việc bóp chết các
cuộc khởi nghĩa nông dân.
Chính trong quá trình tiến hành "tiễu phỉ" quyết liệt đó,
mà lực lượng quân sự của triều đình suy yếu dần, đồng
thời cũng hủy hoại mất khả năng kháng chiến to lớn trong
nhân dân, và như vậy đã tạo điều kiện cho tư bản Pháp
để thôn tính nước ta. Đó là chưa nói tới chính sách sai
lầm của triều Nguyễn về đối ngoại.
Một mặt ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với
các nước láng giềng đang cùng chung số phận bị chủ nghĩa
tư bản Pháp uy hiếp, làm cho quân lực bị tổn thất, tài
chính quốc gia và tài lực nhân dân ngày thêm khánh kiệt;
<em><strong>mặt khác đối với tư bản phương Tây đang gõ cửa
đòi vào thì một mực bế quan tỏa cảng, tưởng rằng đó là
phương sách hay nhất để tự cứu</strong></em>. Bên ngoài kẻ
thù ráo riết dòm ngó trong khi bên trong lại rối loạn và suy
yếu, hoàn cảnh đó chỉ có lợi cho kẻ thù.
Nguy cơ mất nước vào tay bè lũ thực dân Pháp ngày càng rõ,
tình hình đó làm cho những người yêu nước và thức thời
không thể có thái độ bàng quan, lạnh nhạt.
Ngay cả một số quan lại triều đình - nhất là một số
người có dịp đi ra nước ngoài công cán nên thấy rõ sức
mạnh của văn minh thế giới - cũng phải lên tiếng, đề đạt
với triều đình một số công việc cáp bách cần làm để
nước giầu, dân mạnh thì mới có khả năng bảo vệ độc
lập dân tộc.
Phạm Phú Thứ trong phái đoàn ngoại giao của triều đình sang
Pháp hồi đầu năm 1863 (II) đã ghi chép những điều mắt thấy
tai nghe trên đường đi và tại xứ người, khi về nước đã
cho khắc in năm bộ sách giới thiệu nền văn minh của thế
giới phương Tây.
Những bộ sách đó là:
• Bác vật tân biên (nói về khoa học);
• Khai môi yếu pháp (nói về khai mỏ);
• Hàng hải kim châm (nói về cách đi biển);
• Tùng chánh di qui (kinh nghiệm đi làm quan);
• Vạn quốc công pháp (giao thiệp quốc tế)
Tháng 5 năm 1863, Biện lý bộ Hình Trần Đình Túc tâu xin mộ
dân khai khẩn ruộng đất hoang ở hai tỉnh Thừa Thiên và
Quảng Trị; đến tháng 3 năm sau (1864), ông lại xin cho mộ dân,
lập xã, lập ấp để rồi nhận phần khai khẩn ruộng hoang
tại xã Lương Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Ngành
khai mỏ cũng được đặc biệt chú ý.
Tháng 3/1867, cũng Trần Đình Túc xin khai mỏ sắt ở xã Lưu
Biểu, thuộc huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Sau đó, hoạt
động khai mỏ được đẩy mạnh ở nhiều địa phương, có
lúc do chính triều đình chủ động quyết định.
Như tháng 3 năm 1868, ra lệnh cho các tỉnh khai thác than đá ở
hai xã Sa Lung và Phú Xuân thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái
Nguyên; tháng 4 năm đó, đào lấy than đá ở núi Tân Sơn, tỉnh
Quảng Yên.
Tháng 6/1868, vua Tự Đức chỉ thị cho tỉnh Khánh Hoà đào lấy
than đá ở núi Điện Cơ; tháng 7 năm đó khai mỏ sắt Phổ Lý
ở tỉnh Thái Nguyên, mỏ than ở núi Hoàn Ngọc tỉnh Quảng Yên
v.v…).
Chỉ có thế thấy được ý nghĩa quan trọng của các hoạt
động dồn dập trên khi liên hệ tới tình hình bi đát của
ngành khai thác mỏ lúc đó, đến đầu đời Tự Đức, nhiều
mỏ đã đình lại không khai thác.
Thương nghiệp cũng có những đổi mới đáng kể... Biện lý
bộ Hộ là Đặng Huy Trứ năm 1865 được phái sang Hương Cảng
công tác lúc về đã xin đặt ty Bình chuẩn sứ để thu mua
hàng hoá cất vào kho, chờ khi giá cả lên cao thì đưa ra bán
rẻ cho dân để giữ giá cả thăng bằng, ngăn ngừa con buôn
đầu cơ trục lợi (5/1866).
Căn cứ vào lời tâu của Đặng Huy Trứ tuy vẫn cho rằng
"<em>việc buôn bán là nghề mạt, nhưng lại khẳng định là
ích nước lợi dân, là việc lớn của triều đình</em>", cũng
thấy sự thay đổi về tư duy trong hoạt động kinh tế lúc
bấy giờ của vua quan triều Nguyễn. Đặc biệt là có hàng
loạt đề nghị mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài,
một việc làm hoàn toàn đối lập với chính sách "bế quan
toả cảng" truyền thống của chế độ phong kiến tập
quyền.
Tháng 9/1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế đi giao hiếu với
nước Anh từ Hương Cảng về đã tâu xin vua Tự Đức mở cửa
biển Trà Lý (Nam Định), nhấn mạnh tới yêu cầu "<em>mở
thương điểm thông thương với bên ngoài, chiêu tập nhân dân
trong thiên hạ, tụ hội hàng ngoài thiên hạ để tính cách
lợi ích lâu dài sau này</em>".
Đến tháng 1/1873, lúc này toàn Nam Kỳ đã bị tư bản Pháp
nuốt gọn từ 6 năm về trước - các quan ở Nha Thương Bạc
cũng xin mở 3 cửa biển để thông thương (như tụ dân ở bở
biển thì tăng cường lực lượng phòng thủ đất nước; tập
trung các nơi buôn bán gần biển thì liên lạc và tiếp ứng
với nhau dễ, có khả năng ngăn ngừa giặc biển, đội thuỷ
quân chiến thuyền của vùng biển có thể bảo vệ đội
thuyền vận tải khi có giặc biển; tích tụ của cải trong
dân, bố trí binh lính ngay trong những người làm nghề buôn bán
để sẵn sàng đối phó khi có giặc; đẩy mạnh buôn bán với
nhau sẽ làm cho tin tưởng lẫn nhau, qua đó thông hiểu được
tình hình nước ngoài.
Về khoa học giáo dục, cũng đã có những nhận thức mới. Vua
Tự Đức ra lệnh chọn 8 người có sức khoẻ, thông minh, siêng
năng đi học nghề chế tạo đầu máy chạy biển.
Tháng 7/1867, nhà vua chỉ thị cho Viện Cơ Mật dịch các sách
khoa học kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán để tiện phổ biến
trong nhân dân.
Tháng 5/1868, triều đình lại cử một đoàn 8 người vào Gia
Định học chữ Pháp. Như vậy là tới những năm của nửa sau
thế XIX, yêu cầu đổi mới về các mặt chính trị, kinh tế,
văn hoá, giáo dục đã được đặt ra với Việt Nam nhằm giải
quyết những khó khăn to lớn của đất nước, yêu cầu đó
cấp thiết và mạnh mẽ đến nỗi ngay cả vua quan triều
Nguyễn vốn bảo thủ và trì trệ cũng không thể không nhận
thấy, và trong một phạm vi nhấn định đã có những việc làm
nhằm giải quyết các khó khăn to lớn đó để đưa đất
nước thoát cơn nghuy khốn.
Nhưng kiểm điểm lại, tất cả các việc đó còn rụt rè, có
tính chất thăm dò, và thường là để đối phó với thời
cuộc nên thiếu kiên trì và thiếu triệt để, thường khi bị
bỏ dở, nhất là khi các đề xuất đổi mới lại cho các giáo
sĩ hay các giáo dân - những người mà triều đình dè bỉu gọi
là "dĩu dân" - đưa ra thì vua Tự Đức và các quan lại trong
triều ngoài địa phương thường đem lòng nghi ngờ, lo ngại vì
đã nhập cục một cách sai lầm họ với bè lũ thực dân tay
sai.
Vì vậy có khi do tình thế bức bách phải dùng họ thì cũng
dùng nửa vời và sẵn sàng bỏ rơi họ nửa chừng. Cuối tháng
9/1866, Tự Đức phái Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Điền (cả
hai người đều là giáo dân) cùng đi với giám mục Gauthier
(Ngô Gia Hiệu) sang Pháp mua tầu, máy móc, sách khoa học kỹ
thuật… Chuyến đi đó có mua được một số hàng hoá, nhưng
căn cứ vào bức thư viết tháng 12 năm đó của Thượng thư
bộ Lễ triều đình Huế gửi vào Sài Gòn cho phó đô đốc De
La Grandière, thống soái và tổng chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp, thì thấy rõ việc mua bán rất tuỳ tiện, không có kế
hoạch cụ thể, thích gì mua nấy nên lợi ích mang lại rất
hạn chế, như đã mua một số máy móc thiên văn, máy điện
thoại, các dụng cụ cho nghề in, các loại axit sun fu rich, ni tơ
rích v.v… và một số sách nói về thuật hàng hải, về
điện khí, v.v…
Đó là không nói rằng trong rất nhiều trường hợp đã tìm
mọi cớ khó khăn để cự tuyệt các đề nghị đưa lên, và
phổ biến nhất là bỏ rơi trong im lặng.
Từ năm 1863 đến năm 1871, trong vòng 8 năm rưỡi, Nguyễn
Trường Tộ đã kiên trì gửi lên triều đình tới 30 điều
trần, đề cập một cách có hệ thống tới hàng loạt vấn
đề cấp thiết nhất của Tổ quốc đứng trước nguy cơ mất
còn ngày một ngày hai sẽ tới.
Thế mà trước sau tất cả các đề nghị đó - những bản
đề nghị có thể nói được viết bằng máu và nước mắt,
bản đề nghị cuối cùng được Nguyễn Trường Tộ viết ngay
trên giường bệnh, khi tử thần đang chờ ngoài cửa - đều
vấp phải sự thờ ơ, lãnh đạm từ vua Tự Đức xuống tới
các quan lại trong triều ngoài nội.
Thậm chí trước thái độ kiên trì của Nguyễn Trường Tộ,
vua Tự Đức có lần nổi nóng, đã có lời quở trách vừa
chủ quan, vừa thiển cận: "Nguyễn Trường Tộ qua tin ở các
điều y đề nghị… Tại sao lại thúc giục nhiều đến thế,
khi mà các phương pháp cũ của Trẫm đã rất đủ để điều
khiển quốc gia rồi".
Đến Nguyễn Trường Tộ là một người nổi tiếng học giỏi,
từng có cơ hội đi ra nước ngoài tham gia học hỏi, lại
được giới chính trị và giáo hội Thiên chúa muốn dùng, thế
mà còn bị Tự Đức và triều đình coi thường, xem khinh như
vậy, thì việc cự tuyệt những đề nghị của một giáo dân
bình thường là Đinh Văn Điền ở huyện Yên Mô (Ninh Bình) như
đặt nha Dinh điền để khai khẩn ruộng hoang, khai các mỏ,
đóng hỏa thuyền, đưa vào người phương Tây để lập các kho
Bình chuẩn ở các nước để lưu thông hàng hóa, của cải cho
nhân dân, tự do dạy và học binh thư, thưởng phạt nghiêm minh,
có chính sách thích hợp với thương binh và gia đình tử sĩ
v.v…cũng là điều tất nhiên mà thôi!
Lúc còn có thời gian để đổi mới mà không biết chớp lấy
thời cơ cũng là thất bại, huống chi đến lúc đã quá muộn,
kẻ thù đã buộc chân, trói tay rồi thì còn hy vọng gì nữa!
Cho nên đến hai bản "Thời vụ sách" của Nguyễn Lộ Trạch
ra đời vào các năm 1877 và 1882 - lúc này hiệp ước Giáp Tuất
(1874) đã được ký kết xác nhận quyền chiếm đóng lâu dài
và vĩnh viễn của thực dân Pháp trên toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ -
thì chỉ có ý nghĩa nói lên tấm lòng yêu nước nhiệt thành
của người trí thức khao khát muốn đem những điều sở đắc
của mình ra giúp nước, nhưng đã thấy trước sự thất bại.
Chính Nguyễn Lộ Trạch đã đau đớn nhận rõ: "<em>Đại thế
ngày nay không còn là đại thế như ngày trước. Ngày trước
còn có thể làm mà không làm, ngày nay muốn làm mà không còn
thì giờ và làm không kịp...</em>".
Thế mà Tự Đức vẫn thường trách là "ngôn hà quá cao"
(nói sao quá cao), rồi đình việc cử ông sang Hương Cảng học
cơ sảo. Sẽ là thiếu sót khi đề cập tới các đề nghị
cải cách đổi mới dưới triều Nguyễn mà không nhắc tới
Bùi Viện, một con người kết hợp khá chặt chẽ tư duy đổi
mới với hành động, và đã được Tự Đức dùng vào một
số công việc cụ thể như thành lập độ Tuần dương quân
bảo vệ mặt bờ biển, mở cửa cảng Hải Phòng, hai lần đi
sứ sang Hương Cảng và nước Mỹ vào các năm 1873 và 1875,
nhưng công việc đã bị dang dở với cái chết đột ngột năm
1878.
Như vậy là đến nửa cuối thế kỷ XIX thì tất cả những
đề nghị đổ mới lớn nhỏ, hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh
ở Việt Nam đều nối tiếp nhau thất bại. Tất nhiên có
nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của các đề nghị
đối mới đó.
Một phần là do các đề nghị đó, kể cả các đề nghị của
Nguyễn Trường Tộ - nói chung đều nặng về ảnh hưởng bên
ngoài mà thiếu cơ sở vật chất để tiếp nhận từ bên
trong.
Mặt khác nội dung của các điều trần trên không hề đả
động gì đến yêu cầu cơ bản của lịch sử Việt Nam hồi
đó là giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt
Nam: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với tư bản Pháp xâm
lược và giữa nhân dân lao động - chủ yếu là nông dân -
với giai cấp phong kiến hủ bại đang trượt dài trên con
đường khuất phục đầu hàng thực dân Pháp.
Vì vậy đã không được chính ngay nhân dân đang sục sôi bầu
nhiệt huyết đánh giặc cứu nước nhiệt tình hưởng ứng và
hăng hái đứng ra làm hậu thuẫn, khả dĩ tạo thành một sức
ép đáng kể đối với giới cầm quyền, buộc họ phải nghiêm
chỉnh thực hiện.
Nhưng nguyên nhân quan trọng quan trọng nhất - có thể nói là
chủ yếu - làm cho các đề nghị đổi mới thời đó thất
bại là do thái độ bảo thủ, phản động của vua quan triều
đình, tuy có lúc do tình thế thúc bách nên có chủ trương một
vài đổi mới về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục...,
nhưng về cơ bản thì trong tư tưởng, cũng như trong cơ cấu
chính trị vẫn không hề thay đổi, nên không bảo đảm cho
việc đổi mới được thực hiện triệt để, trót lọt,
thường là nửa chừng bị bỏ dở.
Công cuộc đổi mới nửa cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam vì các
hạn chế ngặt nghèo trên nhất là thiếu sự tham gia của
đông đảo quần chúng - nên cũng chỉ giới hạn trong một số
người, một bộ phận nhỏ bên trên mà thôi, chỉ là một xu
hướng mới trong phong trào yêu nước nói chung của nhân dân ta
hồi đó.
Cứ tiếp nối đà phát triển đó, bước sang những năm đầu
thế kỷ XX, trong những điều kiện lịch sử khác trước, yêu
cầu đổi mới của xã hội Việt Nam ngày càng trở nên cấp
thiết hơn và được thể hiện qua hai xu hướng bạo động và
cải cách song song tồn tại và phát triển.
Nhưng cũng phải đợi tới cuộc vận động duy tân tiến tới
những cuộc đấu tranh chống thuế năm 1908 với sự tham gia
đông đảo của quần chúng nông dân miền Trung - hay ở mức
độ thấp hơn là Đông Kinh nghĩa thục ngoài Bắc - thì mới
thật sự trở thành một phong trào đổi mới có vị trí xứng
đáng và ảnh hưởng to lớn trong lịch sử đấu tranh giải
phóng lâu dài và anh hùng của dân tộc.
<em>GS. NGND Đinh Xuân Lâm - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch
sử VN<br />
(Theo Hội Sử học Việt Nam)</em>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4185), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét