Kiến nghị đình chỉ vụ án Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm)

<div class="boxcenter450"><img
src="http://www.danluan.org/files/u5311/ba_sam_3.jpg" /><div
class="textholder"></div></div>

*****

<strong><center>CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc</center></strong>

<center>________________________</center>

<div class="rightalign">Hà Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2014</div>

<strong><center>KIẾN NGHỊ ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN</center></strong>

V/v: Đề nghị Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao ra quyết định
đình chỉ vụ án "Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng
các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" theo điều
258, BLHS.

<strong>Kính gửi: Ông Nguyễn Hoà Bình Viện trưởng Viện kiểm
sát Nhân dân Tối cao</strong>

Tôi là Lê Thị Minh Hà, vợ ông Nguyễn Hữu Vinh, hiện cư trú
tại 4D Đặng Văn Ngữ , phường Trung Tự, quận Đống Đa ,
thành phố Hà Nội, gửi tới ông kiến nghị như sau.

- Căn cứ vào bản kết luận điều tra của Cơ quan An ninh
Điều tra, Bộ Công An;

- Căn cứ vào bản kiến nghị của Luật sư Hà Huy Sơn, Công ty
Luật TNHH Hà Sơn thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, địa
chỉ số 156 Lê Đức Thọ kéo dài (Trần Vĩ), phường Mai Dịch,
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội;

Tôi nhận thấy Cơ quan An ninh Điều tra (CQANĐT) đã vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như sử dụng các
chứng cứ làm căn cứ buộc tội không hợp pháp, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do của chồng tôi, cụ
thể như sau:

<strong>Lệnh bắt khẩn cấp vi phạm các quy định của Bộ
luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS)</strong>

Lệnh bắt khẩn cấp dựa trên chứng cứ được thu
thập một cách bất hợp pháp
Theo hồ sơ vụ án, CQANĐT, Bộ Công an đã căn cứ vào tin báo
là Công văn số 469/CV ngày 01/04/2014 của Cục Bảo vệ Chính
trị 6 (Cục 6), Tổng cục An ninh I để khởi tố vụ án.

Tại Công văn 469/CV ngày 01/04/2014, Cục 6 cho biết trước đó
Cục đã nhận được: Văn bản số 223/CV-FPT-TEL-NOC và
283/CV-FPT-TEL-NOC, ngày 19 và 31/03/2014 của Công ty cổ phần Viễn
thông FPT; văn bản số 486/VDC-CN và 495/VDC-CN, ngày 31/03 và ngày
01/04/2014 của Công ty Điện toán và Truyền số liệu VDC.

Các Văn bản này thông báo kết quả việc họ (FPT, VDC) theo yêu
cầu của Cục 6 đã theo dõi và cung cấp thông tin cá nhân của
khách hàng cho Cục 6. Hành vi này của FPT, VDC là trái với quy
định của điều 38 Bộ luật Dân sự 2005 và khoản 2 Điều 26
Nghị định 72/2013/NĐ-CP, khi không có quyết định phê chuẩn
của Viện kiểm sát. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại,
điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân
chỉ được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy
định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.

CQANĐT khi nhận được tin báo của cơ quan, tổ chức đã không
tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin một cách đầy đủ theo
quy định của Điều 103, BLTTHS và khoản 2 Điều 10, Thông tư
liên tịch số 06/2013/TTLTBCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC để xác định
thiệt hại của tổ chức, cá nhân người bị hại, danh tính
của tổ chức, danh tính cá nhân trước khi quyết định khởi
tố vụ án.

<strong>Với việc vi phạm trình tự thu thập chứng cứ
ngay từ đầu, toàn bộ các tiến trình tố tụng sau đó
đều đương nhiên không có hiệu lực.</strong>

Lệnh bắt khẩn cấp không thỏa mãn điều kiện bắt
khẩn cấp của BLTTHS
Lệnh bắt khẩn cấp ngày 05/05/2014 của CQANĐT, Bộ Công an
đối với ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo
điểm c, khoản 1, Điều 81, BLTTHS 2003: "Khi thấy có dấu vết
của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị
nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ." và sau đó
ra lệnh tạm giam ông Vinh và bà Thúy là vi phạm tố tụng.

Tại các bút lục số 331, 332 trong hồ sơ vụ án thể hiện khi
khám xét khẩn cấp nơi ở của ông Nguyễn Hữu Vinh và bà
Nguyễn Thị Minh Thúy cùng ngày 05/05/2014 không thu được chứng
cứ nào ngoài một số các bài viết được in ra tại nhà từ
máy tính của ông Vinh, bà Thúy.

Bản kết luận điều tra số 14/ANĐT ngày 30/10/2014 của CQANĐT
sau này cho rằng các bài viết in ra được xác định là chứng
cứ, bao gồm: ở máy tính của ông Vinh có 06 bài in từ blog
chepsuviet.wordpress.com, ở máy tính của bà Thúy có 02 bài in ra
từ blog diendanxahoidansu.wordpress.com.

Ông Vinh không ký biên bản khám xét mà chỉ có 02 người chứng
kiến ký là: Ông Phạm Văn Vinh, Cảnh sát khu vực phường Xuân
La, quận Tây Hồ, Hà Nội và ông Ngô Sỹ Lợi, người láng
giềng.

Bà Thúy không ký biên bản khám xét mà chỉ có 02 người làm
chứng kiến ký là: Ông Hoàng Chí Thanh, Cảnh sát khu vực
phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội và bà Nguyễn Thị
Khiêu, người láng giềng.

Không có căn cứ để khẳng định những người chứng kiến
việc khám xét ngày 05/05/2014 là có kiến thức, hiểu biết về
internet nên việc chứng kiến của họ là không có giá trị
khách quan. Điều này đồng nghĩa CQANĐT không có căn cứ cho
rằng các bài viết được in ra ở trên là chứng cứ, hay đó
là các dấu vết của tội phạm tại chỗ ở của ông Vinh, bà
Thúy.

Các bài viết trên mạng internet Cơ quan điều tra đều biết
trước và hoàn toàn có thể in ra từ internet và thu giữ máy
tính của ông Vinh, bà Thúy để in ra các tài liệu lưu trong đó
mà không ai (ông Vinh, bà Thúy) có thể tiêu hủy được hoặc
cản trở.

<strong>Chứng cứ làm căn cứ luận tội được thu thập không
đúng quy định pháp luật.</strong>

CQANĐT chỉ căn cứ vào các văn bản của các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ viễn thông (Công ty cổ phần viễn thông FPT,
Công ty điện toán và truyền dẫn số liệu VDC, Công ty cổ
phần viễn thông Hà Nội HTC, Công ty dịch vụ viễn thông
Vinaphone) để khẳng định tính liên quan của các thông tin cung
cấp với bị can Nguyễn Hữu Vinh và bị can Nguyễn Thị Minh
Thúy mà không trưng cầu giám định là vi phạm Điều 64 và
Điều 66 BLTTHS.

Các văn bản do các doanh nghiệp trên cung cấp không đảm bảo
tính khách quan (điều 10 BLTTHS), tính hợp pháp để xác định
trách nhiệm hình sự của các bị can.

Kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin và
Truyền thông không phải là chứng cứ hợp pháp, bởi vì:

Căn cứ Luật giám định tư pháp 2012, Khoản 1, Điều 2, quy
định:
"Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử
dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ
thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn
đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án
hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu
cầu giám định theo quy định của Luật này."

Như vậy, giám định tư pháp là việc sử dụng các kiến
thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp
vụ để kết luận về chuyên môn để xác lập chứng cứ vật
chất liên quan đến hoạt động điều tra vụ án.

Do đó, các tài liệu là 37 bài viết theo Quyết định trưng
cầu giám định số 60/ANĐT-P3 ngày 07/08/2014 của CQANĐT mà Kết
luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin và Truyền
thông là những chứng cứ phi vật chất không thuộc đối
tượng của giám định tư pháp.

Căn cứ:
Luật giám định tư pháp 2012, Khoản 1, Điều 3 về "Nguyên
tắc thực hiện giám định tư pháp", quy định: "Tuân thủ
pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn."

Khoản 2, Điều 41 về "Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ
quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư
pháp", quy định: "Ban hành quy chuẩn giám định tư pháp
hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động
giám định tư pháp theo yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực
giám định thuộc thẩm quyền quản lý."

Thông tư số 24/2013/TT-BTTTT ngày 27/12/2013 của Bộ Thông tin và
Truyền thông, kKhoản 1, Điều 10 về "Áp dụng quy chuẩn
chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp;", quy định:

"Hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và
truyền thông được thực hiện căn cứ vào quy chuẩn chuyên
môn trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiện hành (bao gồm
Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh
vực thông tin và truyền thông) và các văn bản pháp luật có
liên quan đến nội dung cần giám định."

Có thể khẳng định, kết luận giám định ngày 19/09/2014
của Bộ Thông tin và Truyền thông không tuân theo một quy chuẩn
chuyên môn nào trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiện
hành.

Do đó, kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin
và Truyền thông không phải là chứng cứ hợp pháp.

<strong>KIẾN NGHỊ:</strong>

Căn cứ khoản 3 điều 58, khoản 1 điều 107, khoản 1 điều 169
BLTTHS 2003, tôi đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao:

- Ra quyết định đình chỉ vụ án "Nguyễn Hữu Vinh cùng
đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân" theo điều 258, BLHS"; và

- Trả tự do ngay cho ông Nguyễn Hữu Vinh Và bà Nguyễn Thị Minh
Thuý. Xin trân trọng cảm ơn.

Người làm đơn

(đã ký)

LÊ THỊ MINH HÀ

Nơi nhân:

- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang;

- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng;

- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng;

- Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141205/kien-nghi-dinh-chi-vu-an-nguyen-huu-vinh-ba-sam-0),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét