Vương Trí Nhàn - Tìm hiểu chính sách đào tạo lớp trí thức mới của Xô Viết để hiểu trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954

Tập tiểu luận <i>Về trí thức Nga</i> (La Thành và Phạm Nguyên
Trường dịch, nxb Tri thức H. 2009) gồm có nhiều bài viết
xuất sắc

<i>+ Chân lý của triết học và sự thật của người trí
thức </i>

<i>+ Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh của tầng lớp trí
thức </i>cả hai cùng của tác giả N.A. Berdaev

<i>+ Tầng lớp kỹ giả -- </i>Alekssandr Solzhenítsyn

<i>+ Phẩm tính trí thức </i>-- Dmitri Likhachev

Riêng bài <i>Bàn về số phận của tầng lớp có học ở
Nga</i> của Sergey Kirilov thì bàn sâu vào lớp trí thức Nga sau
1917. Tầng lớp này đã được quan niệm như thế nào, nhà
nước xô viết đã hình thành họ theo những cách thức ra sao,
tại sao giới trí thức Nga lại có bộ mặt như chúng ta đang
thấy, tại sao trong thời đại mới, đa số những người này
dừng lại ở cái trình độ thảm hại và kèm theo những suy
đồi về đạo đức quá rõ so với trí thức Nga trước Cách
mạng.

Chúng tôi lược thuật bài này, cốt để các bạn xa gần qua
đó, từ trí thức Nga sau 1917, có thể hiểu thêm về lớp trí
thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954.

Trong cơn thức tỉnh sau chiến tranh, nay là lúc xã hội thường
hay chê trách lớp trí thức này về mọi mặt. Nhưng nếu hiểu
được người trí thức ở ta là thế và được nhào nặn như
thế, chúng ta sẽ độ lượng với họ hơn với nghĩa… bớt hy
vọng ở họ hơn.

Cũng như ở các nền văn hóa khác, nền văn hóa Nga trước 1917
mang tính thượng lưu. Lí do, chỉ có một số người có thể
làm được việc mà đa số không thể làm nổi. Trí thức nói
chung chỉ chiếm tối đa 10%, còn thấp nhất là 2 - 3%. Ở các
cộng đồng khác đã vậy, ở Nga trước 1917 cũng vậy.

Đến thời Xô Viết, có một xu thế chỉ đạo việc đào
tạo, đó là tạo nên giới tri thức không có sự tách biệt
với dân chúng như thời Nga hoàng. Để làm được việc đó,
người ta xóa bỏ những chuẩn mực cần thiết, tạo ra một
lớp trí thức yếu ớt phàm tục, không có khả năng độc lập
mà phụ thuộc nhà nước, do đó sống chết cũng phải trung
thành với nhà nước. Tầng lớp trí thức này luôn luôn được
bổ sung bởi các bộ phận ít học là quần chúng công nông, cho
nên nó chỉ có trình độ rất thấp và một cấu trúc dễ bị
phá vỡ.

<b>Từ căm ghét đến tiêu diệt trí thức cũ và thay thế bằng
trí thức mới</b>

Chính quyền Xô Viết có một niềm căm ghét đặc biệt đối
với nền văn hóa trước cách mạng, tồn tại trong lòng nó
một giai tầng có học mang tính hiện đại. Do yêu cầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, những năm đầu, họ phải sử dụng
tạm thời lớp trí thức đó, nhưng nhanh chóng tìm cách dần
dần thủ tiêu những người này -- cả với nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng là làm biến chất họ --, thay vào đó là những
người của mình.

Cách mạng đặt ra mục đích tiêu diệt trí thức đồng thời
tiêu diệt văn hóa cũ.

Mặc dù số trí thức tham gia nội chiến không nhiều, nhưng
đại diện của tầng lớp trí thức vẫn chiếm từ 80 – 90%
những người chống đối việc thiết lập chế độ Bolsevik.
Lúc ấy một phần lớn trí thức Nga là người trong quân đội.

Vào năm 1917, tất cả những người có học, trong độ tuổi
nghĩa vụ, đều là sĩ quan.

Những người <i>Bolsevik</i> nhận thức rõ kẻ thù thật sự
của họ trong cuộc nội chiến không phải là bọn tư sản và
địa chủ, mà chính là tầng lớp trí thức có quân hàm hoặc
không đeo quân hàm.

Cuộc khủng bố đỏ được tiến hành nhằm vào tầng lớp
trí thức ấy.

Các lãnh tụ <i>Bolsevik </i>coi việc giai cấp vô sản đã bẻ
gãy được ý chí của tầng lớp trí thức là sự bảo vệ
tốt nhất cho thắng lợi của cách mạng trong tương lai. Và cái
mục đich cao cả ấy được dùng để biện hộ cho những hành
động phản tiến hóa của họ.

Sự đàn áp thô bạo, nạn đói, bệnh dịch – vốn là hậu
quả của cách mạng – làm mấy trăm ngàn trí thức thiệt
mạng, một số thì lưu vong.

Những người còn sống sót thì bị thù ghét. Họ không có
chỗ đứng trong các sơ đồ mác - xit bởi lúc nào cũng làm
vướng cẳng các lí thuyết gia mác - xit. Theo quan niệm của
những người xây dựng xã hội mới thì trong tương lai tầng
lớp này sẽ không còn. Hệ thống giáo dục có mục đích tạo
ra "một sự đồng nhất về mặt xã hội" (tương tự như
Việt Nam từng có khẩu hiệu <i>Trí thức hóa công nông và công
nông hóa trí thức</i> -- VTN)

<b>Đào tạo lớp người thay thế. </b>

<b>Bùng nổ về số lượng đi đôi với sự hạ thấp chất
lượng</b>

Tầng lớp trí thức Nga trước cách mạng có số lượng tương
đối nhỏ, khoảng từ 2- 3 triệu người tức khoảng 3% dân
số.

Ngược lại, dưới chính quyền Xô Viết, sự phát triển trí
thức lại có tính cách ồ ạt, nhà nước chủ trương một sự
phát triến nhanh chóng và giả tạo số người có học.

Tại sao cần vậy?

Luôn luôn trong giới trí thức cũ, người ta nhận ra những
chuyên gia nổi loạn.

Nảy sinh nhu cầu thay thế.

Nhưng cái mà người không thể làm được là chất lượng.

Vậy phải bù vào bằng sự dư thừa số lượng để tạm an
lòng.

Hầu như trong tất cả các giai đoạn lịch sử, người ta
đều cố gắng thúc đẩy việc đào tạo các chuyên gia và phát
triển hệ thống trường học. Mục đích là "biến tất cả
mọi người thành trí thức" và không để cho giai tầng này
được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa. Tốc độ đào tạo
kỹ sư và chuyên gia các ngành khác nhau vượt xa nhu cầu của
nền kinh tế và được quyết định chủ yếu bởi nhu cầu
chính trị và tuyên truyền.


Có thể thấy sự gia tăng đột ngột số lượng người có
học diễn ra trong những năm 1930 qua các con số - chỉ trong một
chục năm lớp người này đã gia tăng gần 300%, riêng số
người có bằng đại học và trung học chuyên nghiệp gia tăng
360%.

Cú bùng nổ thứ hai diễn ra trong những năm 1950 – 1960, lúc
đó trong một số ngành tốc độ phát triển lên đến 100% trong
có một chục năm.

Nhưng đặc điểm chung của cả hai giai đoạn bùng nổ này là
lớp tri thức mới có trình độ thấp hơn rất nhiều so với
chuẩn mực trên thế giới.

<b>Những trí thức xa lạ với văn hóa</b>

Cuối những năm 80, cả Liên Xô có 87 triệu chuyên gia, trong
đó 16 triệu người tốt nghiệp đại học. Sự phình ra một
cách vô giới hạn tầng lớp tri thức dẫn đến hiện tượng
giả tạo là mặc dù mức độ phát triển khoa học kĩ thuật
và văn hóa xã hội của Liên Xô thấp hơn so với các nước
phát triển ở châu Âu, nhưng lại đứng đầu về số lượng
bác sĩ kỹ sư cán bộ nghiên cứu khoa học. Không chỉ về số
lượng tuyệt đối mà Liên Xô còn đứng đầu tỉ lệ trí
thức tính theo đầu người. Đồng thời lớp trí thức này
lại được trả lương ở mức thấp nhất. Sự thấp kém nói
ở đây không phải về giá trị tuyệt đối mà là thấp hẳn
so với mức lương trung bình của cả nước.

Trở lại với sự so sánh trí thức cũ và mới. Nét đặc
biệt của người trí thức mới là họ phải phủ nhận bản
chất tinh hoa của mình. Kết quả là không có gì chung giữa
tầng lớp có học hiện nay với lớp tri thức của nước Nga
xưa.

Trong xã hội Xô Viết, một người bình thường (không phải
nhân vật mà nhà nước đào tạo) gần với văn hóa truyền
thống hơn là người có học kiểu Xô Viết.

Người bình thường ấy còn giữ khái niệm về một nền văn
hóa chân chính.

Nhưng người bình thường ấy lại không phải là nhân vật
chủ đạo của xã hội.

Người có học thời Xô Viết không hiểu gì về người trí
thức trước cách mạng, cũng chả hiểu gì về châu Âu và văn
hóa cổ điển. Họ bịa đặt ra một số nét đặc thù của
văn hóa Nga, mà thực tế chỉ là thứ văn hóa bị hạ thấp và
đứng ngoài mọi chuẩn mực.

<b>Hợp thức hóa tình trạng vô học của giới quan chức. </b>

Không chỉ đẩy mạnh đào tạo và tăng nhanh sinh viên, người
ta còn đề cử những người không có bằng cấp làm những
việc đòi hỏi trí thức, bằng cách đó tạo ra một sự hỗn
loạn mà chỉ chủ nghĩa xã hội mới có.

Môt đặc điểm của bộ máy quan chức Xô Viết là sự phình
ra vô tội vạ. Số lượng nhân viên nhà nước thời Nga hoàng
tính tới 1917 là 576.000, tới 1923 – 1925 con số quan chức đã
lên tới 2.230.000.

Vấn đề cắt giảm bộ máy phải nói đến thường xuyên,
nhưng sát nhập, giải tán… chỉ là trò đùa. Không thể
tưởng tượng nổi chế độ Xô Viết mà không có quá trình
quan liêu hóa.

Việc làm giảm trình độ giới trí thức nói chung còn được
thúc đẩy bởi việc có một số chuyên gia thực hành chỉ học
theo lối hàm thụ cũng được đề bạt đặc cách.

Sinh ra hàng loạt chức vụ đòi hỏi đại học, việc này tạo
ra đơn đặt hàng giả tạo với ngành giáo dục.

Người ta đòi hỏi có bằng cấp ngay cả khi đó là nghề lao
động bình thường (kiểu đại học phòng cháy chữa cháy của
Việt Nam VTN).

Do hệ thống lương bổng quái gỡ, lại sinh ra hiện tượng có
những người chỉ làm công việc như công nhân cũng phải xoay
sở bằng được lấy bằng đại học, vì chỉ nhờ thế họ
mới được tăng lương, -- tuy đó chỉ là đồng lương chết
đói (nhưng lại đã là quá cao so với lao động của họ. VTN)

<b>Sự tầm thường đã đến với lớp người vốn được coi
là cao quý</b>

Người ta đã học như thế nào?

Phần lớn giới trí thức Liên Xô được đào tạo rất hời
hợt. Nguyên tắc lớn nhất của giáo dục Xô Viết là tầm
thường hóa lao động trí óc, tầm thường hóa quá trình đào
tạo những kẻ muốn phát triển về mặt trí tuệ.

Trong những năm 1920 – 1930 người ta sử dụng rộng rãi
phương pháp "học theo đội", chỉ cần một sinh viên trả
lời đúng là cả nhóm được cho qua kỳ kiểm tra. Các chuyên
gia được đào tạo theo kiểu đó vốn có trình độ khá thấp
ngay trước khi nhập trường, sẽ không thể nào so sánh được
với các trí thức trước cách mạng. Trình độ văn hóa chung,
nhất là trình độ các môn khoa học nhân văn do hệ thống nhà
trường Liên Xô đào tạo không những đơn sơ cổ lỗ mà còn
sai lầm có hại, vì đó không phải là kiến thức văn hóa
thực thụ, mà đã bị làm méo bởi các nguyên tắc tư tưởng
của đảng. Các môn học nhằm tạo ra cơ sở văn hóa tổng
quát được dạy rất ít. Các trường đại học khoa học tự
nhiên không có môn này, còn trong các trường khoa học xã hội
nhân văn thì sinh viên lại được học một số kiến thức
giống như thần học.

Đặc trưng của trí thức Nga là tính chất quý phái, tức là
sang trọng vượt lên sự tầm thường, kết quả của sự tu
dưỡng nhiều đời, có sự tham gia của kiến thức sách vở.

Tất cả những người có học đều có phẩm chất quý tộc
ấy. Có quý tộc một đời lại có quý tộc <i>kế thế,</i>
nhiều đời – bộ phận nhiều đời này mới thật là tinh hoa
ổn định.

Có chân trong giới thượng lưu, người ta dễ dàng giữ được
sự độc lập về tinh thần, dễ tự tin, tin vào giá trị thật
của mình, và giữ được tính độc lập trước mọi hệ
thống quyền lực. Có điều lạ là cả một giáo sư đại học
lẫn ông giáo làng dạy tiểu học, họ đều chia sẻ cảm giác
tự hào mà trí thức vốn có. Khi người trí thức không có
cảm giác về thân phận cao quý của mình thì họ cho phép mình
làm bậy.

Ở trên chúng ta đã xét tới việc học ngày nay. Học như thế
thì làm sao giới trí thức mới có được cảm giác quý phái
mà trí thức cũ đã có.

Thời Xô Viết, người ta chỉ lo tri thức không quên nguồn
gốc công nông của mình. Bộ phận trí thức xuất thân lớp
trên bị hạ nhục, bị làm phiền: người ta chỉ muốn họ
quên họ từ đâu tới.

Nguyên tắc giai cấp, chiếu cố giai cấp, ưu tiên giai cấp, cho
phép tình trạng phi chuẩn mực đối với những con người
thuộc giai cấp công nông bộc lộ khá lộ liễu và thô bạo.

Đầu cách mạng, số sinh viên xuất thân từ tầng lớp có
học, tức là lớp thượng lưu cũ chiếm 2/3.

Tới 1923, số này chỉ còn lại ½

Tới đầu những nằm 30 thì còn lại 20 – 10%.

Kết quả là ¾ trí thức Xô Viết là hạng F1 mới từ công
nông lên. Đó là các trí thức một đời. Người trí thức
khộng có khái niệm về sự cao quý của mình, về lòng tự
trọng.

<b>Trí thức cấp thấp và quan chức cấp cao. Xu thế bành
trướng</b>

Trước 1917, người trí thức giữ chức vụ cao trong bộ máy
nhà nước không có bất động sản. Nhưng lương họ cao – cao
gấp vài chục lần người lao động chân tay.

Sau cách mạng, thu nhập trí thức chỉ nhỉnh hơn chút ít so
với thu nhập công nhân. Nếu thêm việc các quỹ gọi là
"phúc lợi xã hội" cũng được tái phân phối theo hướng
có lợi cho công nhân thì cho đến năm 1980, mức sống của
tầng lớp trí thức chỉ bằng một nửa hoặc 40% mức sống
của công nhân.

Ví dụ giáo viên thì lớp giáo viên tiểu học còn đỡ; lớp
dạy đại học chỉ được nhận 20% mức lương trước cách
mạng. Từ đó nảy sinh trong tầng lớp trí thức xu thế quan
liêu hóa vì chỉ trở thành quan chức trong giới của mình thì
mới có thể có mức thu nhập cao.

Sự xây dựng tri thức trong xã hội Xô Viết tiến hành theo
nguyên tắc phản chọn lọc. Nó tiêu diệt những người ưu tú,
lại cất nhắc những kẻ tồi tệ. Quá trình chọn lựa kéo
dài hơn một nửa thế kỉ, những kẻ xấu xa nhất đã dẫn
đến kết quả là, không những nhóm lãnh đạo chính trị chóp
bu, mà cả những nấc thang thấp hơn của kim tự tháp quyền
lực, đều nhung nhúc những kẻ không ra gì.

Đấy là lý do vì sao chế độ Xô Viết về nguyên tắc là
không thể thay đổi được, dù lãnh đạo cao nhất bị thay
đổi.

Nếu tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực quản lí trước cách
mạng bao gồm những người được giáo dục và có học vấn
tốt nhất trong thời đại của mình, và tầng lớp tinh hoa
chính trị trong các nước châu Âu ngày nay cũng bao gồm chủ
yếu là những người đã tốt nghiệp các trường đại học uy
tín nhất, thì ở Liên Xô, bức tranh hoàn toàn ngược lại.

Tầng lớp lãnh đạo chính trị cao nhất gần như là những
người có trình độ học vấn văn hóa kém nhất trong số
những người lao động trí óc.

Mặc dù trong thời Xô Viết cũng có một số trường đại
học có chất lượng cao nhưng hiếm khi những người tốt
nghiệp các trường đại học như thế được gia nhập vào bộ
phận tinh hoa trong lĩnh vực quản lí. Tầng lớp quản lí
thường chỉ bao gồm những người tốt nghiệp các trường
đại học tỉnh lẻ cộng với các trường Đảng cao cấp,
nghĩa là những trường đại học có trình độ văn hóa thấp
nhất nếu không nói là giả đại học.

Trình độ học vấn kém cỏi của giới quan chức dẫn đến
sự đối lập quan chức – trí thức. Bộ máy quản lí thời
Khruchev là một ví dụ tiêu biểu của chất lượng giáo dục
khi họ tham gia vào việc quản lí.

Đây là giai đoạn mà sự tầm thường hóa giáo dục đại
học đạt đến đỉnh điểm. Lạm phát trí thức bùng nổ với
nghĩa hàng chục trường đại học không đủ điều kiện đã
được thành lập.

Đây cũng chính là giai đoạn hình thành cơ sở cho việc sản
xuất thừa các chuyên gia.

Kết quả và quá trình bành trướng số người lao động trí
óc đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng uy tín của lao
động trí óc. Tương lai của khoa học cũng gánh chịu những
hậu quả nặng nề. Biên chế của các viện nghiên cứu khoa
học tăng theo cấp số nhân.

Kể cả những kẻ tầm thường vốn không thể có hi vọng và
bản thân không hề nghĩ việc nghiên cứu khoa học, cũng trở
thành các "nhà khoa học".

Đến những năm 80 họ đã trở thành gánh nặng, khiến cho
những dự định cải cách chỉ trở thành ảo tưởng. Hơn thế
nữa, lúc đó do quá trình thay đổi thế hệ, lớp trẻ hãnh
tiến này đã chiếm giữ hầu hết các vị trí lãnh đạo trong
khoa học và thực hiện chính sách tri thức dội từ trên xuống
theo đúng bản chất của mình.

<b>Kết cục khó tránh</b>

Chế độ Xô Viết, sau hàng chục năm phấn đấu đã gần
đạt được thành công trong việc loại bỏ tầng lớp trí
thức như một hiện tượng xã hội đặc thù, như một cơ cấu
tương đối hoàn chỉnh; hoàn toàn loại bỏ được đặc trưng
mang tính thượng lưu của nó; và xóa bỏ được sự khác biệt
về trình độ học vấn và vốn văn hóa giữa nó với đám
quần chúng được gọi là nhân dân.

Có những khó khăn nhất định ngăn cản không cho tầng lớp
có học hiện nay nhận thức được sự bất toàn về mặt xã
hội của mình. Cơ sở tư tưởng của chế độ toàn trị cộng
sản là sự sùng bái "con người bình thường". Sau hàng
chục năm bị thôi miên rằng chân tay quan trọng hơn đầu óc
và đầu óc là để phục vụ cho chân tay, thì đầu óc – tức
là lớp trí thức -- đã quen dần với định đề phản tự
nhiên đó. Họ dần đánh mất phần lớn khả năng tư duy của
mình và cho đến nay vẫn chưa có đủ dũng khí vươn lên để
khẳng định vai trò của mình trong xã hội.

Những thành quả sáng chói của nền khoa học và văn hóa Nga
thế kỉ XIX được tạo nên bởi những con người sinh ra trên
những nguyên tắc có nguồn gốc từ sự phát triển xã hội ba
thế kỉ trước.

Còn việc cố tình hạ thấp vai trò của trí thức và tiêu
diệt trên thực tế tầng lớp này sau 1917 lại chỉ bắt nguồn
từ sự trì trệ trong vận động lịch sử của những thập
kỉ gần đây.

Kết quả là chúng ta có một tầng lớp có học nhưng không có
khả năng thực hiện các thiên chức của nó.

Cuối cùng trong xã hội Xô Viết, chỉ có một chút ngoại lệ
là các nhà trí thức hàn lâm và các nhà kĩ thuật quân sự,
vốn được đào tạo như một khu vực tách rời khỏi xã hội.
Sau năm 1991, chính bộ phận này khi ra nước ngoài đã hòa nhập
được với giới khoa học của các nước phương Tây.

Muốn thay đổi được thực trạng nói trên thì chính nhà
nước phải có một quan niệm khác đi về giới tri thức. Phải
công nhận rằng trong xã hội Xô Viết đã hình thành một
lớp<b> kỹ giả </b>ngu dốt – vô năng. Đoạn tuyệt với họ
rất khó. Người trí thức chân chính sau 1991 vẫn không thể
lọt vào cả giới chính trị lẫn giới kinh doanh – môi
trường kinh doanh vốn đầy tính chất mafia của Nga.

Tầng lớp tinh hoa trí thức như một giai tầng xã hội chỉ có
thể được hình thành nhờ những cố gắng mang tính chủ
động của nhà nước. Phải bắt đầu bằng sự phủ nhận
rằng chúng ta đã làm sai, đào tạo sai thì sau đó mới có thể
bắt tay làm lại mọi việc. Không có sự cố gắng như thế,
đất nước trong trường hợp tốt nhất chỉ biến thành
người cung cấp chuyên gia cho các nước khác mà thôi.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141023/vuong-tri-nhan-tim-hieu-chinh-sach-dao-tao-lop-tri-thuc-moi-cua-xo-viet-de-hieu-tri),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét