Đỗ Trường - Dương Thu Hương, người đi giữa hai làn đạn

<center><img
src="http://nguoivietblog.com/dinhquanganhthai/wp-content/uploads/2012/04/DuongThuHuong-1-1024x768.jpg"
width="500" /></center>
Không hiểu thế quái nào, từ những thập niên cuối
của thế kỷ hai mươi đến nay, văn chương đất Việt,
lại mắc phải chứng bệnh lệch pha. Âm phần thịnh
vượng khí xung. Dương phần sợ gió máy, đụng chạm
chướng khí, đâm ra lại còi cọc. Điều này, càng rõ
ràng hơn, ngay sau khi ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh hứa
hẹn cởi trói, bóc keo dán miệng cho văn nghệ sỹ. Chúng
ta thấy, đã xuất hiện một loạt tên tuổi của những
văn nhân, nữ sĩ, từ Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, đến
Phạm Thị Hoài… Sự can đảm, tiếp nối nhau ấy của
họ, tuy ở những mức độ khác nhau, nhưng đã góp phần
không nhỏ, cho sự hồi sinh dòng văn học hiện thực phê
phán.

Cho đến tận hôm nay, vẫn có những ý kiến, đôi lúc
còn khác nhau, nhưng có lẽ, không ai có thể phủ nhận,
nhà văn Dương Thu Hương là người đã bập nhát cuốc
đầu tiên, khơi thông dòng chảy này.

<b>*Có một giai điệu lạ, lạc ra khỏi trong dàn đồng ca
ấy. </b>

Tôi không rõ, chính ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, hay
văn kiện của Đảng, hoặc ai đó đã viết: TBT Nguyễn
Văn Linh kêu gọi, hãy cởi trói cho các văn nghệ sĩ. (Như
vậy, có sự khẳng định, từ trước đến nay, các văn
nghệ sĩ đã bị trói tay, bịt miệng) Câu văn này, đã
được nhắc lại nhiều lần, trong bài viết của các
giáo sư, các nhà ngôn ngữ học và từ cả các văn nghệ
sĩ ở trong nước. Đọc nó, tôi thấy rất mâu thuẫn và
dường như có một chút hề hề. Bởi, Đảng cộng sản
là đảng cầm quyền. Từ trước đến nay, chính Đảng
(mới đủ khả năng) trói tay, bịt miệng các văn nghệ sỹ
và kiểm duyệt sách báo. Vậy, ông TBT đứng đầu đảng
kêu gọi ai, cởi trói cho các văn nghệ sĩ? Khi chính ông
thắt và đang cầm cái dây đó. Hay ông đang kêu gọi chính
ông? Người bình thường, không ai, làm một công việc kỳ
quái như vậy.

Vâng! Một lời kêu gọi, rặt tính vờ vịt, vô trách
nhiệm, chạy tội này, không hiểu các giới trí thức
trong nước, có suy nghĩ gì, khi sử dụng câu văn này?

Phải nói, đây là thời kỳ khởi sắc nhất của văn
học trong nước, kể từ sau Nhân Văn- Giai Phẩm. Một loạt
tên tuổi nhà văn và các tác phẩm của họ, đã tách
hẳn ra khỏi dàn đồng ca, tụng ca, tìm một hướng đi,
cách viết mới, rửa lại bộ mặt nhem nhuốc cho nền
văn học trong nước. Những Thân Phận Tình Yêu(Nỗi Buồn
Chiến Tranh) của Bảo Ninh, Tướng Về Hưu của Nguyễn Huy
Thiệp…gắn liền với tên tuổi của bà đỡ Nguyên
Ngọc. Thiết nghĩ, dù có đổi mới, có cởi trói cho
văn nghệ sĩ, nhưng nếu không có Nguyên Ngọc, khao khát
cái mới của người đọc ở thời điểm ấy, thì
những tác phẩm trên chưa chắc đã thành công đến như
vậy. Bởi, đến nay, có nhiều tác phẩm, xét về nghệ
thuật cũng như nội dung, không hề thua kém Nỗi Buồn
Chiến Tranh, hay Tướng Về Hưu, nhưng lại không được công
kênh, chào đón nồng hậu như vậy, vì thiếu địa lợi,
vắng nhân hòa và bàn tay bà đỡ như Nguyên Ngọc. Qủa
thực, văn chương thơ phú, cũng như con người, đều có
số phận của nó.

Khi các nữ sĩ Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm Thị
Hoài…vẫn đủ can đảm và nội lực viết thẳng tưng
về những vấn đề nhức nhối nhất của xã hội, con
người, thì các đấng văn nhân dường như, ngòi đã bị
xì, bị tịt. Người đọc, chờ cuốn tiểu thuyết kế
tiếp của Bảo Ninh, đến nay, đã một phần tư thế kỷ,
nhưng vẫn thấy tít tắp mù xa. Nguyễn Huy Thiệp lại
chuyển sang (gam) truyện dài, tiểu thuyết lịch sử, nhưng
anh đã thất bại, về cả nội dung, tư tưởng lẫn nghệ
thuật viết. Gần đây, nghe nói, anh tuyên bố, rửa tay
gác bút.

Thật là buồn thay! Các nhà văn thuở ấy, hồn khí ở
nơi đâu bây giờ?

Nhà văn Dương Thu Hương, sinh năm 1947 tại Thái Bình, chị
đã có những năm tháng dài là người lính, ở mặt
trận ác liệt Bình Trị Thiên. Rất may mắn, chị còn
sống và trở về, sau chiến tranh. Giải ngũ, chị vào
học trường viết văn Nguyễn Du và làm việc trong ngành
điện ảnh. Và từ đây, chị chuyên tâm, và hoàn toàn
dấn thân vào con đường văn chương đầy khổ ải này.

Có thể nói, trong chiến tranh, Dương Thu Hương đã mờ
mờ nhận ra, không riêng thế hệ chị, mà cả một dân
tộc bị dối lừa. Nhưng chỉ đến khi, kết thúc cuộc
chiến, chị mới nhận thức được rõ ràng, đầy đủ.
Đắng cay là như vậy, nhưng dường như, Dương Thu Hương
đã kịp kìm lại nỗi đau ấy. Sự dồn nén, đợi chờ
đó, nó chỉ phát nổ và cháy lên, khi chị đã có một
chỗ đứng, và trở thành nhà văn Dương Thu Hương nổi
tiếng.

Thật vậy, những bài văn chính luận, những trang sách
hiện thực phê phán của chị đã phơi trần những sự
thật, từ cung đình xuống đến đời sống dân cày.
Để từ đó, Dương Thu Hương đã xổ toẹt Đảng, ly dị
hội nhà văn. Và cánh cổng nhà tù, đã mở ra cho chị
từ đây…

Có một số nhà văn, nhà nghiên cứu cho rằng, những
tác phẩm của Dương Thu Hương gây tiếng vang và đọng lại
trong lòng người, phần nhiều do chính trị. Nhưng với
tôi, không hẳn như vậy. Bởi, chị đã đứng hẳn về
phía nhân dân để viết. Và chính sự thật trong những
cuốn sách của chị, đã mở cửa, cho độc giả nước
ngoài, tiếp cận và hiểu đúng về văn học Việt, cũng
như nỗi thống khổ của con người. Từ đó, làm tên
tuổi của chị gần gũi, và được người đọc trong,
ngoài nước yêu mến nhiều hơn, là lẽ đương nhiên.

Tuy đến với văn chương hơi muộn, nhưng Dương Thu Hương
viết nhanh và khỏe. Kể từ năm 1980, đến những năm
cuối thập niên chín mươi, dường như năm nào chị cũng
ra sách. Đặc biệt, năm 1985, chị cho in ba, bốn tập
truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết nhanh và khỏe như
vậy, nhưng có thể nói, tập truyện nào của Dương Thu
Hương cũng hay, nhiều người tìm đọc, kể cả những
truyện ngắn đầu tay. Tư tưởng, cách viết của chị
đã vượt ra khỏi cái dàn đồng ca, tụng ca ấy. Và
cũng chính nó, đã xé toạc bóng tối của đời sống
con người, xã hội, mà bấy lâu nay người ta cố tình
che đậy. Thật vậy, nếu văn chương không đi thẳng vào
đời sống xã hội, một cách trung thực nhất, thì nó
chỉ là những trang viết chết.

Nếu như được phép lựa chọn, những cuốn sách đại
diện cho sự nghiệp văn chương của Dương Thu Hương, thì
chắc chắn, tôi sẽ nghĩ đến tiểu thuyết Những Thiên
Đường Mù và tập truyện Chân Dung Hàng Xóm. Đây là hai
cuốn sách điển hình về tư tưởng, nghệ thuật viết
truyện của chị. Nhưng nhìn từ góc độ khác, Tiểu
Thuyết Vô Đề (Khải Hoàn Môn), lại là cuốn sách tôi
thích hơn cả. Bởi Dương Thu Hương rất can đảm, đánh
giá lại, đưa ra cái nhìn rất mới về chiến tranh,
ngoài ra còn nhiều chi tiết, tình huống phức tạp, dễ
gây tranh luận với lối hành văn nhanh, sinh động, khác
với cách viết thông thường của chị.

<b>*Nhà văn phản kháng- Sự phản kháng trong văn chương</b>

Cùng với Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, Tháng Ba
Gãy Súng của Cao Xuân Huy, Tiểu Thuyết Vô Đề là cuốn
sách viết về chiến tranh hay nhất mà tôi đã được
đọc. Có thể nói, Tiểu Thuyết Vô Đề là cuốn tự
truyện trong tiểu thuyết, mổ xẻ tâm lý người lính,
trước sự tàn nhẫn man rợ của chiến tranh. Cuốn sách
này, được xuất bản ở Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1991, khi
Dương Thu Hương đang ngồi tù ở Việt Nam. Đặt bút
viết Tiểu Thuyết Vô Đề, chắc chắn, chị đã lường
trước được áp lực không chỉ của chính quyền trong
nước, mà còn cả phần đông người Việt ở nước
ngoài. Nhưng chị đã vượt qua cả hai làn đạn ấy, để
có một tác phẩm văn học, hay đến như vậy. Thì quả
thật, làm cho người đọc không chỉ yêu mến tài năng,
mà còn cảm phục, tinh thần, lòng dũng cảm của chị.

Có thể nói, khuynh hướng mới, tự truyện trong tiểu
thuyết gần đây, đã cho người đọc hiểu được tác
giả và cuộc sống, thời đại đó, soi rọi qua chính
những tình tiết, gắn liền cuộc đời hay những trải
nghiệm thật của họ. Tiểu Thuyết Vô Đề cũng vậy,
nhà văn Dương Thu Hương, đã dùng đại từ nhân xưng ngôi
thứ nhất, thay cho Quân, thuật lại thân phận, cuộc đời
người lính chiến. Tư tưởng, cảm xúc của tác giả,
được thông qua sự hồi tưởng, hành động nhân vật,
bằng thủ pháp bẻ đôi câu chuyện, cắt ngang cuộc đời
Quân. Và lời tự thuật của người lính, được bắt
đầu từ nhát cắt ấy.

Ngay những dòng đầu tiên, Dương Thu Hương đã dẫn
người đọc vào cận cảnh rùng rợn của cuộc chiến.
Dù không có tiếng bom rơi, đạn nổ, nhưng ta đã cảm
được cái chết ở đâu đó, hoặc nó đang đến rất
gần: " <i>Suốt đêm tôi nghe gió hú ngoài vực cô hồn. </i>

<i>Tiếng rên rỉ triền miên, tiếng nức nở, đôi lúc tiếng
rít hỗn hào như ngựa cái hí ngày động cỡn. Mái lán rung
bần bật, những ống tre nứt thổi sáo từng hồi, tấu lên
giai điệu thê lương của đám tang vùng thôn dã. Cây đèn chai
của chúng tôi phập phù như muốn tắt. Tôi thò cổ khỏi chăn,
thổi tắt ngọn lửa, mong bóng đêm sẽ bịt hết mọi giác
quan…" (chương1) </i>

Vâng! Đó là cái chết tang thương của sáu cô gái ở
binh trạm hay thanh niên xung phong, người miền Bắc, mà tác
giả cho rằng, (có thể) do những người lính thám báo
VNCH gây ra. Chi tiết này, gây ra phản ứng, tranh cãi cho
người đọc, nhất là những người lính VNCH. Như có
lần tôi đã viết, là người sinh sau đẻ muộn, rất may,
tôi không phải tham gia, cuộc chiến huynh đệ tương tàn,
đẫm máu và nước mắt này. Nhưng đọc và nghe, tôi cảm
được quân kỷ, cũng như phẩm chất của người thám
kích nói riêng và người lính VNCH nói chung. Cho nên, đến
lúc ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn không tin,
hành động dã man bỉ ổi đó, do một số người lính
thám báo gây ra. Nhưng, đọc Tháng Ba Gãy Súng của người
sĩ quan VNCH Cao Xuân Huy, viết về hành động giết chính
đồng đội mình, của lính thủy quân lục chiến, rồi
quăng xác xuống biển, chỉ vì chỗ ngồi trên tàu, khi di
tản, rút chạy, làm tôi thấy khó hiểu. Buộc tôi phải
hoài nghi: Sự quân kỷ của lính thám báo VNCH, có lẽ, nó
lại nằm trong cái (xác suất) số dư như trong toán học
chăng?

Sự giết chết đồng đội của nhóm lính thủy quân
lục chiến, giữa chốn đông người, tôi cho rằng, còn
dã man, tàn bạo hơn nhiều lần, so với những kẻ đã
giết 6 nữ thanh niên xung phong, là người của phía bên kia.

Tôi hoàn toàn, không tìm ra lời giải đáp. Và tôi chỉ
còn có thể an ủi mình: Chiến tranh điều gì cũng có
thể xảy ra.

Vâng! Chúng ta nghĩ gì? Khi đọc đoạn trích hồi ký
dưới đây:

"…<i>Chưa kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
</i>

<i>Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác
một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển.
Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí súng vào
đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh: </i>

<i>"Ðụ mẹ, có xuống không?" </i>

<i>"Tôi lạy anh, anh cho tôi đi theo với." </i>

<i>"Ðụ mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao
bắn." </i>

<i>"Tôi lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này." </i>

<i>"Ðụ mẹ, một." </i>

<i>"Tôi lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy
bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết. Tôi lạy anh, tôi lạy anh." </i>

<i>"Ðụ mẹ, hai." </i>

<i>"Trời đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương
gì tôi hết. Tôi lạy anh mà." </i>

<i>"Ðụ mẹ, ba." </i>

<i>Tiếng ba vừa dứt, tiếng súng nổ. </i>

<i>Người trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ
nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào từ đỉnh đầu.
Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến
khác khiêng ném xuống biển. </i>

<i>Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng
vào đầu một thiếu tá Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp người
ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí: </i>

<i>"Ðụ mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?" </i>

<i>Ông thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không
còn hột máu, run lên cầm cập, năn nỉ: </i>

<i>"Anh tha cho em, anh tha cho em." </i>

<i>"Ðụ mẹ, một…." (Tháng ba gãy súng –chương 5- Cao Xuân
Huy)</i>

Vâng! Tôi cũng định dừng sự việc đau đớn này ở
đây, bởi tình tiết trên, không phải là điều chính, tôi
muốn viết, muốn bàn trong bài này. Nhưng trời đã về
khuya, màn đêm dày đặc trước ô cửa, không có gió, mà
lòng cứ thấy nao xao, buộc tôi phải bật dậy. Tôi
ngồi, viết những suy nghĩ của mình, gửi cho hai người
anh văn chương lớn tuổi. Các anh là sĩ quan cấp tá quân
đội VNCH, đều chỉ huy trung đoàn ngoài mặt trận. Rất
may, cả hai anh đều viết, trả lời những thắc mắc, suy
nghĩ của tôi. Tuy nhiên, là kẻ hậu bối, tôi không dám,
không đủ khả năng kết luận đúng sai. Nhưng khi đi sâu
vào phân tích Tiểu Thuyết Vô Đề, tôi giữ nguyên những
tình tiết vốn có trong tác phẩm.

Và cũng xin phép các anh, tôi đưa nguyên văn bức thư ấy
lên đây, để bạn đọc tự suy xét, có đánh giá của
riêng mình vậy:

<i>"1/- Lính thám báo (biệt kích) hầu hết đều được chọn
lựa rất kỹ càng, sau đó cũng phải trải qua một thời kỳ
huấn luyện nghiêm khắc. Không phài chỉ có khả năng tác
chiến, mưu sinh giỏi mà quan trọng là tinh thần kỷ luật rất
cao. Tất cả đều đáng tin cẩn. Vì các toán thám báo hoạt
động đơn độc và hầu hết trong các công tác thật nguy
hiểm, nếu không có kỷ luật, họ sẽ không thi hành nghiêm
chỉnh mệnh lệnh của cấp chỉ huy, nhất là trong tình trạng
sinh tử. Vì vậy, việc nhà văn Bảo Ninh (hay là Dương Thu
Hương) kể về hành động của tham báo (biệt kích) trong các
tác phẩm của họ, dưới con mắt của người lính miền Nam,
sẽ trở nên quá cường điệu, nếu không nói là... không
thể.</i>

<i> Điều nên nhớ là nhiệm vụ chính của lính thám báo hay
biệt kích là đột nhập (âm thầm) vào vùng địch để ghi
nhận tin tức, tình hình của quân địch, hay bắt sống địch
mang về khai thác. Chỉ nổ súng khi thực sự cần tự vệ (nếu
bị phát hiện), và nhanh chóng phân tán,tìm mọi cách thoát ra
khỏi vùng địch. Với họ, nổ súng là điều tối kỵ và bất
lợi nhất. Như vậy các sự kiện (theo Bảo Ninh và DTH) kể:
các thám báo bắt địch quân (lính gái hay TNXP) tra khảo, hảm
hiếp... (nhẫn nha ngay trong lòng địch một thời gian khá dài)
là điều không đúng! </i>

<i>2/- Về chuyện đám lính TQLC bắn giết các quân nhân không
cùng binh chủng trên các tàu di tản từ Đà Nẵng (theo Tháng Ba
Gãy Súng của Cao Xuân Huy) là chuyện có thật. Là một vết nhơ
đáng lên án. Nhưng bản chất sự việc khác hẳn với chuyện
Thám Báo.</i>

<i>Vì đám lính này thuộc loại vô kỷ luật. (Có nhiều thanh
niên du đảng, phạm pháp, sau thời gian thụ xong án, cũng
được đưa vào lính, bổ sung cho một số đơn vị hao hụt
quân số). Với bản chất (xấu) ấy, lợi dụng khi đơn vị
gặp lúc xáo trộn, mạnh ai nấy sống, không còn được sự
chỉ huy chặt chẽ nữa, thì những con người này trở về với
bản chất xấu của họ, giết người, cướp bóc. Vì vậy, sau
khi các chiếc tàu di tản từ miền Trung vào Nam, đã không cho
cặp bến Vũng Tàu hay Sài gòn, mà tất cả được lệnh cặp
vào Đảo Phú Quốc. Một Tòa Án Mặt Trận đã được thành
lập khẩn cấp tại đây, hầu hết những người lính TQLC
phạm tội đều bị xử bắn.</i>

<i>Do đó, theo mình, những tên lính lưu manh. phạm tội này,
không thể so sánh với những người lính thám báo hay biệt
kích. Khác nhau rất xa, mà người sĩ quan miền Nam nào cũng
nhận thấy khác biệt rất rõ ràng."</i>

Tuy có lần, nhà văn Dương Thu Hương đã tuyên bố, dùng
văn chương để làm chính trị. Nhưng khi đọc, nghiên cứu,
tôi thấy những tác phẩm của chị được chia thành hai
mảng, chính luận và văn hiện thực phê phán nhân đạo,
rất rõ ràng. Nếu như, văn chính luận của chị đanh
thép, quyết liệt, hừng hực sức chiến đấu chống
bạo quyền, làm nên tên tuổi nhà văn phản kháng Dương Thu
Hương, thì văn học hiện thực, nhân đạo xoáy sâu vào
nỗi đau của con người, xã hội, lại làm nên một nhà
văn Dương Thu Hương can trường và tài hoa khác.

Phải nói thẳng, từ sau Nhân Văn- Giai Phẩm bị đàn áp,
đến năm đầu đầu thế kỷ này, chưa có nhà văn nào,
can đảm viết thẳng thắn, máu lửa như Dương Thu Hương.
Những ngày tháng tù đày ấy, dường như càng làm cho
tinh thần chị vững vàng và can đảm hơn lên. Những bài
viết, những trang sách của chị, không chỉ còn là nhát
dao chọc vào ung nhọt của xã hội nữa, mà nó như trái
bom, dội xuống đầu chế độ và nhà cầm quyền. Do
vậy, sách của chị, cho đến nay, hoàn toàn bị cấm
xuất bản và phát hành trong nước.

Việc cấm xuất bản và phát hành, kể cả những cuốn
sách văn học hiện thực nhân đạo, của những nhà văn
Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài… gần đây,
cho thấy rõ một điều, nhà nước chưa bao giờ từ bỏ
lý lịch hóa, chính trị hóa văn học. Với cách quản lý
văn hóa, nhưng lại thiếu văn hóa, ích kỷ, thiển cận
như vậy, gây thiệt thòi cho người đọc và tổn hại cho
cả nền văn học, vốn dĩ đã èo uột.

<b>*Hệ quả quái thai được sinh ra từ chiến tranh.</b>

Ngược dòng lịch sử, đất Việt ta đã trải qua bao phen
chống ngoại xâm và những năm tháng dài nội chiến,
chém ngang hình đất nước, nhưng chưa cuộc chiến nào
tàn nhẫn, man rợ như cuộc chiến huynh đệ tương tàn
vừa qua. Chủ thuyết nào, ý thức hệ nào, đã ấn
súng, ấn dao vào tay học sinh, sinh viên, và cả những
người nông dân chất phác, hiền lành, để họ lao vào
nhau chém giết, một cách thú vật, điên cuồng như vậy?

Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, vậy mà, trải qua
mấy chục năm và bao thế hệ, không tìm ra câu trả lời.
Bởi, lời giải đáp ấy, đã được che giấu, bằng
họng súng và tù đầy. Và chỉ đến khi, người nghệ
sĩ, nhà văn Dương Thu Hương dám đánh đổi tù đày, thì
sự thật mới được phơi bày. Một sự thật, ai cũng
biết, nhưng không đủ can đảm nói và viết ra.

Để viết những trang sách này, Dương Thu Hương đã
bước ra khỏi cuộc chiến, ra khỏi hận thù, để tìm
góc nhìn trung thực nhất. Thông qua lời tự thú của
Quân, nhà văn không chỉ vạch trần tội ác dã man tàn
bạo, của người lính miền Bắc, mà còn vạch ra hành
động vô nhân đối với đồng loại của người lính
thám kích miền Nam. Chúng ta, đọc lại đoạn trích dưới
đây, để thấy được cách giết người man rợ của
người lính miền Bắc:

<i>"…Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc
trong các trận giáp lá cà. Và gã kể lại cho đồng đội nghe
với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng
xuống tim, - kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, - kẻ
gã lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là
một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ quan
nguỵ, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp
của y như một cặp cá thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên
xuống "Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng
mắt…".(chương 11)</i>

Khi người lính miền Bắc, đang sung sướng, vui mừng,
tìm ra những kiểu giết người mới, thì người lính
miền Nam lại điên cuồng với những với những kiểu
hãm hiếp, giết người thời trung cổ:

<i> "…Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối
khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác
truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi
khắp đám cỏ xung quanh. </i>

<i>Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi
kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là
những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh
trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó
bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như
chúng tôi rồi vấp bọn thám báo. </i>

<i>Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái
xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy
mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ
hay một con cóc chết!… "(chương 1</i>)

Viết đến những hình ảnh man rợ này, chợt làm tôi
nhớ đến câu chuyện, hơn bốn mươi năm trước. Tôi có
người chị họ khá xinh đẹp, làm việc ở Hòa Bình.
Đầu những năm 1969-1970, chị đang là đối tượng kết
nạp Đảng. Thời kỳ đó, thương binh, bộ đội người
miền Nam ra Bắc tập kết, an dưỡng khá đông. Thành
phần này, rất được chính quyền ưu đãi. Bọn này,
thường tụ tập bầy đàn, rượu chè, ăn nhậu, không
chịu trả tiền, đập phá, đốt nhà, đánh người vô
cớ… Nhưng chính quyền thường làm ngơ. Không hiểu sao,
có một thương binh quê ở miền núi An Khê, Bình Định,
đem lòng yêu người chị họ tôi. Lúc đầu, chị không
chịu, nhưng có lẽ, do sắp xếp của tổ chức hay vì cái
thẻ Đảng viên, nên chị gật đầu. Cưới được một
thời gian, chị dẫn hắn về nhà tôi chơi. Bữa tối, mẹ
tôi mua lòng lợn, đãi khách. Cả nhà đang ăn ngon lành,
tự nhiên hắn kể chuyện chiến trường. Đến đoạn
giết tù binh, lấy gan xào với rau rừng ăn, làm cả nhà
buông bát đứng dậy. Lúc đó, tôi hơn chục tuổi, nhưng
do tính tò mò, ngồi nghe hết câu chuyện ăn gan người
của bọn hắn. Theo hắn, bọn hắn ăn thịt đồng loại,
không hẳn là vì đói, mà cần cảm giác và ăn cho biết
vậy thôi. Sau năm 1975, hắn cũng không chịu về quê Bình
Định. Sau này, nghe nói hắn bị điên. Không rõ, bị điên
vì bị vợ bỏ, hay bị vật, bởi những linh hồn người,
hắn đã ăn gan xẻ thịt.

Không ai có thể giải thích được, những cái quái
đản, mà người ta đã đưa vào cuộc chiến này. Nó như
những thứ bùa ngải hận thù, không chỉ nhử một dòng
họ, gia đình, anh em, mà cả dân tộc lao vào chém giết
nhau.

Vâng! Một sự nhồi sọ của chủ thuyết quái thai, không
tưởng, hay một học thuyết bán mua chiến tranh của những
kẻ đến từ bên kia bán cầu. Chúng cùng nhau, đưa cả
dân tộc đến tuyệt lộ. Đoạn văn diễn tả sự dã man,
lòng hận thù đến mù quáng, lên tới tột đỉnh,
dưới đây, là những tiếng kêu bi thảm, xót xa, hay là
một lời ai điếu cho cả một dân tộc, của Dương Thu
Hương?

<i>"…Hai bên đều hò hét, cả hai bên đều điên cuồng chém
giết, - cả hai bên đều rú lên khoái trá khi máu đối phương
phụt khỏi tim, óc đối phương vọt khỏi não, - cả hai bên
đều quằn quại như sâu bọ dưới những làn đạn lửa, -
phần sống sót lê khỏi chiến địa để làm mồi dự trữ cho
các mặt trận tiếp theo, - phần đã chết tự hiến nốt hình
hài cho các loài ác thú và dòi bọ. </i>

<i>Cả hai bên đều yên trí là mình đã hy sinh xứng đáng cho
lý tưởng. Than ôi, họ có chung một nòi giống, con của mẹ Âu
Cơ và cha Lạc Long Quân. Họ là những hữu thể được tái sinh
trong cùng một bào thai - không xứ sở nào có được cái huyền
thoại mê ly đến thế!. "(chương 13)</i>

<b>*Quan tài, đường đi đến của cuộc chiến huynh đệ
tương tàn</b>

Hành trình, dòng người cõng những cỗ quan tài, đi ra
nơi có tiếng súng nổ, là biểu tượng, là con đường
chết của cuộc chiến này. Và đó cũng là thông điệp
nhà văn muốn gửi đến người đọc, về giá trị, kết
cục của nó, trong tác phẩm Tiểu Thuyết Vô Đề. Chiếc
quan tài đó, không chỉ chứa thể xác, mà nó còn là
những nấm mồ chôn đi ham muốn, linh hồn khát vọng của
con người.

Nếu ta đã đọc, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, hay Những Thiên
Đường Mù, thì thấy tính ẩn dụ, so sánh trong Tiểu
Thuyết Vô Đề, đã đạt đến mức độ cao hơn. Thủ
pháp nghệ thuật này, được chiếu rọi từ những ký
ức rời rạc, đứt quãng của Quân, (người thuật
truyện) xuyên suốt tác phẩm.

Đọc đoạn văn dưới đây, ngoài cái quặn đau cho một
kiếp nhân sinh, ta còn thấy được, trong binh đao khói
lửa, còn đâu nữa cái đẹp, thanh bình từ tạo hóa sinh
ra. Chiến tranh đã nhập đồng vào linh hồn, với người
lính, vẻ đẹp chỉ còn hiển hiện trong cái chết, trong
sự chém giết nhau điên cuồng. Đây là một trong những
đoạn văn ẩn dụ, so sánh, hay và rung động nhất, mà tôi
đã được đọc:<i>"… Đoàn người mang những cỗ quan tài
in hình trên đường viền của núi, giữa khung cảnh rạng
đông. Bóng họ đi động chậm chạp nhưng kiên nhẫn, mê mải.
Hành trình. Con người tự vắt kiệt sức mình để đem được
quà dâng cho chiến trường. Trong các tặng vật ấy, biết đâu
chẳng có một chiếc dành cho tôi?... Và tôi, và bất cứ
người lính nào cũng đã sẵn sàng tiếp nhận món quà kì lạ
đó... Trong cả hai hành động, có chung vẻ đẹp tuyệt vời
của chiến tranh. </i>

<i>Bất chợt, tôi sực nhớ tiếng kêu xé ruột, man đại của
mẹ tôi, gương mặt dầm mồ hôi, nỗi đau làm méo mó một
cách kinh dị. Rồi cũng chính trên gương mặt méo mó kinh dị
ấy, ngời lên nụ cười rạng rỡ hạnh phúc khi tiếng khóc oe
oe của đứa con cất lên và đôi bàn chân đỏ hỏn của nó
quẫy đạp trong không khí... Đó, vẻ đẹp mặn mòi của đời
sống, vẻ đẹp của tạo sinh. Vẻ đẹp ấy đã xa vời. Nó
lẩn khuất với những kỷ niệm vụn vặt thời thơ bé. Tôi
bỗng kinh hoàng. Người ta không thể cùng một lần đắm mình
vào hai dòng nước…" (chương 9)</i>

Có người đã mạt sát, hành vi chủ động, van xin
được làm tình với Quân là thú vật của Viếng,
người nữ quân nhân, một mình quanh năm canh nghĩa địa,
sống với xác chết, giữa rừng. Tôi cho đây là cái
nhìn khắt khe, thiếu cảm thông. Bởi, hành động đó là
bản năng, khao khát sống, khao khát yêu, khao khát làm tình
của con người. Ai cho Viếng, một cơ hội, một ước
vọng đó? Khi chiến tranh bom đạn và những xác chết đang
bủa vây lấy cô. Nếu như, ta đã đọc những câu thơ của
người lính VNCH Huỳnh Hữu Võ, chắc chắn sẽ có cái
nhìn khách quan, cảm thông hơn về Viếng, về những
người lính cả hai phía, nơi chiến trường: <i>Anh phải
ngủ thật nhiều ban ngày/để đêm từng đêm ngồi ôm súng
gác/anh phải cười nơi đây thật to/để khỏi nghe tiếng
súng/anh phải văng tục nơi đây cho đã/vì thiếu bóng đàn bà
suốt tháng/anh phải thủ dâm.</i>

Tôi nghĩ, nếu như nhà văn để Quân không từ chối cự
tuyệt Viếng, thì tính nhân đạo sẽ nhân lên. Và chắc
chắn, người đọc sẽ thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, ý đồ
của tác giả, muốn bật lên cái tàn nhẫn tận cùng
của chiến tranh, sẽ phải giảm đi.

Đọc Tiểu Thuyết Vô Đề, ta không chỉ thấy được bản
năng sống, khao khát yêu, nhu cầu sinh lý con người bị
tước bỏ, để cho những người lính, như Biền phải
làm tình với cả súc vật, một cách nhục nhã như
vậy. Mà ta còn thấy được, sự giả dối lưu manh ngay
trong chiến tranh, của những tướng lãnh, những kẻ chuyên
giảng giải đạo đức. Hình ảnh so sánh dưới đây, cho ta
thấy rõ điều đó:

<i>"…Lũ dân thường như chúng ta, chịu cực đủ điều, bóp
miệng bóp mồm, bóp cả đến con c... Tụi tướng lĩnh nó có
khổ như thế đâu? Ra Bắc vào Nam, đâu đâu chúng nó cũng có
đàn bà. Ngày xưa thì là phi là thiếp, giờ thì các
đồng-chí-nữ phục vụ! Trò đểu, thời nào cũng giống nhau
là thế!..." (chương 6)</i>

Sự lưu manh, giả dối ấy, không dừng lại mức độ ăn
chơi hưởng lạc, nó đã được đẩy lên mức giết
người tàn nhẫn. Nhân danh đảng, cùng với sự dốt nát
của mình, chính ủy trung đoàn đã đưa cả đại đội
nướng vào cái cối say thịt. Từ đây, ta thấy rõ hơn,
sinh mạng người lính trong chiến tranh, dưới bàn tay của
những kẻ cuồng vọng này, quả thật, chỉ là trò chơi,
quá rẻ mạt:

<i>"Lão Hữu muốn lập công với sư đoàn nên quyết định
đánh lẻ. Bọn dưới nịnh lão, ủng hộ kế hoạch tác chiến
vắng mặt sư trưởng. Lão lại là bí thư đảng ủy trung
đoàn, toàn thể các đảng ủy viên nhất trí quyết định của
ban thường vụ. Đại đội trinh sát vừa muốn lấy lòng lão
Hữu, vừa lười nên báo cáo ẩu, đia hình địa vật hoàn toàn
sai. Thế là đại đội B41 của thằng em tôi được lệnh tiêu
diệt các hỏa điểm của địch, mở đầu trận F.E.18. Chúng
nó bò tới trận địa, vừa rút xẻng ra đào hầm trú ẩn thì
bị ngay. Ở đó, không phải loại đất pha cát như tụi trinh
sát báo cáo, thuần một thứ đất sỏi pha đá ong già, lưỡi
xẻng chọc xuống là lửa lóe lên. Các hỏa điểm đích cứ
thấy đốm lửa lóe lên ở đâu là nã cối và các loại đạn
nóng vào đó. Đại đội B41 phơi lưng, không một hòn đá, gốc
cây ẩn núp. Địch trút cả núi đạn xuống. Hôm sau phải
điều động ba đại đội tới đánh trả và lấy xác các tử
sĩ ra. Lại thêm năm mươi nhân mạng hy sinh..."(chương12)</i>

<b>*Lời sám hối dưới cái nhìn nhân bản</b>

Thật kỳ lạ, hai cuốn tiểu thuyết có cách viết và
cái nhìn rất mới về chiến tranh lại thuộc về hai
nhà văn nữ. Đó là Tiểu Thuyết Vô Đề của Dương Thu
Hương và Dạ Tiệc Qủi của Võ Thị Hảo. Khi đọc, tôi có
cảm giác khác hẳn, bởi nó đã giải mã được bản
chất của sự việc, cùng bộ mặt thật của những kẻ
đứng sau cuộc chiến vừa qua. Mà những cuốn sách khác
chỉ mới dừng ở mức độ, bóc trần sự tàn nhẫn,
khốc liệt và thân phận con người sau chiến tranh, kể
cả Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.

Thật vậy! Khải hoàn môn ấy, được tạo bằng xương
máu của cả một dân tộc khổ đau, nhưng vinh danh lại
thuộc về những kẻ bán mua chiến tranh. Những lý
tưởng, những hình tượng thánh thần, chỉ là liều
thuốc, ru người vào trong khói lửa binh đao. Từ cái
nhìn ấy, Dương Thu Hương đã mỉa mai, điểm mặt chỉ
tên, những kẻ đứng sau, thực sự là ông chủ của cái
Khải hoàn môn đó:<i>"Chúng tao thờ một chủ thuyết. Chúng
mày cũng thờ một chủ thuyết. Vị thần chúng tao thờ tên là
Mác, mũi lõ, mắt xanh, râu rậm. Còn vị thần chúng mày thờ
tên là gì? Tóc thưa hay tóc rậm? Trán hói hay trán vuông? Để
râu dê hay râu cáo?"(chương 12)</i>

Và cũng chính cái chủ thuyết hoang tưởng đó, đã đẻ
ra tầng lớp thống trị mới, với những phương thức cai
trị quái đản, phi nhân. Nếu nhìn lại lịch sử, từ cải
cách ruộng đất đến những gì đang xảy ra trên đất
mẹ hôm nay, ta mới thấy được trái tim nhạy cảm trong con
người nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương:

<i>"… Bây giờ, đa phần là bọn phong học cương thường
đạo lý. Họ học luân lý Mác-lê. Cướp vườn cướp ruộng
nhà người ta cũng là theo sách Mác. Lột quần vợ người ta mà
ngủ cũng là vì lợi ích của đấu tranh giai cấp…" (chương
6)</i>

Khi chưa tàn cuộc chiến, Dương Thu Hương đã nhận ra bộ
mặt tráo trở của chế độ. Và đã vạch ra, sự coi
thường, rẻ rúng con người, của những kẻ ngồi trên, sau
cuộc chiến. Đây là cái nhìn sáng suốt, đầy ắp nhân
bản của nhà văn. Sự đập phá kho hàng chiến lợi
phẩm, không để rơi vào tay những kẻ có chức, có
quyền của những người lính, tuy là hành động tiêu
cực, nhưng nó lại là phát súng, báo hiệu sớm, cho sự
phản kháng của người dân lương thiện với cường
quyền, sau này. Rất cảm ơn, nhà văn Dương Thu Hương, đã
sớm chỉ ra điều này, từ mấy chục năm về trước:
"<i>- Em nghĩ nhiều... Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ
nói. Nhưng mà, nhân dân lúc có thật, lúc như bóng ma: Nếu cần
lúa, nhân dân là con bò kéo cày. Lúc có chiến tranh, con bò ấy
mặc áo giáp và cầm súng. Rồi, khi mọi sự đã qua, vào những
ngày lễ lạt, hội hè... người ta tôn xưng nhân dân như hú
vọng các hồn ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn
phần xôi thịt thì kẻ khác hưởng…"(chương 15)</i>

Có thể nói, Tiểu Thuyết Vô Đề có lời văn đẹp và
súc tích nhất, trong những cuốn sách của Dương Thu
Hương, mà tôi đã đọc. Tâm trạng, cũng như cái nhìn của
tác giả về chiến tranh và xã hội đương thời, đã
hiện lên rõ nét, từ diễn biến nội tâm của (nhân
vật) người lính. Và tác giả, đã giải quyết thành
công mâu thuẫn nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, không riêng
Tiểu Thuyết Vô Đề, mà các tác phẩm khác, của Dương
Thu Hương, có nhân vật và những câu thoại căng, khá lên
gân làm cho người đọc, đôi khi cảm giác hơi bị hẫng.

Tôi không dám nghĩ, Tiểu Thuyết Vô Đề là kêu tiếng kêu
đau đớn, lời sám hối chung cho một nòi giống, một cộng
đồng, như có lần nhà văn Dương Thu Hương đã viết.
Nhưng đọc nó, quả thật, tôi đã cảm được nỗi lòng
người nghệ sĩ, nhà văn qua những hành động, hay giằng
xé nội tâm nhân vật của mình. Và đây, là một trong ba
cuốn sách viết về chiến tranh, mà tôi thích. Đọc xong,
gấp cuốn sách lại, tôi vẫn cảm thấy thiêu thiếu,
dường như có điều gì nhà văn chưa nói hết….

Đức Quốc, ngày 25-10-2014
Đỗ Trường

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141026/do-truong-duong-thu-huong-nguoi-di-giua-hai-lan-dan),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét